THỜI KHẮC ĐỊNH MỆNH
Phần 2 : Hãy mở cửa ra và đây là họ
Ngày 11 tháng Giêng
Người đàn ông trên giường bệnh trở mình nhẹ nhàng và cố nén tiếng rên.
Y tá trực rời bàn làm việc tiến đến chỗ anh. Cô đổi chỗ cái gối và giúp anh có được tư thê nằm thoải mái hơn.
Angus MacWhirter chỉ càu nhàu thay cho lời cám ơn.
Anh đang trong tình trạng căm hận và cay đắng.
Lẽ ra lúc này anh chết rồi mới phải. Anh đã có thể thoát khỏi tất cả những chuyện này rồi. Đáng nguyền rủa thay cho cái cây nực cười chết tiệt mọc lên từ bờ đá đó! Đáng nguyền rủa thay những cặp tình nhân vụng trộm bất chấp cái lạnh của đêm đông, tiếp tục hẹn hò trên bờ đá.
Nhưng vì họ, và cả cái cây đó! Chuyện này đáng lẽ đã kết thúc – một cú lao mình xuống dòng nước sâu băng giá, một sự đấu tranh ngắn ngủi, và rồi quên lãng đi – kết thúc một cuộc đời vô nghĩa, chẳng mang lại lợi ích gì.
Và giờ thì anh đang ở đâu đây? Bị gãy xương vai, nằm dài một cách đáng thương trên giường bệnh và chờ đợi bị kéo lên đồn cảnh sát với tội danh tự tử.
Đáng nguyền rủa thật, đó là mạng sống của anh mà, đúng không?
Và nếu việc tự tử thành công, họ sẽ chôn cất anh trong bầu khí đạo đức vì anh là kẻ có đầu óc rối loạn.
Thật vậy, kẻ có đầu óc rối loạn! Anh không bao giờ bình thường. Và tự tử là điều hợp lý nhất mà một người như anh có thể làm được.
Một kẻ hoàn toàn trắng tay, lại bệnh tật, và một cô vợ bỏ theo người đàn ông khác. Không việc làm, không tình yêu, không tiền bạc, không cả sức khỏe hay hy vọng, thì chắc chắn kết thúc mọi thứ là giải pháp duy nhất có thể?
Và giờ đây anh đang trong hoàn cảnh nực cười. Chẳng bao lâu nữa anh sẽ bị quở trách bởi những quan tòa mộ đạo vì đã làm một việc tầm thường với một thứ chỉ duy nhất thuộc về anh – mạng sống của anh.
Anh khịt mũi giận dữ. Một con xúc động mạnh vừa quét qua người anh.
Y tá lại đến cạnh anh.
Cô ấy trẻ trung với mái tóc đỏ và khuôn mặt khá khuyết nhưng trông tử tế.
“Anh đau nhiều không?”
“Không, tôi không sao”.
“Tôi sẽ cho anh ít thuốc an thần”.
“Cô không giúp được gì nhiều đâu”.
“Nhưng…”
“Cô nghĩ tôi không thể chịu đựng được chút đau đớn và mất ngủ này hay sao?”
Cô y tá mỉm cười nhẹ nhàng:
“Bác sĩ nói anh có thể uống chút gì đó”.
“Tôi không quan tâm bác sĩ nói gì”.
Cô ấy kéo thẳng tấm trải giường rồi đặt ly nước chanh lại gần anh hơn. Anh nói với vẻ hơi xấu hổ:
“Tôi xin lỗi vì đã thô lỗ với cô”.
“Ồ, không sao đâu”.
Anh bực mình vì cô hoàn toàn không cảm thấy phiền với tính khí nóng nảy của anh. Cô đã quen với những điều đó, chúng không làm cô quên đi sự nhẫn nại và lòng khoan dung một y tá cần phải có. Anh là một bệnh nhân, không phải là người bình thường.
Anh nói:
“Sự can thiệp chết tiệt – tất cả những sự can thiệp chết tiệt này…”
“Nào, nào, mọi việc sẽ tốt đẹp cả thôi”.
“Tốt hả?” anh gặng hỏi. “Tốt sao? Ôi Chúa ơi”.
Cô gái từ tốn nói: “Sáng mai anh sẽ thấy khỏe hơn”. Anh cố gắng nhẫn nhịn.
“Y tá các cô… Y tá các cô…! Thật dã man, các cô là vậy đó!”
“Chúng tôi biết điều gì sẽ tốt cho anh, anh thấy rồi đó”.
“Thật là điên tiết mà! Cô, cái bệnh viện này, cả thế giới này. Can thiệp liên tục! Biết cái gì tốt nhất cho người khác. Tôi đã cố gắng tự tử. Cô biết điều đó, đúng không?”
Cô gái gật đầu.
“Dù tôi có gieo mình xuống bờ đá đầy máu me hay không thì đó là việc của riêng tôi. Cuộc sống của tôi đã hết. Tôi là kẻ vô gia cư!”
Cô gái tặc lưỡi đầy cảm thông. Anh ta là một bệnh nhân. Cô đang xoa dịu anh ta bằng cách để anh ta trút giận.
“Sao tôi không thể tự tử nếu tôi muốn chứ?” Anh gặng hỏi.
Cô gái trả lời câu hỏi đó khá nghiêm túc.
“Vì như vậy là sai”.
“Tại sao?”
Cô gái nhìn anh nghi ngờ. Cô chẳng phiền hà gì nhưng quá khó để giải thích rõ ràng phản ứng của mình.
“À… ý tôi là… tự tử thì tội lỗi quá. Anh phải tiếp tục sống dù muốn hay không”.
“Tại sao vậy?”
“Vì, còn có những người khác anh phải quan tâm tới chứ, phải không?”
“Trường hợp của tôi thì không. Tôi có chết đi cũng chẳng ảnh hưởng tới ai cả”.
“Anh không có bà con thân thích gì sao? Không cha mẹ, anh chị em hay bất cứ ai hả?”
“Không. Tôi từng có vợ nhưng cô ấy bỏ đi rồi – cũng đúng thôi, cô ấy thấy tôi chẳng được tích sự gì cả”.
“Nhưng chắc chắn anh còn có bạn bè?”
“Không, tôi không có. Tôi không phải là một người thân thiện. Nghe này, cô y tá ơi, tôi sẽ nói cho cô một chuyện. Tôi đã từng là một người hạnh phúc. Tôi có công việc tốt và một cô vợ xinh đẹp. Rồi tôi bị tai nạn xe hơi. Tôi ngồi trên xe do ông chủ lái. Ông ta muốn tôi nói là lúc gặp tai nạn thì ông ta đang lái xe với tốc độ dưới 48km/h. Nhưng sự thật là lúc đó ông ta lái với tốc độ gần 80km/h. Không có ai chết cả, cũng không có vấn đề gì cả, ông ta chỉ muốn mình đúng để làm việc với bên bảo hiểm thôi. À, tôi không nói theo những điều ông ta muốn. Như vậy là nói dối, mà tôi thì không nói dối”.
Cô y tá nói:
“Tôi nghĩ anh làm đúng đó, rất đúng”.
“Cô nghĩ vậy sao? Vì ngoan cố nên tôi đã mất việc, sếp tôi rất căm giận, ông ấy khiến tôi không thể tìm được việc nào khác nữa. Vợ tôi thấy tôi lang thang mãi mà chẳng tìm được việc gì để làm nên cô ấy bỏ đi theo một người bạn của tôi. Hắn ta làm ăn tốt và đang phất lên. Tôi thì cứ vật vờ, thất bại liên miên. Tôi bắt đầu uống rượu. Điều đó cũng chẳng thể giúp tôi có được việc. Cuối cùng tôi cảm thấy sức khỏe giảm sút – cố gắng quá mức – bác sĩ nói tôi sẽ không bao giờ khỏe mạnh được nữa. À, vậy là chẳng còn gì đáng sống. Cách dễ dàng và rõ ràng nhất là ra đi. Đời tôi chẳng còn hữu ích gì cho bản thân mình và cho bất cứ ai khác”. Cô y tá nhỏ bé lầm bầm:
“Anh chẳng thể biết điều đó”.
Anh cười. Anh cảm thấy tinh thần phấn chấn hơn. Sự bướng bỉnh ngây thơ của cô làm anh vui.
“Cô gái bé nhỏ của tôi ơi, tôi có ích gì cho ai nào?”
Cô gái bối rối trả lời:
“Anh không biết sao, có lẽ… ngày nào đó anh sẽ biết”.
“Ngày nào đó sao? Sẽ không có bất cứ ngày nào cả đâu. Lần sau tôi chắc chắn sẽ làm tốt”.
Cô gái lắc đầu kiên quyết:
“Ồ không” cô nói. “Giờ anh sẽ không tự tử nữa đâu”.
“Tại sao không?”
“Người ta chẳng bao giờ làm vậy”.
Anh liếc nhìn cô. “Người ta chẳng bao giờ làm vậy”. Anh là một trong số những người muốn tự tử. Anh định phản kháng một cách hăng hái, nhưng tính chân thật bẩm sinh đột nhiên ngăn anh lại.
Anh có tự tử lại không? Anh có thật sự muốn làm lại?
Đột nhiên anh biết rằng anh không làm. Chẳng có lý do nào cả. Có lẽ lý do hợp lý nhất là điều mà cô đã biết nhờ kiến thức chuyên môn của mình. Những người tự tử sẽ không bao giờ thực hiện lại điều đó.
Hơn tất cả, anh muốn buộc cô thừa nhận một điều về khía cạnh đạo đức.
“Ở một mức độ nào đó thì tôi có quyền làm điều mà tôi muốn liên quan tới đời sống cá nhân của tôi”.
“Không, không, anh không có quyền”.
“Nhưng tại sao lại không, hả cô gái của tôi, tại sao chứ?”
Cô gái đỏ mặt. Cô nói, mấy ngón tay vân vê cái thánh giá bằng vàng trên cổ:
“Anh không hiểu sao. Có thể Chúa cần anh”.
Anh liếc nhìn rồi quay đi. Anh không muốn làm tan vỡ niềm tin trẻ con của cô. Anh nói cách giễu cợt:
“Tôi cho là một ngày nào đó tôi có thể dừng một con ngựa đang phi nước đại và cứu một đứa trẻ tóc vàng khỏi thần chết hả? Phải vậy không?”
Cô lắc đầu. Cô nói một cách sôi nổi, cố gắng diễn tả một điều gì đó mơ hồ và vì vậy cô bị líu lưỡi:
“Có lẽ chỉ ở nơi nào đó… không làm bất cứ điều gì… chỉ là ở một nơi nào đó trong khoảng thời gian nào đó… ôi, tôi không thể nào nói ra được ý của tôi, nhưng có thể ngày nào đó anh sẽ đi lang thang ngoài đường và làm được điều gì đó cực kỳ quan trọng, thậm chí có thể không biết đó là điều gì”.
Cô y tá tóc đỏ là người vùng bờ tây Scotland và vài người trong gia đình cô có thể thấy được chuyện tương lai.
Có lẽ, một cách mơ hồ, cô thấy hình ảnh người đàn ông lang thang trên đường vào một đêm tháng Chín và cứu được một người khỏi cái chết kinh hoàng…
Ngày 14 tháng Hai
Chỉ có một người trong phòng và âm thanh duy nhất phát ra là tiếng bút sột soạt trên giấy khi người đó viết hết dòng này đến dòng khác.
Chẳng có ai đọc những dòng đó, mà nếu có thì họ cũng khó lòng tin được. Những điều được viết ra là một kế hoạch quá rõ ràng và chi tiết về một vụ giết nguời.
Có những khi cơ thể nhận thức được việc bị tâm trí điều khiển – khi nó cúi đầu vâng lệnh những điều lạ đang điều khiển các hành động của nó. Cũng có khi tâm trí nhận thức được rằng nó sở hữu và điều khiển một cơ thể và hoàn thành mục đích của nó bằng cách sử dụng cơ thể đó.
Người ngồi viết đó đang trong tình trạng thứ hai, một bộ não bình tĩnh và lạnh lùng được điều khiển bởi trí thông minh. Tâm trí này chỉ có một ý nghĩ và một mục đích duy nhất – hủy hoại một người khác. Cuối cùng thì mục đích đó có thể được hoàn thành, âm mưu đã được vạch ra rõ ràng trên giấy. Mỗi một tình huống bất ngờ, mỗi một khả năng đều được xét tới. Mọi việc đã tuyệt đối chắc chắn. Âm mưu này, cũng giống như những âm mưu hoàn hảo khác, không tuyệt đối cứng nhắc. Có một số hành động thay thê ờ vài thời điểm nào đó. Hơn nữa, vì tâm trí này rất thông minh, nó nhận ra rằng phải có vài dự phòng khôn ngoan cho những tình huống không thể đoán trước. Nhưng những điểm chính đâ rõ ràng và được kiểm tra chặt chẽ. Thời gian, nơi chốn, phương pháp, và cả nạn nhân!
Người đó ngẩng đầu lên, cầm xấp giấy và đọc rất cẩn thận. Đúng vậy, chuyện quá dễ hiểu.
Một nụ cười thoáng qua khuôn mặt đăm chiêu đó. Một nụ cười không tỉnh táo lắm. Người đó rít một hơi thở dài.
Con người được tạo thành theo hình ảnh của Đấng Tạo hóa, vì vậy bây giờ sẽ có một trò đùa kinh khủng với niềm vui của Ngài.
Đúng vậy, mọi thứ đã được lên kế hoạch – phản ứng của mỗi người đã được tiên đoán và cho phép xảy ra, mặt tốt và mặt xấu trong mỗi con người bị lợi dụng và đưa vào rất hài hòa với một ý định xấu.
Vẫn còn thiếu một điều gì đó…
Tác giả mỉm cười lần theo ngày tháng – một ngày trong tháng Chín.
Rồi một tiếng cười vang lên và tờ giấy bị xé thành nhiều mảnh, những mảnh vụn được mang đến ném vào ngọn lửa trong lò sưởi. Chẳng có sự bất cẩn nào. Mỗi mảnh vụn đều bị đốt cháy và tiêu hủy. Kế hoạch giờ đây chỉ còn lại duy nhất trong bộ não của người tạo ra nó.
Ngày 8 tháng Ba
Sĩ quan cảnh sát Battle đang ngồi ở bàn ăn, hàm ông bành ra một cách hung hăng. Chậm rãi và cẩn thận, ông đang đọc lá thư mà vợ ông nước mắt ngắn dài trao cho. Chẳng có dấu hiệu gì trên khuôn mặt ông vì khuôn mặt đó không có chỗ cho các biểu hiện cảm xúc. Cứ như đó là một khuôn mặt chạm trổ từ gỗ, cứng và rắn chắc, và nói theo cách nào đó thì khá ấn tượng. Sĩ quan Battle chưa bao giờ có những gợi ý thông minh; ông tuyệt nhiên không phải là một người thông minh, nhưng ông có những đặc tính khác rất khó xác định, rất mạnh mẽ.
“Em không thể tin được” bà Battle nức nở nói. “Sylvia!”
Sylvia là con út trong năm đứa con của ông bà Battle. Cô bé mười sáu tuổi và đang học ở một ngôi trường gần Maidstone.
Bức thư gửi từ cô Amphrey, nữ hiệu trưởng của ngôi trường này. Đó là một bức thư cực kỳ khéo léo, rõ ràng và lịch sự. Trắng đen đã rõ, thỉnh thoảng có vài vụ trộm ở trường làm cho ban giám hiệu bối rối, rằng vấn đề giờ đây ít ra cũng đã rõ ràng, rằng Sylvia Battle đã thú nhận, và rằng cô Amphrey muốn gặp ông bà Batứe sớm để “thảo luận vấn đề”.
Sĩ quan Battle gấp lá thư lại bỏ vào túi và nói: “Em cứ để vụ này cho anh, Mary à”.
Ông đứng dậy, đi quanh bàn, vỗ nhẹ vào má bà và nói, “Đừng lo em yêu, rồi đâu cũng vào đấy thôi mà”.
Ông đi vào phòng, hoàn toàn thoải mái và yên tâm.
Chiều hôm đó, trong phòng khách riêng khá hiện đại của cô Amphrey, sĩ quan Battle ngồi ngay ngắn trên ghế, hai bàn tay to lớn rắn chắc đặt lên gối, cô Amphrey ngồi đối diện và tìm cách quan sát kỹ từng đường nét trên khuôn mặt viên cảnh sát.
Cô Amphrey là một nữ hiệu trưởng rất thành công. Cô có cá tính – rất cá tính. Cô rạng ngời, hợp thời, và cô liên kết tính kỷ luật với những ý tưởng hiện đại về quyền tự quyết.
Căn phòng của cô là tiêu biểu cho tinh thần Meadway. Mọi thứ đều có màu của bột yến mạch – các bình hoa thủy tiên lớn, các chậu uất kim hương và lan dạ hương. Một hoặc hai bản sao của Hy Lạp cổ đại, hai mảnh điêu khắc hiện đại, hai bức tranh vẽ nước Ý thời phục hưng treo trên tường. Ở giữa tất cả những thứ ấy là cô Amphrey, mặc một chiếc áo màu xanh dương đậm với khuôn mặt hồ hởi của một kẻ đi săn có lương tâm, cùng với đôi mắt xanh sáng, trông rất nghiêm túc qua cặp kính dày.
“Điều quan trọng,” cô uốn giọng và nói rất rõ ràng, “là chuyện này phải được giải quyết ngay tức khắc. Đó chính là cô gái mà chúng ta đang nói, ông Battle à. Chính là Sylvia. Điều quan trọng nhất – quan trọng nhất là, cuộc sống của cô bé không nên bị phá hỏng theo cách đó. Cô bé không nên có cảm giác mang gánh nặng tội lỗi, nếu có khiển trách thì cũng phải đưa ra một cách nhẹ nhàng thôi. Chúng ta phải tìm được lý do đằng sau những vụ ăn cắp vặt này. Ý thức về sự kém cỏi, có lẽ vậy? Cô bé không giỏi trong các trò chơi, ông biết mà, một ước muốn mơ hồ được nổi bật trong một lĩnh vực khác – ước mơ khẳng định bản ngã của cô bé? Chúng ta phải rất cẩn thận. Đó là lý do tôi muốn gặp riêng ông trước – để nhắc nhở ông phải rất cẩn thận với Sylvia. Tôi lặp lại lần nữa, tìm cho được nguyên nhân đằng sau vụ này mới là điều quan trọng”.
“Điều đó, thưa cô Amphrey,” sĩ quan Battle nói, “là lý do tôi đến đây”.
Giọng ông nhỏ đi, khuôn mặt không cảm xúc, đôi mắt nhìn bao quát nữ hiệu trưởng để đánh giá.
“Tôi đã rất nhẹ nhàng với cô bé” cô Amphrey nói.
Ông Battle nói ngắn gọn:
“Cô thật tốt, thưa cô”.
“Ông thấy đó, tôi thật sự yêu thương và thấu hiểu bọn trẻ”.
Ông Battle không trả lời trực tiếp, ông nói. “Nếu cô không phiền, thưa cô Amphrey, thì bây giờ tôi muốn gặp con gái tôi”.
Để nhấn mạnh, cô Amphrey khuyên ông nên cẩn thận -từ tốn – đừng làm một đứa trẻ đang trong độ tuổi nổi loạn phản kháng.
Viên cảnh sát không tỏ dấu hiệu mất kiên nhẫn nào. Trông ông như không có phản ứng gì.
Cuối cùng thì cô cũng đưa ông tới văn phòng. Họ băng ngang qua một vài cô gái trên lối đi. Các cô gái nhìn ông một cách lịch sự nhưng ánh mắt họ đầy vẻ tò mò. Sau khi đưa ông Battle vào một phòng nhỏ khác hẳn với căn phòng ở lầu dưới, cô Amphrey bước trờ ra và nói rằng sẽ cho Sylvia đến gặp ông.
Nhưng ngay khi cô vừa ra khỏi phòng, Battle đã gọi cô lại.
“Chờ chút, thưa cô, sao cô khẳng định Sylvia là người phải chịu trách nhiệm cho những vụ trộm này?”
“Phương pháp của tôi, ông Battle à, là phương pháp tâm lý”. Cô Amphrey nói vẻ nghiêm trang.
“Tâm lý? À, vậy còn bằng chứng thì sao, thưa cô Amphrey?”
“Đúng, đúng, tôi hiểu chứ, ông Battle – ông sẽ có cảm giác đó. Ông… à, bệnh nghề nghiệp mà. Nhưng liệu pháp tâm lý đã bắt đầu được khoa học tội phạm chấp nhận. Tôi có thể bảo đảm với ông rằng không hề có sai sót gì cả – tự Sylvia thừa nhận toàn bộ sự việc”.
“Đúng vậy, tôi biết điều đó. Tôi chỉ muốn hỏi vì sao cô ngẫu nhiên chọn con bé để áp dụng chứ”.
“Vấn đề là vật dụng của các nữ sinh bị mất ngày càng tăng. Tôi đã tập họp toàn trường và công bố sự thật. Cùng lúc đó, tôi kín đáo quan sát các khuôn mặt. Nét mặt của Sylvia làm tôi chú ý ngay. Đó là sự thú tội. Lúc đó tôi biết ai là người phải chịu trách nhiệm cho việc này. Tôi muốn, không phải đối chất với cô bé về tội lỗi, nhưng để chính cô bé tự thừa nhận. Tôi có một bài kiểm tra nhỏ, chỉ là từ ngữ thôi”.
Battle gật đầu cho biết ông đã hiểu.
“Và cuối cùng cô bé thừa nhận tất cả”.
“Tôi hiểu”.
Cô Amphrey ngập ngừng một lúc, rồi đi ra ngoài.
Ông Battle đang đứng nhìn ra cửa sổ thì cánh cửa lại mở.
Ông từ từ quay lại và nhìn con gái.
Sylvia đứng trước cánh cửa mà cô vừa đóng lại. Cô cao, ngăm đen và gầy. Mặt cô rầu rĩ và dường như sắp khóc. Cô nói với vẻ rụt rè hơn là bướng bỉnh:
“Dạ, con tới rồi”.
Battle trầm tư nhìn cô một lúc rồi thở dài.
“Cha không nên gửi con vào đây học” ông nói. “Người phụ nữ đó là một kẻ ngốc”.
Sylvia ngạc nhiên tới mức quên luôn chuyện của mình.
“Cô Amphrey à? Ồ, nhưng cô ấy tuyệt mà. Tất cả chúng con đều nghĩ vậy đó”.
“Ừm” Battle nói. “Có thể không hoàn toàn là một kẻ ngốc nếu cô ấy chịu bỏ đi những ý tưởng kiểu đó. Giống nhau cả thôi, dù sao Meadway cũng không phải là nơi dành cho con, dù cha không chắc – chuyện này vẫn có thể xảy ra ở nơi khác”.
Sylvia xoắn hai tay với nhau. Cô bé nhìn xuống và nói:
“Con… con xin lỗi cha, thật sự là tại con”.
“Con nên làm vậy” Battle nói ngắn gọn. “Lại đây con”.
Cô bước chậm chạp, miễn cưỡng băng qua phòng tới chỗ ông. Ông nâng cằm cô lên bằng bàn tay gân guốc và nhìn thật sát vào mặt cô.
“Đã có một sự thỏa hiệp, phải không con?” ông nói nhẹ nhàng.
Nước mắt cô bé bắt đầu rơi.
Battle từ tốn nói:
“Con thấy không, Sylvia, cha biết mọi chuyện đã xảy ra, và rằng đã có chuyện gì đó với con. Hầu hết người ta đều có điểm yếu. Thường thì khá đơn giản. Con có thể thấy một đứa trẻ ham ăn, nóng tính, hoặc là hay bắt nạt người khác. Con là một đứa trẻ ngoan, rất yên lặng, tính tình đằm thắm, không gây rắc rối gì, và chính vì vậy mà thỉnh thoảng cha rất lo lắng. Vì nếu có một khiếm khuyết nào đó mà con không biết, đôi khi nó làm hỏng mọi thứ khi dùng một phép thử”.
“Giống con!” Sylvia nói.
“Đúng, giống như con. Dễ bị tổn thương vì căng thẳng, theo cách thức rất lạ lùng. Đó là một cách thức kỳ quái mà trước giờ cha không biết”.
Cô gái đột ngột nói, giọng pha chút khinh bỉ:
“Con nghĩ là cha gặp các vụ trộm thường xuyên chứ”.
“À, đúng. Cha biết tất cả bọn chúng. Và đó là lý do tại sao, con yêu à, không phải vì cha là cha con (các ông bố thường không hiểu gì về con cái họ) mà vì cha là một cảnh sát, cha biết rõ con không phải kẻ trộm. Con không bao giờ lấy thứ gì ờ cái chốn này. Trộm có hai loại, một loại lấy những thứ có sức cám dỗ lớn mà bất chợt lọt vào mắt họ (nhưng loại đó hiếm gặp – điều thú vị là một người chân thật thường có thể vượt qua được cám dỗ) và loại kia lấy bất cứ thứ gì không thuộc về họ. Con không thuộc hai loại này. Con không phải là trộm. Con là kiểu nói dối không bình thường”.
Sylvia bắt đầu, “Nhưng…”
Ông gạt đi.
“Con đã thừa nhận tất cả? Đúng vậy, cha biết điều đó. Đã từng có một vị thánh thường mang bánh mì ra ngoài cho người nghèo. Người chồng không thích điều đó. Một lần ông bắt gặp và hỏi bà ấy giấu gì trong giỏ. Bà ấy rất hoảng sợ và nói đó là hoa hồng – ông ta xé cái giỏ ra và đúng là hoa hồng thật – một phép mầu. Bây giờ nếu con là thánh Elizabeth, đi ra ngoài với một giỏ hoa hồng, và chồng con đi theo, hỏi con đang cầm gì, con sẽ hoảng sợ và nói đó là ‘bánh mì’.”
Ông dừng lại, rồi nhỏ nhẹ nói:
“Là như vậy, đúng không?”
Một sự im lặng kéo dài và rồi cô gái đột ngột cúi đầu.
Battle nói:
“Nói cho cha biết đi, con gái ngoan. Chuyện là thế nào?”
“Cô ấy yêu cầu tất cả chúng con đứng dậy. Cô ấy thuật lại sự việc. Và con thấy cô ấy nhìn con và con biết cô ấy nghĩ là con. Con nhận thấy mặt mình đỏ bừng, và con thấy vài bạn gái nhìn con. Thật kinh khủng. Và rồi những người khác bắt đầu nhìn con và thì thầm bàn tán. Con có thể thấy tất cả bọn họ đều nghĩ như vậy. Và rồi một buổi chiều nọ, cô Amp đưa con lên đây cùng một số bạn khác và chúng con chơi trò chơi đoán chữ – cô ấy nói một từ và chúng con trả lời”.
Battle cười một cách kinh tờm.
“Và con có thể hiểu điều này có ý gì, và… và cả người con như đông cứng lại. Con cố gắng không trả lời sai, con cố gắng nghĩ về những thứ bên ngoài, như những con sóc hay những bông hoa… và cô Amp ngồi đó quan sát con với cặp mắt sắc lẻm – cha biết không, điều chán nản gì đó nổi lên trong con. Và sau đó, à, càng ngày càng tệ và một ngày nọ, cô Amp nói với con khá tử tế, có vẻ thấu hiểu… và… và con thua cuộc và thừa nhận là con đã làm… và ôi, cha ơi! Cứu con!”
Battle xoa cằm.
“Cha biết rồi”.
“Cha có hiểu không?”
“Không, Sylvia. Cha không hiểu vì cha không làm cách đó. Nếu ai đó cố gắng khiến cha thừa nhận rằng cha đã làm gì đó mà thật sự cha không làm, cha cảm thấy muốn đấm vào mặt kẻ đó. Nhưng cha biết trường hợp của con ra sao – và cô Amp có cặp mắt sắc lẻm đó của con đã có một ví dụ hay về tâm lý bất ổn ngay trước mũi cô ta, vì bất cứ người nào thiếu kinh nghiệm về lý thuyết đó đều có thể hiểu sai. Vấn đề phải làm bây giờ là dọn dẹp đống rác rưởi này. Cô Amphrey ở đâu?”
Cô Amphrey đang khéo léo lượn lờ gần đó. Nụ cười cảm thông vẫn giữ nguyên trên mặt cô khi sĩ quan Battle nói một cách căng thẳng:
“Để công bằng cho con gái tôi, tôi phải yêu cầu cô gọi cảnh sát khu vực đến đây”.
“Nhưng, ông Battle, chính Sylvia…”
“Sylvia chưa bao giờ chạm tay vào bất cứ thứ gì không thuộc về nó ở nơi này”.
“Tôi khá hiểu điều đó, vì là một người cha…”
“Tôi không nói với tư cách là một người cha, mà là một cảnh sát. Hãy để cảnh sát giúp cô một tay trong vụ này. Họ sẽ thận trọng. Cô sẽ thấy mọi thứ được giấu đâu đó và sẽ có dấu vân tay trên chúng, tôi hy vọng vậy. Những kẻ trộm vặt không nghĩ tới việc mang găng tay đâu. Giờ tôi sẽ đưa con gái tôi về. Nếu cảnh sát tìm ra chứng cứ – chứng cứ thật – chứng minh con bé có liên quan tới vụ trộm, tôi sê chuẩn bị cho con bé ra tòa và chấp nhận những gì xảy ra với nó, nhưng tồi không lo lắng gì cả”.
Khi ông lái xe ra khỏi cổng với Sylvia ngồi bên cạnh, chừng năm phút sau, ông hỏi:
“Cô gái tóc hoe hơi xù xù, đôi má rất hồng, có nốt ruồi ở cằm và cặp mắt xanh là ai? Cha có đi ngang qua cô ta ở lối đi”.
“Nghe sao giống Olive Parsons”.
“À, vậy đó, cha không ngạc nhiên gì nếu thủ phạm là cô ta”.
“Trông cô ấy có vẻ gì là sợ hãi không cha?”
“Không, trông hơi đỏm dáng! Cái vẻ đỏm dáng bình tĩnh mà cha đã gặp hàng trăm lần ở sở cảnh sát. Cha cá con bé là kẻ ăn trộm, nhưng con sẽ khó mà có được những lời thú nhận của nó, không dễ đâu”.
Sylvia buông tiếng thở dài:
“Cứ như là vừa mới thoát ra khỏi ác mộng vậy. Ôi cha ơi, con xin lỗi. Ôi, con xin lỗi! Sao con có thể là một kẻ ngốc, vô cùng ngốc nghếch như vậy chứ? Con cảm thấy kinh khủng quá”.
“Được rồi” sĩ quan Battle nói, nhấc tay khỏi bánh lái và vỗ lên cánh tay cô con gái, rồi thốt lên một trong những lời an ủi sáo mòn của ông. “Con đừng lo. Những chuyện này là để thử thách chúng ta. Đúng vậy, những chuyện như thế này là để thử thách chúng ta. Ít ra là cha nghĩ như vậy. Cha không thấy có lý do nào khác để chúng xảy ra cho chúng ta…”
Ngày 19 tháng Tư
Ánh mặt trời thiêu đốt ngôi nhà của Nevile Strange ở Hindhead.
Đó là một ngày tháng Tư nóng hơn cả những ngày tháng Sáu sắp đến, như vẫn thường xảy ra ít nhất là một lần trong một tháng.
Nevile Strange đang xuống lầu. Anh mặc bộ đồ vải flannel trắng, tay kẹp bốn chiếc vọt tennis.
Nếu chọn một người Anh để làm ví dụ về mẫu đàn ông may mắn đến nỗi không cần mơ ước gi, thì ủy ban Bầu chọn sẽ chọn Nevile Strange. Đối với người dân Anh, Nevile Strange là một người nổi tiếng, một tay vợt hàng đầu và là vận động viên các môn phối hợp. Dù anh chưa bao giờ vào được vòng chung kết giải Wimbledon, anh qua được vài vòng đầu, và trong các trận đánh đôi nam nữ, anh đã hai lần vào bán kết. Có lẽ anh là vận động viên có quá nhiều tài để có thể trờ thành một nhà vô địch tennis. Anh là tuyển thủ dự bị ở đội golf, một vận động viên bơi lội giỏi, và đã vài lần leo núi Alps. Anh ba mươi ba tuổi, sức khỏe tốt, ngoại hình đẹp, giàu có, và một người vợ mới cưới cực kỳ xinh đẹp, với tất cả những điều đó thì chẳng có gì phải quan tâm hay lo lắng.
Tuy nhiên sáng nay khi anh đi xuống cầu thang thì có một cái bóng đi theo anh. Một cái bóng mà chẳng ai thấy được. Nhưng anh đã phát hiện ra nó, ý nghĩ về nó làm anh nhíu mày, và làm cho vẻ mặt anh trở nên bối rối và thiếu quyết đoán.
Anh đi băng qua sảnh, vươn vai lên như thể ném đi một gánh nặng nào đó, băng qua phòng khách, bước ra hàng hiên có kính bao bọc, ở đó, cô vợ Kay đang cuộn tròn trên ghế nệm uống cam vắt.
Kay Strange hai mươi ba tuổi và là một cô gái xinh đẹp lạ thường. Cô có thân mình mảnh khảnh nhung khêu gợi một cách tinh tế, mái tóc hung đỏ, làn da hoàn hảo đến nỗi cô thường chỉ cần trang điểm rất nhẹ để tôn vẻ đẹp đó lên, và cặp mắt với đôi chân mày đen hiếm khi trùng với viền mái tóc đỏ trước trán, và nếu có thì đúng là thảm họa.
Chồng cô nhỏ nhẹ:
“Chào người đẹp, ăn sáng gì đây cưng?”
Kay trả lời: “Những quả cật máu me kinh khủng dành cho anh, và nấm, và thịt ba chỉ cuộn”.
“Nghe được đó” Nevile nói.
Anh tự đi lấy thức ăn và thêm một ly cà phê. Vài phút im lặng trôi qua.
“Ô” Kay nói, ngoe nguẩy những ngón chân trần với các móng chân được sơn màu tím một cách khêu gợi. “Mặt trời không đáng yêu sao? Tóm lại thì nước Anh cũng đâu đến nỗi tệ”.
Họ vừa trở về từ miền nam nước Pháp.
Sau khi lướt qua các tiêu đề của tờ báo, Nevile quay lại trang thể thao và chỉ nói “Ừm…”
Sau đó, vừa ăn bánh mì nướng và mứt, anh đặt tờ báo sang một bên và kiểm tra thư.
Cũng có vài bức hay nhưng hầu hết anh xé đôi và vứt đi ngay. Giấy báo gửi khách hàng, quảng cáo, ấn phẩm.
Kay nói: “Em không thích cách phối màu trong phòng khách, em thay đổi được không, Nevile?”
“Bất cứ điều gì em muốn, người đẹp à”.
“Màu xanh lam tươi,” Kay nói mơ màng, “và những chiếc đệm satanh màu ngà”.
“Vậy em phải nuôi thêm con vượn nữa” Nevile nói.
“Anh làm con vượn đó đi” Kay trả lp72i.
Nevile mở tiếp lá thư khác.
“À, nhân tiện,” Kay nói “Shirty mời chúng ta đi Na Uy bằng du thuyền vào cuối tháng Sáu, không đi thì ngại lắm”.
Cô cẩn thận liếc sang Nevile và nói một cách buồn bã: “Em muốn đi”.
Có điều gì đó, một thứ không chắc chắn, như đám mây lơ lửng trên mặt Nevile.
Kay chống đối:
“Chúng ta có phải tới chỗ bà Camilla già nua đó không?”
Nevile cau mày:
“Dĩ nhiên là phải đi rồi. Kay này, ehúng ta đã nói chuyện này rồi mà. Ông Matthew là người giám hộ của anh. Ông ấy và Camilla đã chăm sóc anh. Gull’s Point là nhà anh, cho tới giờ vẫn là nhà của anh”.
“0, được rồi, được rồi” Kay nói. “Nếu phải đi, thì chúng ta đi. Cuối cùng thì, chúng ta sẽ hưởng số tiền đó khi bà ta qua đời, vì vậy em nghĩ là chúng ta phải nịnh hót một chút”.
Nevile giận dữ nói:
“Đó không phải là vấn đề nịnh nọt! Bà ấy không kiểm soát số tiền đó. Ông Matthew tin tưởng giao tiền cho bà ấy giữ suốt đời và rồi sẽ tới lượt anh và vợ anh. Đó là vấn đề tình cảm. Sao em không chịu hiểu điều đó vậy?”
Kay nói sau một thoáng do dự:
“Em thật sự hiểu mà. Em chỉ đang giả vờ thôi bởi vì… à, vì em biết em được phép đến đó chỉ vì họ phải chấp nhận như vậy. Họ ghét em. Đúng vậy, họ ghét em! Bà Tressilian coi thường em còn Mary Aldin thì luôn cảnh giác khi nói chuyện với em. Với anh những chuyện đó chẳng sao cả. Anh không thấy những gì đang diễn ra”.
“Dường như họ luôn rất lịch sự với em mà. Em biết rõ là anh không thể chịu đựng được nếu họ không làm vậy”.
Qua cặp mi đen, Kay tò mò nhìn anh:
“Họ đủ lịch sự nhưng họ biết cách làm em bực mình. Em là kẻ xen vào. Đó là cách họ nghĩ về em”.
“Được rồi,” Nevile nói, “cuối cùng, anh nghĩ đó là điều hiển nhiên, đúng không?”
Giọng anh thay đổi một cách nhẹ nhàng. Anh đứng dậy quay lưng lại với Kay và nhìn ra quang cảnh bên ngoài.
“À đúng, em dám nói đó là tự nhiên. Họ tận tình với Audrey, đúng không?” Giọng cô hơi run. “Audrey nhọt nhạt thân mến! Camilla không tha thứ cho em vì đã chiếm chỗ cô ta”.
Nevile không quay lại, giọng nói vô cảm, “Xét cho cùng, Camilla đã già rồi… hơn bảy mươi rồi. Thế hệ của bà ấy thật sự không thích việc ly hôn, em biết mà. Nói chung anh nghĩ là bà ấy chấp nhận điều đó rất tốt nếu xét đến việc bà ấy thích Audrey đến thế nào”.
Giọng anh thay đổi đôi chút khi nhắc đến cái tên ấy.
“Họ nghĩ anh đối xử tệ với cô ta”.
“Anh đã làm như vậy” Nevile thì thầm, nhưng vợ anh đã nghe được.
“Ôi Nevile, đừng ngớ ngẩn như vậychứ anh. Chẳng qua là bà ấy chọn cách làm ầm ĩ lên thôi”.
“Bà ấy không làm ầm lên. Audrey cũng không bao giờ như vậy”.
“À, anh biết ý em là gì mà. Vì cô ta chuyển đến nơi khác và bị ốm, sau đó đi khắp nơi với bộ dạng thất tình. Em gọi đó là nhặng xị. Em không thể gọi Audrey là kẻ thua cuộc vẻ vang được. Quan điểm của em là nếu người vợ không thể giữ được chồng thì nên chia tay một cách nhẹ nhàng. Hai người không hề có điểm chung nào. Cô ta không bao giờ chơi một môn thể thao nào, trông xanh xao và tả tơi như miếng giẻ rách vậy. Cô ta chẳng có sức sống! Nếu cô ta thật sự quan tâm tới anh, cô ta nên nghĩ tới hạnh phúc của anh trước chứ, và sẽ vui khi anh sống hạnh phúc với người thích hợp với anh”.
Nevile quay lại và cười mỉa mai:
“Đam mê thể thao ghê nhỉ! Thể thao thì liên quan gì đến tình yêu và hôn nhân chứ!”
Kay cười lớn và đỏ mặt:
“À, có lẽ em nói hơi quá một chút. Nhưng ở một mức độ nào đó, chuyện gì đến thì nó sẽ phải đến. Anh phải chấp nhận những điều này!”
Nevile nói nhỏ giọng:
“Audrey chấp nhận nó. Cô ấy ly hôn với anh để em và anh có thể cưới nhau”.
“Đúng, em biết…” Kay ngập ngừng.
Nevile nói: “Em chẳng bao giờ hiểu được Audrey”.
“Vâng, em không hiểu. Nói cách nào đó thì Audrey làm em sởn da gà. Em không biết gì về cô ấy. Anh không bao giờ biết cô ấy đang nghĩ gì…Cô ấy… cô ấy hơi đáng sợ”.
“Ôi, tầm phào quá, Kay à”.
“À, vì cô ấy làm em sợ. Có lẽ bởi vì cô ấy thông minh”.
“Người yêu ngốc nghếch của anh ơi”.
Kay cười.
“Anh luôn gọi em như vậy!”
“Vì em như vậy mà!”
Họ nhìn nhau cười âu yếm. Nevile tới bên cô, cúi xuống hôn lên gáy cô.
“Kay đáng yêu, đáng yêu” anh thì thầm.
“Tốt lắm Kay” Kay nói. “Từ bỏ chuyến đi chơi bằng du thuyền và bị làm mất mặt bởi những mối quan hệ nghiêm túc thời Victoria của chồng”.
Nevile quay lại và ngồi xuống gần chiếc bàn.
“Em biết không,” anh nói “anh thấy nếu em muốn đi du lịch với Shirty đến vậy thì tại sao chúng ta lại không đi chứ”.
Kay ngồi bật dậy ngạc nhiên:
“Vậy còn Saltcreek và Gull’s Point thì sao?”
Nevile nói bằng giọng không tự nhiên lắm:
“Anh không biết tại sao chúng ta không tới đó vào đầu tháng Chín?”
“Ồ, nhưng Nevile này, chắc chắn…” cô dừng bặt.
“Chúng ta không thể đi vào tháng Bảy và tháng Tám vì giải đấu” Nevile nói. “Nhưng vào tuần cuối tháng Tám chúng ta sê xong giải ở St Loo và từ đó chúng ta khởi hành đến Saltcreek là tiện nhất”.
“Ồ, như vậy thì ổn cả – tuyệt vời. Nhưng em nghĩ… à, cô ấy luôn tới đó vào tháng Chín đúng không?”
“Ý em là Audrey hả?”
“Đúng vậy, em cho là họ có thể hoãn cuộc hẹn với cô ấy, nhưng…”
“Tại sao họ phải hoãn cuộc hẹn với cô ấy?”
Kay liếc nhìn anh đầy vẻ nghi ngờ:
“Ý anh là chúng ta cũng nên đến vào thời điểm đó sao? Ý nghĩ lạ thật đó”.
Nevile gắt gỏng:
“Anh nghĩ ý đó chẳng có gì lạ cả. Ngày nay nhiều người làm như vậy mà. Tại sao tất cả chúng ta không thể là bạn bè chứ? Như vậy mọi việc trở nên đơn giản hơn nhiều. Tại sao chứ, hôm trước cũng là em nói vậy mà”.
“Em nói sao?”
“Đúng, em không nhớ à? Khi chúng ta nói về Howes, và em nói đó là cách hợp lý để nhìn nhận sự việc, và rằng vợ mới của Leonard và vợ cũ của anh ta là bạn tốt của nhau”.
“Ồ, em chẳng phiền gì đâu. Em cũng nghĩ như vậy là hay nhất. Nhưng… à, em không cho là Audrey cũng nghĩ như vậy”.
“Nhảm nhí”.
“Không nhảm nhí đâu. Anh biết mà, Nevile, Audrey thích anh kinh khủng… Em không nghĩ cô ta có thể chịu đựng được chúng ta một thời gian đâu”.
“Em sai rồi, Kay à. Audrey nghĩ như vậy sẽ hay đó”.
“Audrey… anh nói Audrey nghĩ là có ý gì vậy? Sao anh biết Audrey nghĩ gì chứ?”
Nevile có vẻ hơi bối rối. Anh hắng giọng ngượng ngùng:
“Thật sự là, hôm qua anh tình cờ gặp cô ấy khi ở London”.
“Anh có nói với em đâu”.
Nevile nói không được tự nhiên:
“Giờ anh đang nói với em đây. Thật sự chỉ là tình cờ thôi. Anh đang đi qua công viên và cô ấy đi về phía anh. Em không muốn anh phải chạy trốn cô ấy chứ hả?”
“Không, tất nhiên là không rồi” Kay nói, và liếc mắt. “Anh nói tiếp đi”.
“Anh… bọn anh… dừng lại, tất nhiên rồi, và rồi anh quay lại và đi cùng cô ấy. Anh… anh cảm thấy ít ra đó là điều anh có thể làm”.
“Rồi sao nữa?” Kay nói.
“Và rồi bọn anh ngồi xuống ghế và nói chuyện. Cô ấy rất tử tế, thật sự rất tử tế”.
“Thú vị thật”.
“Bọn anh nói chuyện, em biết đó, hết chuyện này tới chuyện khác. Cô ấy khá tự nhiên và bình thường, và vậy thôi”.
“Thật là phi thường” Kay nói.
“Và cô ấy hỏi về em…”
“Thật là tử tế!”
“Và bọn anh nói về em một hồi. Thật đó, Kay, cô ấy quá tử tế”.
“Audrey yêu dấu!”
“Và vậy là phần anh, em biết mà, nếu hai người trở thành bạn bè thì hay quá – nếu cả ba chúng ta có thể cùng nhau. Và anh chợt nghĩ rằng có lẽ chúng ta nên làm việc đó tại Gull’s Point mùa hè này, ở đó, nó có thể xảy ra một cách tự nhiên”.
“Anh nghĩ vậy à?”
“Anh… à, đúng vậy, tất nhiên rồi. Tất cả đều là ý kiến của anh hết”.
“Anh chưa bao giờ nói gì với em về việc đó”.
“Anh chỉ bất chợt nghĩ tới nó thôi”.
“Em biết. Dù sao đi nữa, là do anh gợi ý và Audrey nghĩ đó là ý kiến quá tuyệt vời sao?”
Lần đầu tiên, có điều gì đó trong thái độ của Kay có vẻ như hiểu được ý của Nevile.
Anh nói:
“Có vấn đề gì không, người đẹp?”
“Ồ không, không có gì. Chẳng có gì cả đâu. Việc em có cho đó là ý kiến hay hay không thì có ảnh hưởng gì với anh và Audrey đâu?”
Nevile liếc nhìn cô:
“Nhưng mà, Kay này, em lo gì chứ?”
Kay cắn môi.
Nevile nói tiếp:
“Hôm trước chính miệng em nói…”
“Thôi, đừng nhắc lại chuyện đó nữa! Lúc ấy em nói về người khác, không phải chúng ta”.
“Nhưng điều đó phần nào làm anh suy nghĩ về nó”.
“Đừng xem em là đồ ngốc. Em không tin những chuyện đó đâu”.
Nevile nhìn cô thất vọng, anh nói:
“Nhưng, Kay à, tại sao em lại phiền lòng chuyện đó vậy? Ý anh là, chẳng có gì phải lo cả!”
“Không có sao?”
“À, ý anh… ghen tuông… là chuyện khác”. Anh dừng lại, giọng thay đổi. “Em thấy đó, Kay, em và anh đã đối xử tệ với Audrey. Không, anh không có ý đó. Em không liên quan gì cả. Anh đã đối xử tệ với cô ấy. Nói rằng anh không thể giúp cô ấy được cũng chẳng ích gì. Anh cảm thấy, nếu chuyện này có thể giải quyết được, anh sẽ cảm thấy tốt hơn. Nó sẽ giúp anh hạnh phúc hơn”.
Kay nói chậm rãi: “Vậy là anh không thấy hạnh phúc sao?”
“Ngốc à, ý em là sao chứ? Tất nhiên là anh hạnh phúc rồi, cực kỳ hạnh phúc. Nhưng…”
Kay cắt ngang:
“Nhưng – vậy đó! Luôn luôn là ‘nhưng’ trong ngôi nhà này. Một cái bóng mờ mờ bao phủ nơi này. Bóng của Audrey”.
Nevile liếc cô:
“Em đang ghen với Audrey à?” anh hỏi.
“Em không ghen với cô ta. Em sợ cô ta… Nevile, anh không biết Audrey thế nào đâu”.
“Khống biết cô ấy ra sao trong khi anh sống cùng cô ấy tám năm sao?”
“Anh không biết,” Kay lặp lại, “Audrey như thế nào đâu”.
Ngày 30 tháng Tư
“Vô lý!” bà Tressilian nói. Bà thả mình xuống gối và liếc nhìn quanh phòng. “Hoàn toàn phi lý! Nevile hẳn là bị điên”.
“Đúng là có hơi lạ” Mary Aldin đáp lời.
Bà Tressilian có vẻ ngoài nổi bật với chiếc mũi khoằm nhỏ, và khi muốn bà có thể tạo ra được ảnh hưởng lớn. Dù đã trên bảy mươi tuổi và sức khỏe không tốt, nhưng sức mạnh tâm trí của bà không hề suy giảm. Sự thật là đã có thời gian dài bà sống đời sống thực vật, rút ra khỏi tất cả những xúc cảm của cuộc sống khi bà nằm đó mắt lim dim. Nhưng từ trạng thái nửa hôn mê đó, các khả năng của bà lại nổi bật lên sắc sảo đến cực điểm, và với giọng điệu vô cùng sắc bén. Với những chiếc gối trên chiếc giường rộng lớn ở góc phòng, căn phòng của bà trông giống như của Nữ hoàng Pháp. Mary Aldin, một người họ hàng xa, sống cùng và chăm sóc bà. Hai người phụ nữ rất hợp nhau. Mary ba mươi sáu tuổi nhưng có gương mặt trẻ trung rất dịu dàng và không bị ảnh hướng nhiều bởi thời gian, người ta chỉ có thể đoán tuổi cô khoảng từ ba mươi đến bốn mươi lăm, rất khó biết chính xác. Cô có vóc dáng đẹp, thướt tha, mái tóc đen với một lọn tóc trắng trước mặt tạo nên nét riêng của cô. Kiểu tóc đó từng là thời trang, nhưng lọn tóc trắng của Mary hoàn toàn tự nhiên và cô đã có lọn tóc đó từ thời con gái.
Cô đang trầm tư nhìn xuống lá thư của Nevile Strange mà quý bà Tressilian vừa trao cho cô.
“Vâng” cô nói. “Có vẻ hơi lạ”.
“Cháu không cho rằng đây là ý kiến của Nevile đó chứ!” bà Tressilian nói. “Ai đó đã nhồi nhét vào đầu nó. Có lẽ là cô vợ mới của nó đó”.
“Là Kay sao? Bà nghĩ đó là ý kiến của Kay à?”
“Có vẻ khá giống cô ta. Mới mẻ và khiếm nhã! Nếu vợ chồng phải công khai những khó khăn của họ và cần đến ly dị, thì ít ra họ nên chia tay cách tử tế chứ. Ta thấy vợ mới và vợ cũ làm bạn với nhau thật là kinh tởm. Ngày nay chẳng còn tiêu chuẩn gì cả!”
“Cháu nghĩ cuộc sống hiện đại có khác” Mary nói.
“Nhưng trong nhà này thì không” bà Tressillian nói. “Ta xem nhiệm vụ của ta là không để cho con móng đỏ đó vào đây”.
“Cô ấy là vợ của Nevile mà”.
“Chính xác. Vì thế ta cảm thấy rằng Matthew cũng mong như vậy. Ông ấy đã tận tụy với nó, và luôn muốn nó xem đây là nhà. Vì ta không chấp nhận vợ nó mà đã có sự bất hòa, ta đã cho nó một cơ hội và bảo cô ta tới đây. Ta không thích cô ta – cô ta không xứng với Nevile – gia đình không tốt, không có căn cơ!”
“Cô ta được sinh ra trong gia đình tốt đó chứ” Mary nói để xoa dịu.
“Dòng họ tồi tệ!” bà Tressilian nói. “Cha cô ta, như ta đã nói với cháu rồi đó, phải thôi việc ở các câu lạc bộ sau vụ kinh doanh thẻ. May mắn là chẳng bao lâu sau ông ta qua đời. Còn mẹ cô ta thì khét tiếng ở Riviera. Đúng là có được sự nuôi dưỡng tốt. Chẳng có gì cả ngoài lối sống rày đây mai đó, và một người mẹ kiểu đó! Rồi cô ta gặp Nevile ở sân quần vợt, kiên quyết theo nó và không bỏ cuộc cho tới khi cô ta khiến được nó bỏ vợ – người mà nó rất mực yêu thương – và hẹn hò với cô ta! Ta cho rằng chuyện này hoàn toàn là lỗi của cô ta!”
Mary cười uể oải. Bà Tressilian có tính cách cổ hủ là luôn đổ tội cho phụ nữ và bao dung với đàn ông trong mọi trường hợp.
“Nghiêm túc mà nói, cháu cho là Nevile cũng có lỗi phần nào” cô gợi ý.
“Nevile cũng rất có lỗi” bàTressilian đồng ý. “Nó có cô vợ quyến rũ luôn luôn tận tụy, có lẽ là quá tận tụy với nó. Tuy nhiên, nếu cô gái đó không cố chấp, ta cho là nó có thể nhận ra được những điều tốt của Audrey. Nhưng cô ta cứ khẳng định sẽ lấy Nevile! Đúng vậy, ta dành hết thảy sự đồng cảm của ta cho Audrey. Ta thích Audrey”.
Mary thở dài: “Như vậy sẽ làm cho mọi thứ thêm khó khăn”. Cô nói.
“Đúng, thật vậy. Bất kỳ ai cũng phải có thất bại mới biết cách xử trí những tình huống khó khăn. Matthew thích Audrey, cả ta cũng vậy, và ai có thể phủ nhận việc con bé là người vợ tốt của Nevile mặc dù có lẽ hơi tiếc là con bé không thể sẻ chia nhiều buồn vui với nó. Con bé không bao giờ thích thể thao. Toàn bộ câu chuyện rất buồn. Khi ta còn là thiếu nữ, những chuyện như thế này đơn giản là không xảy ra. Đàn ông có những chuyện tình của riêng họ, thật tự nhiên, nhưng họ không được quyền ly hôn”.
“À, giờ thì khác rồi” Mary nói sắc sảo.
“Chính xác. Cháu có nhiều ý tưởng giống ta đó. Chẳng ích gì khi nhớ lại thời quá khứ. Những chuyện này đã tới, và những cô gái như Kay Mortimer giật chồng của những phụ nữ khác mà chẳng ai nghĩ họ xấu cả!”
“Trừ những người như bà, Camilla à!”
“Ta không được tính đến. Cô nàng Kay đó chẳng hề lo lắng liệu ta có thích hay không thích cô ta. Cô ta quá bận rộn để có được những khoảng thời gian thoải mái. Khi tới đây, Nevile dẫn cô ta theo và ta thậm chí đã sẵn sàng tiếp bạn cô ta, dù ta không quan tâm đến gã trai trẻ phô trương đó, gã đó luôn đi với cô ta – anh ta tên gì vậy?”
“Ted Latimer?”
“Đúng là anh ta rồi. Một người bạn thời xa xưa của cô ta, và ta rất muốn biết anh ta sống bằng cách nào”.
“Bằng trí thông minh” Mary gợi ý.
“Xin lỗi nhé, ta thì ta nghĩ anh ta sống bằng ngoại hình. Không phải là người bạn dễ chịu của vợ Nevile! Ta không thích cách mà anh ta tới đây mùa hè vừa rồi và ở lại khách sạn Easterhead Bay khi vợ chồng Nevile đến”.
Mary nhìn ra cánh của sổ mở. Nhà của bà Tressilian nằm trên dốc đá cheo leo nhìn ra sông Tem. Ở bờ bên kia là khu nghỉ dưỡng mùa hè mới Easterhead Bay, gồm có bãi tắm với bờ cát rộng, một dây các nhà nghỉ bungalow và một khách sạn lớn trên mũi đất nhìn ra biển. Bản thân Saltcreek là một làng chài đẹp như tranh vẽ nằm trên sườn đồi. Đó là một nơi cổ kính, bảo thủ và bàng quan đôi với Easterhead Bay và những du khách mùa hè của nó.
Mary nhìn qua phía bên kia dòng sông, khách sạn Easterhead Bay gần như đối diện với nhà bà Tressilian. Nó đứng đó với một vẻ hoàn toàn mới mẻ.
“Ta rất vui,” bà Tressilian nói, mắt nhắm lại, “rằng Matthew chưa bao giờ thấy tòa nhà thô thiển đó. Bờ biển vẫn còn hoàn toàn nguyên vẹn khi ông ấy còn sống”.
Ông Matthew và bà Tressilian đến Gull’s Point cách đây ba mươi năm. Đã chín năm rồi kể từ khi ông Matthew, một dân chài rất nhiệt tình, bị lật thuyền và chết chìm ngay trước mắt vợ.
Mọi người cứ nghĩ bà sẽ bán Gull’s Point và bỏ Saltcreek mà đi, nhưng bà Tressilian đã không làm như vậy. Bà tiếp tục sống trong ngôi nhà đó, phản ứng duy nhất của bà là quyết định bỏ tất cả thuyền, và cả nhà thuyền nữa. Không còn thuyền nào sẵn cho khách tới Gull’s Point. Họ phải đi bộ dọc theo bến phà, và rồi thuê một cái thuyền từ một trong những người đua thuyền ở đó.
Mary nói, hơi ngập ngừng:
“Vậy, cháu sẽ viết cho Nevile và nói với anh ấy rằng điều mà anh ấy đề nghị không thích hợp với kế hoạch của chúng ta?”
“Ta chắc chắn sẽ không nghĩ tới việc cản trở chuyến viếng thăm của Audrey. Con bé luôn tới thăm chúng ta vào tháng Chín và ta sẽ không yêu cầu con bé phải thay đổi kế hoạch của nó”.
Mary nói, mắt dán vào lá thư:
“Chẳng phải trong thư Nevile nói Audrey ủng hộ ý tưởng đó, rằng cô ấy sẵn sàng gặp Kay đó sao?”
“Đơn giản là ta chẳng tin chuyện đó” bà Tressilian nói. “Nevile, cũng như tất cả đàn ông khác, tin điều nó muốn tin!”
Mary vẫn cứ khăng khăng:
“Nhưng anh ấy nói anh ấy đã thật sự nói chuyện với Audrey về điều đó”.
“Ai lại đi làm chuyện lạ đời như vậy! Không… có lẽ, cuối cùng thì không thể như vậy!”
Mary nhìn bà vẻ tò mò.
“Cũng như Henry thứ 8” bà Tressilian nói.
Mary có vẻ bối rối.
Bà Tressilian trau chuốt câu nói của mình.
“Lương tâm, cháu biết đó. Henry luôn cố gắng làm cho Catherine tin rằng ly hôn là điều đúng đắn nhất. Nevile biết rằng nó đã cư xử tệ – nó muốn cảm thấy thoải mái về mọi thứ thôi. Vì vậy nó cố gắng buộc Audrey phải nói mọi thứ đều ổn và rằng con bé sẽ đến và gặp Kay và rằng con bé không phiền hà gì”.
“Cháu tự hỏi…” Mary chậm rãi nói.
Bà Tressilian đột ngột nhìn cô.
“Cháu đang nghĩ gì vậy, cháu của ta?”
“Cháu đang nghĩ…” Cô dừng lại, rồi tiếp tục: “Có vẻ như lá thư này không gỉống phong cách của Nevile. Bà có nghĩ rằng, vì lý do nào đó mà Audrey muốn… có buổi gặp mặt này không?”
“Tại sao con bé phải làm vậy?” bà Tressilian hỏi lại ngay. “Sau khi Nevile bỏ con bé, nó đến ở với dì Royde của nó ở Rectory, và hoàn toàn suy sụp. Nó gần như không còn tí sức sống nào, trông cứ như một cái bóng vậy. Rõ ràng là điều đó làm con bé bị tổn thương lắm. Nó là một trong những người kín đáo và cảm nhận mọi thứ thật sâu sắc”.
Mary đồng tình một cách lo lắng:
“Đúng vậy, cô ấy thật sâu sắc. Một cô gái kỳ cục đủ điều…”
“Con bé đã phải chịu đựng nhiều… Nào là chuyện ly hôn rồi Nevile cưới một cô gái khác, và từng chút từng chút, Audrey bắt đầu hồi phục. Giờ thì con bé gần như trở lại như xưa rồi. Cháu không có ý nói là con bé muốn gợi lại những ký ức đó lần nữa chứ?”
Mary vẫn bướng bỉnh: “Nevile nói là cô ấy muốn vậy mà”.
Bà cụ nhìn cô tò mò:
“Cháu quá cố chấp trong chuyện này, Mary à. Sao vậy? Cháu muốn họ gặp nhau ở đây à?”
Mary Aldin đỏ mặt: “Không, dĩ nhiên là không ạ”.
Bà Tressilian nói sắc giọng:
“Không phải chính cháu đã gợi ý cho Nevile những chuyện này chứ hả?”
“Sao bà lại nói vô lý vậy được chứ?”
“Bởi vì, ta không tin đó là ý kiến của Nevile. Chẳng giống Nevile tí nào”. Bà dừng lại một phút, rồi mắt bà sáng lên. “Mai là 1 tháng Năm phải không? Vào ngày 3 Audrey sẽ đến ở với gia đình Darlington ở Esbank. Chỉ cách đây 30km. Viết thư mời con bé tới ăn trưa vậy”.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.