Kẻ Nhắc Tuồng
Chương 30 – Phần 1
Thoạt nhìn, Nicla Papakidis có vẻ là một phụ nữ yếu đuối.
Có lẽ do bà thấp người và có cái hông quá khổ. Cũng có thể là do đôi mắt toát lên một sự hài hước buồn bã và khiến người ta nghĩ đến một bài hát trong vở nhạc kịch của Fred Astaire, một tấm ảnh chụp trong buổi dạ vũ mừng năm mới thời trước hoặc vào ngày cuối cùng của mùa hè.
Trên thực tế, bà là một phụ nữ mạnh mẽ.
Bà đã tạo dựng sức mạnh cho mình từng chút một, sau những năm tháng ít nhiều sống trong nghịch cảnh. Bà sinh ra ở một ngôi làng nhỏ, là chị cả và cũng là đứa con gái duy nhất trong một gia đình có bảy người con. Năm lên mười một tuổi, bà mồ côi mẹ. Bà đã phải trông nom gia đình, chăm sóc bố và nuôi dạy các cậu em trai. Nhờ bà, họ đã đỗ đạt thành tài và tìm được việc làm tốt. Nhờ tiền bạc có được từ sự hy sinh vô bờ của bà và việc thắt chặt chi tiêu trong gia đình, các em trai của bà chưa bao giờ bị thiếu thốn thứ gì. Bà đã chứng kiến các em cưới những cô gái nhà lành, xây dựng gia đình và cho ra đời hơn hai chục đứa cháu cả trai lẫn gái, niềm vui và tự hào của bà. Khi người em trai út rời khỏi mái nhà chung, bà đã ở lại để chăm sóc cho người cha già yếu, từ chối đứa ông vào viện dưỡng lão. Bà luôn nói: “Đừng có lo cho tôi. Các cậu có gia đình của các cậu, còn tôi chỉ có một mình. Đây chẳng phải là hy sinh gì đâu”.
Bà đã chăm sóc cha như một đứa trẻ cho đến khi ông được chín chục tuổi. Lúc ông mất, bà tập hợp các cậu em lại.
“Tôi đã bốn mươi bảy, tôi nghĩ từ giờ mình hết lập gia đình được rồi. Tôi không có con cái, nhưng tôi sẽ luôn xem đàn cháu như chính con ruột mình và thế là đủ. Tôi cám ơn các cậu đã mời tôi về ở cùng, nhưng ý tôi đã quyết từ cách đây nhiều năm, dù hôm nay tôi mới cho các cậu biết. Chúng ta sẽ không gặp nhau nữa, các cậu em trai yêu quý của tôi ạ… Tôi đã quyết định dành cuộc đời mình cho Chúa, và từ ngày mai tôi sẽ náu mình trong nhà tu kín cho đến khi từ giã cõi đời”.
– Hóa ra là một bà tu sĩ! – Boris vừa nói vừa lái xe, sau khi đã nghe Mila kể lại câu chuyện.
– Bà ấy còn hơn thế nhiều.
– Tôi vẫn chưa thể tin là cô đã thuyết phục thành công giáo sư Gavila. Lại càng không tin là ông ấy thuyết phục được Roche.
– Đây chỉ là một phép thử, chúng ta có mất gì đâu? Hơn nữa, tôi nghĩ ta có thể tin tưởng ở Nicla trong việc giữ kín chuyện này.
– À, việc đó thì hẳn rồi!
Trên ghế sau xe có đặt một chiếc hộp thắt dây ruy băng đỏ.
– Sôcôla là điểm yếu duy nhất của Nicla. – Mila đã nói thế khi cô yêu cầu Boris dừng xe trước một hiệu bánh.
– Nhưng bà ấy theo dòng tu kín, tức là không thể đi cùng chúng ta.
– Thật ra thì chuyện phức tạp hơn thế…
– Nghĩa là sao?
– Nicla đã sống vài năm trong tu viện. Nhưng khi họ phát hiện ra điều bà đã làm, họ đã trả bà về với thế giới bên ngoài.
Họ đến nơi sau mười hai giờ trưa một chút. Khu vực này của thành phố khá lộn xộn. Tiếng ồn ào của dòng xe cộ trộn lẫn với tiếng nhạc xập xình, tiếng la hét cãi vã phát ra từ các căn hộ, cũng như từ những hoạt động hợp pháp lẫn phi pháp đang diễn ra trên đường phố. Những người sống ở đây không bao giờ thoát được chúng. Trung tâm thành phố, nơi chỉ cách đó có vài trạm xe điện, với những nhà hàng sang trọng, các cửa hiệu và những tiệm trà, đối với họ cũng xa vời như sao Hỏa.
Thiết bị định vị toàn cầu trên xe đã ngừng cung cấp thông tin từ khi họ rời khỏi xa lộ. Những chỉ dẫn duy nhất là các hình vẽ trên tường đánh dấu ranh giới địa bàn của các băng nhóm.
Boris lái xe vào một phố ngang kết thúc trong ngõ cụt. Anh đã quan sát một chiếc xe hơi bám đuôi họ được vài phút. Một chiếc xe với hai cảnh sát ngồi trong không thể không bị chú ý bởi những tên cảnh giới vốn luôn nghe ngóng động tĩnh mọi ngóc ngách trong khu vực.
– Lái chậm thôi, và để cho chúng thấy hai bàn tay của anh. – Mila đã nói với Boris như thế. Cô từng đến chỗ này khá nhiều lần.
Tòa nhà hai người định đến nằm ở cuối con phố nhỏ. Họ đậu xe ở giữa những cái xác xe cháy. Cả hai bước xuống xe Boris nhìn chung quanh. Anh chuẩn bị bấm điều khiển để chốt cửa xe, nhưng Mila đã ngăn anh lại.
– Đừng làm thế. Cứ để chìa khóa trong xe. Chúng có thể phá cửa chỉ vì “ngứa mắt”.
– Nhưng ai sẽ ngăn chúng trộm xe bỏ chạy?
Mila đi sang bên phía ghế lái, lục lọi trong túi và lôi ra một tràng hạt nhỏ bằng nhựa màu đỏ. Cô treo nó vào gương chiếu hậu.
– Ở đây nó là bùa chống trộm hiệu quả nhất đấy.
Boris lúng túng nhìn Mila, sau đó đi theo cô về phía tòa nhà.
Tấm bảng bằng bìa treo ngay cửa có đề: “Xếp hàng nhận thức ăn bắt đầu từ mười một giờ”. Và vì không phải người nào trong số các đối tượng của hàng chữ đó cũng biết đọc, nên người ta đã vẽ ở bên cạnh hình kim đồng hồ bên trên một đĩa thức ăn bốc khói.
Không khí thoang thoảng thứ mùi của thức ăn hòa lẫn với chất tẩy trùng. Tại cửa vào, vài chiếc ghế nhựa cọc cạch được bày quanh một cái bàn nhỏ trên có để mấy tờ báo cũ. Trên bàn cũng có mấy tờ rơi in thông tin của nhiều chủ đề khác nhau, từ phòng ngừa sâu răng trẻ em cho đến các biện pháp phòng tránh một số loại bệnh hoa liễu. Tất cả là nhằm biến chỗ này thành một phòng đợi. Trên tường, thông báo và yết thị được gắn kín mít trên tấm bảng thông tin. Có thể nghe thấy nhiều tiếng người nói vọng qua căn phòng, nhưng không thể biết chúng đến từ đâu. Mila kéo tay áo Boris.
– Ta đi nào, bà ấy ở tầng trên.
Hai người bước lên cầu thang. Các bậc thang đều đã hư hỏng và lan can lung lay một cách đáng sợ.
– Nhưng ta đang ở nơi quái quỷ gì thế này?
Boris tránh không đụng chạm vào bất cứ thứ gì vì sợ nhiễm khuẩn. Anh càu nhàu liên tục cho đến khi họ lên đến tầng trên. Trước một cánh cửa kính, một cô gái tuổi tầm đôi mươi rất xinh xắn đang đưa một lọ thuốc cho một ông già quần áo tả tơi, người chua khẳm và nồng mùi rượu.
– Phải uống một viên mỗi ngày, bác nhé?
Cô gái không có vẻ khó chịu vì mùi hôi hám của ông già. Cô nói với giọng rõ ràng, từ tốn, rành mạch từng chữ như nói với trẻ con. Ông già gật gù nhưng xem vẻ không thật thuyết phục.
– Việc này rất quan trọng. – Cô gái trẻ nhấn mạnh. – Bác không được quên đâu đấy. Nếu không, sẽ lại giống như lần trước, khi người ta đưa bác đến đây trong tình trạng dở sống dở chết.
Cô gái rút một chiếc khăn tay từ trong túi ra và buộc quanh cổ tay ông già.
– Phải thế này, bác mới không quên.
Ông già mỉm cười, vẻ hài lòng, rồi cầm lấy cái lọ và đi về, vừa đi vừa ngắm nghía món quà nơi cổ tay mình.
– Anh chị cần gì thế ạ? – Cô gái hỏi hai người.
– Bọn chị tìm bà Nicla Papakidis. – Mila đáp.
Boris đần mặt nhìn cô gái trẻ, đột nhiên những nỗi bực bội của anh bay đi đâu mất.
– Em nghĩ bà đang ở trong căn phòng áp cuối, dưới kia. – Cô vừa nói vừa chỉ hành lang sau lưng mình.
Khi họ đi ngang qua cô gái trẻ, Boris cụp mắt xuống nhòm ngực cô, và vấp ngay phải cây thánh giá mạ vàng đeo trên cổ cô.
– Nhưng cô ấy là…
– Phải. – Mila đáp ngay, cố nhịn cười.
– Tiếc thật.
Trong khi đi xuôi hành lang, họ nhìn qua các căn phòng. Những chiếc giường sắt, giường gấp, hoặc chỉ là xe lăn, tất cả đều đã được sử dụng bởi những kẻ dạt nhà, không phân biệt già trẻ. Họ bị mắc bệnh AIDS, nghiện ma túy hay nghiện rượu, mắc bệnh gan ở giai đoạn cuối, hoặc chỉ đơn giản là bệnh già. Họ có hai điểm chung: ánh mắt mệt mỏi và cảm giác đã sống một cuộc đời vứt đi. Không bệnh viện nào tiếp nhận họ trong tình trạng như thế. Họ không có gia đình hoặc đã bị đẩy ra khỏi nhà.
Ở đây, người ta đến để chết. Đó là điểm đặc biệt của nó. Nicla Papakidis gọi nó là “cảng trung chuyển”.
– Ngày hôm nay đẹp thật, Nora ạ.
Bà tu sĩ ân cần chải mái tóc dài bạc trắng của một bà già nằm trên chiếc giường đối diện cửa sổ, vừa chải vừa nói những lời dịu dàng.
– Sáng nay, lúc đi ngang qua công viên, tôi đã để bánh mì lại cho lũ chim. Với tình hình tuyết thế này, chúng sẽ dành thời gian ở trong tổ để ủ ấm cho nhau.
Mila gõ cánh cửa đang mở. Bà Nicla quay lại, mắt sáng lên khi nhìn thấy cô.
– Cháu tôi! – Bà vừa nói vừa đến ôm hôn cô. – Thật vui vì được gặp lại cháu!
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.