Kẻ Nhắc Tuồng

Chương 41



Điện thoại đổ chuông, nhưng không ai nhấc máy.

Thức dậy đi nào, trời ơi!

Bốn bánh xe taxi hất văng chỗ nước đọng trên mặt đường nhựa, nhưng may thay mưa đã ngừng rơi. Con đường lấp lánh như trong bối cảnh của một vở nhạc kịch, tưởng như những vũ công mặc trang phụ dạ hội, mái tóc vuốt gel láng mượt có thể xuất hiện vào bất kỳ lúc nào.

Điện thoại reo mãi cũng ngừng. Mila lại bấm số. Đây đã là lần thử thứ ba của cô. Ở hồi chuông thứ năm, có người nhấc máy.

– Ai gọi đó? Có biết mấy giờ rồi không hả?

Giọng nói của Cinthia nghe rất ngái ngủ.

– Tôi là Mila Vasquez. Cô còn nhớ chứ? Chúng ta đã gặp nhau ngày hôm kia…

– À, tôi nhớ ra chị rồi… Nhưng chuyện này để mai được không? Chị biết đấy, tôi vừa mới uống một liều thuốc ngủ.

Không có gì ngạc nhiên khi một người sống sót qua tay một tên sát nhân hàng loạt, cộng thêm tác hại của rượu, lại phải cần đến thuốc men để có được giấc ngủ. Nhưng Mila không thể chờ thêm được một giây nào nữa. Cô cần có ngay câu trả lời cho những thắc mắc của mình.

– Không. Tôi xin lỗi cô, nhưng tôi cần gặp cô ngay lúc này. Không mất nhiều thời gian đâu.

– Thôi được.

– Hôm qua, vào buổi sáng, cô đã nhận một cuộc gọi…

– Phải, lúc tôi rời nhà đi làm. Tại anh ta mà tôi bị sếp mắng cho vì cái tội đi muộn.

– Ai đã gọi cho cô thế?

– Anh ta bảo là đang điều tra cho bên bảo hiểm. Cô biết đấy, tôi đã yêu cầu được bồi thường, vì những chuyện đã xảy ra…

– Anh ta có cho cô biết tên không?

– Spencer thì phải. Đáng lẽ tôi phải ghi lại.

Vô ích thôi: Vincent Clarisso đã lấy tên giả và tạo cớ để cho Cinthia không nghi ngờ gì. Mila tiếp tục:

– Không sao. Anh ta muốn gì vậy?

– Muốn tôi kể lại vụ việc qua điện thoại. Tôi đã kể cho anh ta nghe về Benjamin Gorka.

Mila ngỡ ngàng. Tại sao Vincent Clarisso lại muốn tìm hiểu về vụ Wilson Pickett? Hắn là người đã đặt thi thể số năm tại studio để tiết lộ rằng chính Boris chứ không phải Benjamin Gorka mới là người đã giết chết Rebecca Springher kia mà?

– Anh ta cần biết chuyện của cô để làm gì?

– Để hoàn thành bản báo cáo, anh ta bảo thế. Bọn bảo hiểm ấy mà, tỉ mỉ lắm.

– Anh ta còn hỏi cô chuyện gì khác hay không?

Cinthia không đáp ngay. Mila đã sợ cô nàng ngủ thiếp đi mất, nhưng thật ra Cinthia đang nhớ lại.

– Không, không có gì nữa. Anh ta rất dễ thương. Cuối cuộc gọi, anh ta bảo tôi là hồ sơ của tôi đang tiến triển. Có thể tôi sẽ được nhận tiền đấy, chị biết không?

– Tôi thấy mừng cho cô. Xin lỗi vì đã quấy quả cô vào giờ khuya khoắt như thế này.

– Nếu những gì tôi nói có thể giúp cho các chị tìm ra được cô bé nạn nhân đang mất tích kia, thì tôi không thấy phiền gì cả.

– Thật ra, cô bé đã được tìm ra rồi.

– Sao cơ? Thật chứ?

– Cô không xem ti vi à?

– Tối nay tôi đi ngủ từ lúc chín giờ.

Cinthia muốn nghe thêm, nhưng Mila không có thời gian. Cô vờ như có một cuộc gọi khác đang chờ mình, rồi gác máy.

Trước khi nói chuyện với Cinthia, cô đã nhận ra một điều.

Có thể Boris đã bị gài bẫy.

– Đến chỗ này là tôi không đi tiếp được nữa đâu. – Người tài xế quay lại nói với cô.

– Không sao, tôi đến nơi rồi.

Cô thanh toán tiền rồi xuống xe. Trước mặt cô là một hàng rào cảnh sát và hàng chục chiếc xe nháy đèn xanh đỏ. Mấy chiếc xe kĩ thuật của các đài truyền hình nối đuôi nhau thành hàng dài trên đường. Cánh quay phim đã đặt thiết bị sao cho luôn thấy được hình ảnh ngôi nhà ở hậu cảnh.

Mila đã đến nơi mọi chuyện bắt đầu. Hiện trường được đánh số 0.

Ngôi nhà của Vincent Clarisso.

Cô thậm chí còn chưa biết mình sẽ qua được hàng rào an ninh bằng cách nào. Cô chỉ biết lấy thẻ ra đeo vào cổ, với hi vọng không ai nhận ra cô là kẻ đột nhập.

Trong khi tiến lên, Mila nhận ra những khuôn mặt những người đông nghiệp mà cô đã từng thấy trong hành lang của trụ sở cảnh sát. Một số người tụ họp nhau quanh cốp một chiếc xe hơi. Số khác nghỉ giải lao ăn uống tí chút. Cô cũng nhận ra chiếc xe của bác sĩ pháp y: Chang đang ngồi bệt ở bậc cửa xe viết báo cáo. Anh chỉ ngước mắt lên nhìn khi cô đi qua trước mặt mình.

– Ê, cô đi đâu đấy?

Mila quay lại và trông thấy một cảnh sát to béo đang cố bắt kịp mình, hơi thở phì phò. Cô chưa kịp chuẩn bị lý do. Đáng lẽ cô phải làm từ trước, nhưng cô đã không làm, và bây giờ thì có lẽ đã quá muộn.

– Cô ấy đi cùng tôi.

Krepp đang tiến đến chỗ họ. Ông có một miếng băng ngay cổ, nơi cái đầu và mấy chiếc gai của một con rồng có cánh ló ra, chắc đó là hình xăm mới nhất. Ông nói với tay cảnh sát:

– Để cho cô ấy qua, cô ấy được cho phép rồi.

Tay cảnh sát tin ngay và lập tức quay gót.

Mila nhìn Krepp, không biết phải nói gì. Ông nháy mắt với cô, rồi đi tiếp. Thật ra ông ấy giúp cô cũng không có gì là lạ, Mila nghĩ thế. Cả hai người đều có một phần câu chuyện riêng của mình khắc trên da thịt, dù là bằng những cách khác nhau.

Lối đi lên nhà dốc thoai thoải. Trên lớp đá lát, người ta vẫn còn nhìn thấy vỏ đạn của các phát súng đã hạ gục Vincent Clarisso. Cánh cửa ngôi nhà đã được gỡ ra khỏi bản lề để tiện cho việc ra vào.

Ngay khi bước chân vào bên trong, Mila thấy rợn người vì mùi thuốc tẩy trùng nồng nặc.

Đồ đạc trong nhà làm bằng formica, kiểu dáng thập niên sáu mươi. Một chiếc trường kỷ có hoa văn Ả Rập vẫn còn được bọc ni lông. Lò sưởi với ngọn lửa giả. Một quầy bar có cùng tông màu với tấm thảm vàng. Giấy dán tường trang trí những bông hoa cách điệu to tướng màu nâu giống như hoa mõm chó.

Thay cho những ngọn đèn halogen thường thấy là những bóng đèn có chụp. Một dấu hiệu khác của phong cách được Terence Mosca áp đặt. Đối với ông đại úy thì không có khái niệm “hiện trường”. Tất cả phải được thực hiện một cách vừa mức. Phong cách của cảnh sát thời trước, Mila nghĩ bụng. Vừa lúc đó cô nhận ra Mosca đang ở trong bếp và có một cuộc họp nhỏ với những người thân cận. Cô tránh đi hướng khác: cần phải không để cho ai chú ý đến cô, trong chừng mực có thể.

Mọi người đều đeo túi bảo vệ cho giày và găng tay cao su. Mila đeo chúng vào rồi quan sát quanh mình, trà trộn vào đám đông những người có mặt.

Một cảnh sát đang bận lôi tất cả những cuốn sách trong thư viện ra. Từng cuốn một. Ông lật nhanh chúng rồi đặt xuống đất. Một người khác lục lọi mấy ngăn kéo tủ commốt. Một người nữa đang phân loại các món đồ trang trí. Những nơi mà các đồ vật còn chưa bị xê dịch và kiểm tra có vẻ cực kỳ ngăn nắp, đến mức gần như bệnh hoạn.

Không có lấy một hạt bụi. Chỉ cần nhìn là đã phân loại được mọi thứ, như mọi món đồ đều được sắp vào đúng chỗ của nó. Tưởng như cô đang đứng trước một bức tranh ghép hình đã hoàn thành.

Mila không biết phải tìm gì. Cô đến đây vì đương nhiên nó là điểm xuất phát. Cô càng có thêm động lực sau khi biết thông tin về cú điện thoại mà Vincent Clarisso đã gọi cho Cinthia Pearl. Nếu hắn muốn được nghe kể lại vụ việc từ nhân chứng sống sót duy nhất, thì có thể hắn không biết Benjamin Gorka là ai, và nếu như vậy, có thể cái xác đặt trong studio không phải dành cho Boris.

Lập luận này không đủ để minh oan cho anh chàng đồng nghiệp của cô, vì dẫu sao cũng đang có một vật chứng nặng ký chống lại Boris: chiếc quần lót của Rebecca Springher, được tìm thấy khi lục soát căn hộ của anh.

Nhưng dù sao thì cũng có điều gì đó không khớp.

Mila nhận ra mùi thuốc tẩy trùng phát ra từ căn phòng nằm ở cuối hành lang.

Không khí rất sạch sẽ, giống như một giường bệnh đặt trong lồng oxy. Có rất nhiều thuốc men, áo blu và thiết bị y tế. Đây là phòng phẫu thuật mà Vincent đã sử dụng để chặt cánh tay các nạn nhân nhỏ tuổi và sau đó biến nó thành phòng bệnh cho Sandra.

Khi bước sang một căn phòng khác, Mila nhận thấy một cảnh sát đang quan sát một màn hình ti vi plasma nối với chiếc camera kỹ thuật số. Trước màn hình có đặt một ghế bành, chung quanh là hệ thống loa âm thanh vòm. Hai bên cạnh của chiếc ti vi là một bức tường đầy băng hình, sắp xếp theo ngày tháng. Viên cảnh sát nhét từng chiếc băng vào trong camera để xem nội dung.

Hiện tại trên màn hình hiện lên những hình ảnh của một sân chơi. Những tiếng cười trẻ thơ vang lên dưới ánh mặt trời mùa đông. Mila nhận ra Caroline, cô bé cuối cùng bị Albert bắt cóc và giết chết.

Vincent Clarisso đã nghiên cứu rất tỉ mỉ các nạn nhân của mình.

– Ê, có ai đến giúp tôi một tay với mấy thứ này không? Đồ điện tử thì tôi mù tịt! – Tay cảnh sát nói to trong lúc cố gắng cho đoạn phim ngừng lại.

Khi nhận thấy sự hiện diện của Mila trên ngưỡng cửa, anh ta thoáng mừng rỡ vì tưởng có người đến hỗ trợ, nhưng rồi nhận ra mình chưa bao giờ nhìn thấy cô gái này. Trước khi anh ta kịp lên tiếng thì Mila đã đi tiếp.

Căn phòng thứ ba quan trọng nhất.

Trong phòng, có một cái bàn bằng thép cao chân. Các vách tường phủ kín những tấm bảng gắn các mảnh giấy ghi chú đủ màu sắc và các giấy tờ khác. Tưởng như cô đang ở trong Phòng suy tưởng. Tất cả các kế hoạch của Vincent Clarisso được phơi bày đến từng chi tiết. Những tấm bản đồ đường bộ, thời gian biểu và lịch trình di chuyển. Sơ đồ trường nội trú của Debby Gordon, cũng như của cô nhi viện. Có cả bảng số xe của Alexander Bermann, cùng lịch trình công tác của hắn. Những bức ảnh chụp bà Yvonne Gress với các con, và một tấm ảnh chụp bãi phế liệu của Feldher. Các bài báo nói về Joseph B. Rockford.

Và đương nhiên có cả những tấm ảnh chụp các nạn nhân nhỏ tuổi.

Trên chiếc bàn thép là những sơ đồ khác với nhiều ghi chú lung tung, giống như thể công việc đã bị gián đoạn một cách bất ngờ. Được giấu trong mớ giấy tờ này, có thể là mãi mãi, có kế hoạch cho màn kết thúc của tên giết người hàng loạt.

Mila quay lại và lạnh người. Bức tường mà nãy giờ cô chưa nhìn thấy được dán kín những tấm ảnh chụp các thành viên của nhóm điều tra hình sự trong lúc làm nhiệm vụ. Có cả ảnh của cô.

Vậy là mình đang thực sự ở trong bụng con quái vật rồi.

Vincent đã theo dõi mọi động tĩnh của họ. Nhưng ở đây không có gì gợi liên tưởng đến vụ Wilson Pickett và Boris.

– Mẹ kiếp! Có ai đến giúp tôi không vậy? – Tay cảnh sát ở phòng bên cạnh kêu lên.

– Có chuyện gì vậy Fred?

Cuối cùng cũng có ai đó đến giúp anh chàng.

– Tôi phải làm thế nào để biết mình đang xem cái gì? Hơn nữa, tôi sắp xếp chúng như thế nào, nếu chẳng biết đây là cái quái gì?

– Để tôi xem nào…

Mila thôi nhìn bức tường đầy hình chụp và chuẩn bị ra khỏi căn phòng. Cô thấy hài lòng, nhưng chủ yếu vì cái mình không nhìn thấy, hơn là những gì đã nhìn thấy nãy giờ.

Không hề có Benjamin Gorka. Lẫn Boris. Như vậy là đủ với cô.

Lần phát hiện thi thể nạn nhân số năm, họ đã bị lừa. Hoặc có thể đó là trò đánh lạc hướng. Bằng chứng là Vincent Clarisso đã gọi cho Cinthia Pearl để tìm hiểu thêm khi nhận ra cuộc điều tra đang đi theo hướng khác với dự tính của hắn.

Mila đang nghĩ đến việc cung cấp manh mối này cho thanh tra Roche. Cô tin chắc ông chánh thanh tra sẽ có cách để khai thác thông tin này và gỡ tội cho Boris, đồng thời triệt bớt vinh quang của Terence Mosca.

Lúc đi ngang qua căn phòng để ti vi, cô nhận ra một hình ảnh trên màn hình. Đó là địa điểm mà Fred và người đồng nghiệp không tài nào xác định được.

– Đây là một căn hộ, chứ còn gì nữa?

– Ừ, nhưng tôi ghi thế nào trong báo cáo đây?

– Cứ ghi là địa điểm không xác định.

– Anh chắc chứ?

– Chắc. Một người khác sẽ phụ trách việc tìm ra nó.

Nhưng Mila biết căn hộ đó nằm ở đâu.

Nhận ra sự có mặt của cô, hai cảnh sát quay lại và thấy cô không thể nào rời mắt khỏi màn hình ti vi.

– Chúng tôi giúp gì được cho cô?

Mila không đáp, chỉ lảng đi. Vừa bước vội qua phòng khách, cô vừa rút di động ra khỏi túi và tìm số điện thoại của Goran trong danh bạ.

Khi ông nghe máy thì cô đã ở ngoài đường.

– Có chuyện gì vậy?

– Anh đang ở đâu?

Giọng cô đầy kích động. Nhưng ông không nhận ra.

– Anh còn đang ở văn phòng. Anh đang cố thu xếp cho Sarah Rosa đến thăm con gái tại bệnh viện.

– Hiện nay ai đang ở nhà anh?

Goran bắt đầu trở nên lo lắng.

– Bà Runa và Tommy. Tại sao?

– Anh phải về đó ngay lập tức!

– Tại sao? – Ông hỏi lại, giọng lo ngại.

– Vincent có một cuốn phim quay căn hộ của anh.

– Chuyện này là thế nào? Phim gì?

– Hắn đã có những thước phim để xác định địa điểm… Nếu hắn có đồng lõa thì sao?

Goran im lặng một lúc.

– Em vẫn còn đang ở hiện trường à?

– Phải.

– Vậy thì em ở gần nhà hơn anh. Hãy bảo Mosca phái hai cảnh sát đi cùng em đến nhà anh. Trong lúc đó, anh sẽ gọi cho bà Runa để bảo bà ấy khóa chặt cửa nẻo.

– Đồng ý.

Mila gác máy, rồi quay ngược trở vào trong nhà để nói chuyện với Mosca.

Hi vọng ông ta không đặt quá nhiều câu hỏi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.