Trăm năm cô đơn

Chương 04 – Phần 2



Thị đã thực hiện lời hứa trong một thời điểm bất lợi vì ngôi nhà của Buênđya đã mất đi không khí êm đềm của những ngày trước đây. Khi phát hiện ra nỗi đam mê của Rêbêca, vốn không thể giữ kín được vì cô bé cử gào thét hoài, Amaranta cũng phát sốt. Cô gái cũng cảm thấy cái gai nhức nhối của tình yêu cô đơn.

Tự giam mình trong nhà tắm, cô gái làm dịu nhẹ đi cơn giông tố của một nỗi đam mê không hy vọng để viết những lá thư nóng bỏng mà cô tự bằng lòng giấu kín dưới đáy rương. Ucsula hầu như không đủ sức để chàm sóc hai cô con gái ôm. Trong những lúc vấn an dài dòng và tế nhị, bà vẫn không hiểu được nguyên nhân nào đã dẫn Amaranta đến tình trạng suy nhược. Cuối cùng, trong một thoáng bừng sáng trí thông minh, bà phá khóa rương và bắt gặp những bức thư được sợi nơ hồng buộc chặt, căng phồng những bông huệ tươi, vẫn còn nhòe nước mắt, để gửi nhưng sẽ không bao giờ gửi cho Piêtrô Crêspi. Uất ức mà khóc, bà nguyền rủa cái giờ mình nẩy ra ý định mua cây đàn pianô tự động, cấm ngặt các buổi học thêu và tuyên bố để tang, một thứ tang không có người chết trong một thời kỳ dài cho đến khi các con gái bà vỡ mộng. Hôsê Accađiô Buênđya, mà lúc này đã đính chính dược cảm nhận đẩu tiên của ông về Piêtrô Crêspi và thán phục nghệ thuật khéo léo sử dụng các máy âm nhạc của anh, đã can thiệp vào câu chuyện, nhưng mọi cố gắng của ông đều trở nên vô ích. Vậy là khi Pila Tecnêra báo cho Aurêlianô biết rằng Rêmêđiôt đã sẵn sàng lấy chồng thì anh hiểu rằng cái tin này sẽ kết thức mọi day dứt cho cha mẹ mình.

Nhưng chính tin ấy lại đặt anh đối mặt với hoàn cảnh thực tế.

Được mời lên phòng khám tham dự một buổi tọa đàm thường lệ Hôsê Accađiô Buênđya và Ucsula bình tĩnh nghe những lời bày tỏ của con trai. Khi biết tên người yêu của con trai, Hôsê Accađiô Buênđya đỏ bừng mặt vì hổ thẹn. “ái tình là một thứ dịch hạch.” Ông nổi cáu giáng đòn sấm sét. “Có biết bao cô gái xinh đẹp và danh giá cho mày, thế mà mày lại đi lấy con gái kẻ thù của tao”. Song Ucsula lại tán thành sự lựa chọn của con trai. Bà bày tỏ cảm tình yêu quí của mình đối với bảy chị em nhà Môscôtê, tất cả đều xinh đẹp và chịu thương chịu khó, đều nền nếp và được giáo dục tốt. Và bà chúc mừng sự sáng suốt của con trai mình trong việc lựa chọn người bạn trăm năm. Bị nhiệt tình của vợ thuyết phục, Hôsê Accađiô Buênđya đặt một diều kiện: Rêbêca, vốn là người thích hợp, sẽ lấy Piêtrô Crêspi.

Trong một chuyến du lịch khi có thời gian, Ucsula sẽ mang Amaranta ra tỉnh để cho việc giao du với một công chúng khác hẳn sẽ làm cho cô khuây khoả dần dần, rồi cô sẽ tỉnh mộng.

Rêbêca bình phục rất nhanh chóng khi được biết ý kiến thống nhất của gia đình và lập tức viết một bức thư vui báo tin cho người yêu biết quyết định chính thức của bố mẹ mình, rồi cô bỏ vào thùng thư mà không cần tới người trung gian nữa.

Amaranta giả vờ tuân theo quyết định của cha mẹ và dần dần cũng khỏi sốt nhưng lòng vẫn nhủ rằng Rêbêca muốn lấy được Piêtrô Crêspi thì phải bước qua xác chết của mình. Ngày thứ bảy sau đó, Hôsê Accađiô Buênđya mặc bộ dạ sẫm màu, áo sơ mi cổ cồn, đi đôi ủng da sơn dương từng được trưng diện trong đêm ăn mừng nhà mới đến hỏi Rêmêđiôt Môscôtê cho con trai mình. Quan thanh tra và phu nhân ngài vừa mừng vừa lo đón tiếp ông, bởi vì họ chưa biết ngụ ý của chuyến đến thăm đường đột này, rồi sau đó họ lại nghĩ rằng ông nhầm lẫn tên người con gái được lựa chọn. Để tránh hiểu lầm, bà mẹ đánh thức Rêmêđiôt và bế cô trên tay ra phòng khách. Cô bé vẫn còn đang ngái ngủ. Người ta hỏi cô bé rằng nếu quả thật là cô đã muốn lấy chồng và cô bé vừa khóc vừa trả lời rằng cô chỉ muốn được mọi người để yên cho mình ngủ. Hôsê Accađiô Buênđya do đã hiểu được sự lúng túng của vợ chồng Môscôtê bèn về nhà nói rõ mọi chuyện cho Aurêlianô nghe. Khi ông trở lại nhà Quan thanh tra, vợ chồng Môscôtê đã ăn mặc theo đúng lễ tân, sắp xếp lại bàn ghế và thay hoa mới vào bình. Mệt mỏi bởi phải làm chuyện miễn cưỡng và bởi cái cổ cồn cài cúc chặt cứ riết lấy cổ đến khó chịu, Hôsê Accađiô Buênđya đã khẳng định rằng quả thật Rêmêđiôt là người được Aurêlianô chọn làm vợ.

“Chẳng ra làm sao cả.” Đông Apôlina Môscôtê buồn rầu nói. “Chúng tôi còn có sáu cô con gái nữa, tất cả đều chưa có nơi có chốn và đang ở tuổi lấy chồng, và đều lấy làm vui thích nếu được làm vợ chính chuyên của các chàng trẻ tuổi đứng đắn và chăm làm như cậu ấy bên nhà, nhưng tiếc thay Aurêlianô lại duy nhất ưng con bé hãy còn đái dầm”.

Phu nhân ngài, một người phụ nữ vẫn giữ được vẻ son sẻ duyên dáng, có đôi mắt và điệu bộ hơi ủ rũ đã phản đối những lời nói hồ đồ của ngài. Khi mọi người uống xong nước hoa quả, vợ chồng Môscôtê đã vui vẻ nhận lời cầu hôn của Aurêlianô. Chỉ có điều bà Môscôtê yêu cầu được nói chuyện riêng với bà Ucsula. Phần vì tò mò, phần vì tự than phiền rằng mình đã bị người ta làm rắc rối trong các vấn đề đàn ông, nhưng thực ra bà rất lo sợ và cảm động, Ucsula đã đến thăm phu nhân Môscôtê vào ngày hôm sau. Nửa giờ sau, bà trở về báo tin rằng Rêmêđiôt chưa đến tuổi thành niên. Aurêlianô không coi đó là một trở ngại lớn. Anh đã đợi lâu rồi nên có thể đợi bao lâu nữa cũng được, cho tới khi cô gái đến tuổi dậy thì.

Ngôi nhà lấy lại không khí yên vui đầm ấm và nó chỉ bị đảo lộn khi Menkyađêt qua đời. Mặc dù cái chết của cụ đã là một sự kiện hiển nhiên, song thời điểm xảy ra thì không ai đoán trước được.

Sau khi trở lại được mấy tháng, trong cơ thể cụ diễn ra quá trình già lão rất nhanh và rất mạnh, đến mức lập tức cụ bị coi như những cụ cố già lụ khụ, đi lại vất vưởng như những chiếc bóng ở trong phòng, nặng nề kéo lê đôi chân, mồm lảm nhảm nói to những ký ức thuở oanh liệt của đời mình và trên thực tế các cụ già là những người không được mọi người quan tâm chăm sóc và nhớ đến cho tới một ngày kia, sáng ra các cụ đã chết còng queo trên giường nằm. Lúc đầu Hôsê Accađiô Buênđya giúp đỡ cụ, thích thú cái tân kỳ của nghề ảnh, và những lời tiên tri của Nostrađam. Nhưng rồi dần dần ông bỏ mặc cụ trong thế giới cô đơn của riêng cụ, bởi vì sự giao tiếp giữa hai người ngày một khó khăn hơn. Cụ cứ ngày một loà và điếc hơn, dường như cụ nhầm lẫn những người hỏi chuyện mình với những người cụ quen trong các thời xa xưa của loài người và cụ trả lời những câu hỏi của họ bằng những câu nói rườm rà lẫn lộn các thứ tiếng với nhau. Như thể được linh cảm trực tiếp hướng dẫn, cụ sờ soạng không khí mà đi. Dù rằng phải len lỏi giữa các đồ vật vẫn không hề làm chúng rơi đổ. Một ngày nọ cụ quên lắp hàm răng giả, vẫn được ngâm trong ca nước để ở ngăn cạnh đầu giường. và cụ không dùng đến nó nữa. Khi Ucsula quyết định mở rộng ngôi nhà ở, bà đã làm cho cụ một căn buồng riêng ngay bên cạnh xưởng kim hoàn của Aurêlianô.

Căn buồng này cách xa những tiếng ồn ào và công việc bếp núc, có một cửa sổ ánh sáng chan hoà rọi vào phòng và một giá sách gồm các cuốn sách hầu như đã rách nát bởi bụi bặm và gián nhấm, những mẩu giấy vụn chi chít ghi những con chữ không thể đọc được và ca nước đựng hàm răng giả đã có những cây bèo trổ hoa vàng nhỏ li ti, tất cả đều do Ucsula tự tay sắp đặt. Căn phòng mới dường như khiến cụ Menkyađêt hài lòng vì không bao giờ thấy cụ ra khỏi phòng mình, ngay cả những lúc ăn cơm cũng không thấy cụ có mặt trong phòng ăn. Cụ chỉ đi sang xưởng kim hoàn của Aurêlianô và cụ vẫn ở lại đây hàng giờ, và hàng giờ để viết thứ văn chương khó hiểu trên những tấm da thuộc. Hình như những tấm da này cứ rạn nứt ra bởi chúng được làm từ chất liệu khô khốc như bột làm bánh phồng. Tại đó, cụ xơi cơm do Visitaxiôn mang đến một ngày hai lần, mặc dù tròng những ngày cuối đời cụ không thích ăn và chỉ ăn rau thôi.

Ít lâu sau, cụ mang vẻ cô đơn buồn tủi của những người ăn chay. Một lớp rêu non giống hệt lớp rêu rậm rì phong trên chiếc áo khoác ngoài tứ thời không bao giờ chịu cởi ra, đã phủ lên lớp da cụ, và hơi thở của cụ nồng nặc mùi rắm của con vật đang ngủ. Aurêlianô cũng quên cụ, vì anh mê mải viết những vần thơ của mình. Nhưng cũng có những lúc anh tưởng mình hiểu được đôi điều cụ nói trong lúc cụ độc thoại bâng quơ và anh đã chú tâm nghe. Thực ra, điều duy nhất anh có thể phân biệt được trong ngôn từ khó hiểu của cụ là sự lắp đi lắp lại không cùng của từ Ekinôxiô[16] và tên Alêchxanđơ Vôn Humbon[17]. Accađiô gần gũi cụ hơn khi cậu bé giúp việc cho Aurêlianô ở trong xưởng kim hoàn. Menkyađêt đã đáp ứng lại sự cố gắng giao tiếp ấy bằng cách đôi lúc xổ ra hàng tràng tiếng Tây Ban Nha rất ít liên quan đến thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, cũng có một buổi chiều nọ, cụ bỗng bừng vui lên một lúc.

[16] Chỉ thời điểm ngày và đêm bằng nhau, và một năm chỉ có hai lần, đó là ngày xuân phân và thu phân.

[17] Alexander Von Humboldt (1769-1859). nhà địa lí người Đức, tác giá cuốn sách nổi tiếng: Cuộc du lịch đến những miền ngày và đêm như nhau của châu lục mới.

Những năm sau này, đứng trước những họng súng của đội hành hình, Accađiô nhớ lại nỗi kinh hoàng của mình khi nghe cụ Menkyađêt đọc vài trang bản thảo. Dĩ nhiên cậu không hiểu ý nghĩa của chúng, nhưng khi nghe cụ đọc to thành lời cậu có cảm tưởng chúng giống như lời ngâm chỉ dụ của Giáo hoàng. Sau đó lần đầu tiên trong nhiều năm, cụ mỉm cười và nói bằng tiếng Tây Ban Nha: “Khi ta chết, hãy thiêu ta trên ngọn lửa thuỷ ngân ba ngày ở ngay trong phòng này”. Accađiô kể lại cho Hôsê Accađiô Buênđya nghe điều ấy, và thế là ông cố gắng tìm mọi cách để có thể được Menkyađêt giảng giải rõ ràng hơn, nhưng ông chỉ nhận được một câu trả lời gọn lỏn: “Ta đã đạt tới trình độ bất diệt”. Khi hơi thở của Menkyađêt đã nặng mùi, Accađiô đưa cụ ra sông tắm vào buổi sáng ngày thứ năm hàng tuần. Dường như cụ khoẻ lại. Cụ cởi quần áo và cụ lội xuống sông tắm cùng với lũ trẻ, và linh giác thần bí có khả năng dắt dẫn cụ đã giúp cụ tránh được những quãng sông nguy hiểm nhiều đá tảng. “Chúng mình thảy đều sinh ra từ nước.” Có lần cụ nói vậy. Cụ sống như thế khá lâu mặc dù không ai nhìn thấy cụ ở trong nhà trừ cái độ cụ cố gắng hết sức để sửa lại cây đàn pianô tự động. Khi cùng Accađiô đi ra sông tắm, cụ mang theo gáo múc nước làm bằng vỏ quả bí, và một cục xà phòng gói trong khăn tắm kẹp dưới nách. Có một ngày thứ năm, trước khi người ta gọi cụ đi ra sông, Aurêlianô nghe thấy cụ nói: “Ta đã chết vì sốt rét ở những cồn cát xứ Xinhgapo”. Ngày hôm ấy, cụ lội xuống sông theo một lối đi nguy hiểm và người ta không tìm thấy cụ cho đến sáng hôm sau là lúc thi hài cụ giạt vào một cù lao rực rỡ ánh nắng nằm ở phía hạ lưu khoảng vài kilômét, có một con diều hâu lẻ đàn đậu ngay trên bụng cụ. Cưỡng lại những lời phản đối om xòm của Ucsula, người khóc cụ còn thảm thiết hơn cả khóc chính cha mình, Hôsê Accađiô Buênđya chống lại việc dân làng định mai táng cụ ngay. “Cụ là đấng bất diệt, – ông nói – và chính cụ đã làm sáng tỏ cái cách thức hồi sinh”. Ông làm sống lại ống dẫn nước bị lãng quên, và đun sôi một chảo thuỷ ngân ở bên cạnh tử thi ngày một dày đặc những mụn phỏng xanh lè nước. Đông Apôlina Môscôtê bạo dạn nhắc ông rằng người chết trôi không chôn ngay sẽ nguy hại cho sức khoẻ chung của dân làng. “Không phải thế, vì cụ vẫn sống mà”. Đó là câu trả lời của Hôsê Accađiô Buênđya, người đã thực hiện đầy đủ sáu mươi hai giờ đốt lửa thuỷ ngân bên tử thi và khi những mụn phỏng xanh lè nước của cái tủ thi ấy bắt đầu bung ra như ngô nở với tiếng nổ lép bép đã làm cho căn nhà nồng nặc mùi khó chịu. Chỉ đến lúc ấy ông mới cho phép người ta chôn cụ, nhưng không phải dưới bất kỳ hình thức nào, mà phải với những lễ nghi trọng thể đối với vị ân nhân vĩ đại nhất của làng Macônđô. Đó là đám tang đầu tiên và xúc động hơn cả mà người ta thấy trong làng này, và nó chỉ bị đám tang của Bà Mẹ vĩ đại sau gần một thế kỷ lấn át thôi. Người ta chôn cất cụ trong một nấm mồ nổi lên ở chính giữa bãi đất mà làng đã dành làm nghĩa địa, với một bia mộ khác nổi điều duy nhất người ta đã được biết về cụ: MENKYAĐÊT. Người ta cử hành chín đêm tang lễ cho cụ. Trong đám đông tụ tập ở ngoài sân để uống cà phê, tán gẫu và đánh bài, Amaranta đã tìm được dịp để tự thổ lộ tình yêu với Piêtrô Crêspi, người cách đây mấy tuần đã chính thức xin cầu hôn với Rêbêca và đã dựng cửa hàng nhạc cụ và đồ chơi bằng dây da ở ngay địa điểm trước đây những người Arập đến ở để đổi các thứ hàng vặt vãnh lấy những chú vẹt đuôi dài, và dân làng vẫn quen gọi nó là đường Thổ Nhĩ Kỳ. Anh chàng người Ý, với mái tóc xoăn vàng óng trên đầu từng khiến cho các bà phụ nữ phải thở dài thèm muốn, không cần phải nghĩ ngợi nhiều đã đối xử với Amaranta như với một cô bé nghịch ngợm.

– Tôi còn có một người em trai nữa, – anh bảo cô gái. – Cậu ấy sẽ đến để giúp tôi trông nom cửa hàng mà.

Amaranta cảm thấy tủi thân, và cô nổi cơn giận dữ nói với Piêtrô Crêspi rằng cô đã quyết chí ngăn cản đám cưới của chị mình, cho dù người ta phải lôi xác chết của mình ra khỏi nhà.

Anh chàng người Ý cảm động trước sự đe doạ bi thương đó đến mức không dám nói lại với Rêbêca. Chuyến du chơi của Amaranta, lúc nào cũng bị Ucsula thúc giục, đã được chuẩn bị trong vòng một tuần. Amaranta không cưỡng lại, nhưng khi hôn tạm biệt Rêbêca, cô đã rỉ tai chị mình:

– Đừng vội mừng nhé. Dù cho người ta mang em đến tận gầm trời cuối đất em sẽ tìm được cách để ngăn cản chị lấy chồng, như vậy thì em phải giết chị thôi.

Ngôi nhà dường như to ra và trống trải hơn khi không có Ucsula ở nhà và khi cụ Menkyađêt đã qua đời nhưng hình như hình bóng cụ vẫn thấp thoáng đi lại trong các phòng. Rêbêca trông nom công việc nội trợ, còn cô gái Anhđiêng trông nom cửa hiệu kẹo bánh. Vào lúc chập tối, khi Piêtrô Crêspi, mặc quần áo dịu thơm mùi oải hương đến, luôn luôn mang theo một thứ đồ chơi làm tặng vật, thì cô người yêu tiếp anh ngay trong phòng khách mở toang các cửa để tránh mọi ngờ vực. Đó là một sự cẩn thận không cần thiết bởi vì chàng thanh niên người Ý đã từng thể hiện mình là con người cao thượng đến mức không dám cầm tay người con gái sẽ là vợ mình trước khi cưới một năm. Những buổi đến chơi đó khiến cho ngôi nhà ngày một chật ních các đồ chơi. Những vũ nữ khiêu vũ nhờ lên dây cót, những hộp nhạc, những con khỉ làm xiếc trên dây, những con chiến mã đang tung vó phi, những thằng hề đánh trống, đó là cả một bộ sưu tập đồ chơi bán cơ khí phong phú và kỳ diệu và nó đã an ủi được Hôsê Accađiô Buênđya đang âu sầu đau đớn trước cái chết của Menkyađêt và chúng lại đưa ông trở về với thời kỳ ông háo hức trước thuật giả kim. Vậy là ông sống trong một thế giới những con vật bị mổ bụng, những cỗ máy bị bổ ra để nghiên cứu nhằm hoàn thiện hệ thống chuyển động liên tục dựa trên những nguyên tắc của quả lắc đồng hồ.

Về phần mình, Aurêlianô đã bỏ mặc công việc trong xưởng kim hoàn để dạy cô bé Rêmêđiôt học đọc và học viết. Lúc đầu cô bé vòi ông khách vẫn thường đến chơi vào các buổi chiều mang cho mình những cán búp bê, và cô bé sẽ là đứa trẻ đáng trách nếu người ta dẹp ngồi trong phòng cùng tiếp khách. Nhưng với đức tính kiên trì và tận tình, Aurêlianô đã cám dỗ được cô bé đến mức nó ngồi với anh hàng giờ đồng hồ để lĩnh hội các bài học và dùng bút chì mầu vẽ trên một tấm bảng con bức tranh những ngôi nhà nhỏ với đàn bò cái đang gặm cỏ ngoài vườn và ông mặt trời tròn gác trên đỉnh núi tỏa chiếu những tia nắng vàng.

Chỉ riêng mình Rêbêca đau khổ trước lời đe doạ của Amaranta. Cô hiểu rất rõ tính cách, thói ương bướng và lòng căm thù sâu sắc của cô em. Những thứ ấy đang làm cô lo sợ.

Hàng giờ ngồi trong buồng tắm, cô mút ngón tay tự kiềm chế cơn thèm để khỏi ăn đất. Cô gọi Pila Tecnêra đến nhà xem bói cho mình để dẹp bớt nỗi lo lắng trong lòng. Sau khi chương bài rồi sắp xếp các quân bài đầy hào hứng, Pila Tecnêra xuất thần bói:

– Em chưa được sung sướng khi mà cha mẹ em chưa được chôn cất tử tế!

Rêbêca rùng mình. Như một giấc mơ cô nhớ lại thấy mình còn bé bỏng lắm, bước vào nhà mang theo một cái rương nhỏ, một chiếc ghế xích đu gỗ và một bao tải chưa bao giờ biết trong đó đựng cái gì. Cô nhớ một công tử hói đầu, mặc vải lanh và trên cổ áo sơ mi đơm một chiếc cúc vàng, người ấy chẳng có liên quan gì với người đàn ông trong lá bài. Cô nhớ một thiếu phụ lộng lẫy rất trẻ, có đôi bàn tay mềm mại và thơm phức mùi nước hoa không hề giống với những bàn tay mắc chứng phong thấp của người đàn bà trong lá bài, thiếu phụ ấy đã cài hoa lên tóc cô và dẫn cô đi dạo chơi quanh làng có những con đường xanh trong buổi chiều vàng.

– Em không hiểu. – Cô nói.

Pila Tecnêra bối rối:

– Chị cũng thế, nhưng những quân bài đã nói vậy đấy.

Rêbêca hoảng hốt, ngày đêm không lúc nào yên khi nghĩ tới lời tiên đoán ấy, đã phải nói lại cho Hôsê Accađiô Buênđya nghe và ông này lập tức mắng át đi, không chịu chứng thực lời đoán của cái lá bài. Nhưng trên thực tế, ông lại thầm lặng lục tìm cái túi tải đựng xương người ở khắp nhà: hết lục tủ rương hòm lại xoay chuyển bàn ghế, lật giường mà vẫn chẳng thấy. Ông nhớ ra từ ngày xây lại nhà mình không nhìn thấy nó nữa. Ông bí mật gọi những người thợ nề đến nhà và một người trong số họ khẳng định rằng anh ta đã đặt túi tải xương người ấy vào một cái hốc tường rồi trát vữa lại vì nó cứ quấy rầy, làm anh rối trí không làm được việc, nhưng lúc này anh không nhớ rõ bức tường ấy thuộc phòng nào. Sau vài ngày dò tìm, với lỗ tai áp sát vào tường, họ đã tìm thấy tiếng kêu lộc cộc, lộc cộc, lộc cộc thầm thì chìm trong tường. Họ đục bức tường và thấy những xương người trong túi tải còn mới nguyên. Ngay ngày hôm đó, người ta mai táng hai bộ xương người trong một nấm mồ không bia mộ ở ngay cạnh mộ cụ Menkyađêt. Hôsê Accađiô Buênđya trở về nhà lòng thanh thản như vừa trút bỏ gánh nặng y hệt như ký ức về Pruđênxiô Aghila trước đây từng đè nặng lên lương tri ông. Khi đi qua nhà bếp, ông hôn lên trán Rêbêca rồi bảo:

– Hãy rũ sạch những ý nghĩ tội nghiệp ấy đì, con ạ! – Ông nói – Từ đây trở đi con sẽ được hạnh phúc.

Tình bạn của Rêbêca đã mở cửa cho Pila Tecnêra đến nhà. Thị đã bị Ucsula cấm cửa kể từ ngày đẻ Accađiô. Như sự chạy nhảy ồn ào của bầy dê cái thị đến nhà vào bất cứ giờ nào và thị hăng hái làm mọi việc nặng nhọc. Đôi lúc thị có mặt trong xưởng kim hoàn và bằng cử chỉ hoạt bát giúp đỡ Accađiô thoa mịn giấy ảnh trong tình cảm âu yếm. Cuối cùng thị đã làm cho cậu lúng túng. Người đàn bà ấy đã làm cậu hoang mang. Nước da rám nắng, mùi khét, tiếng cười khúc khích trong phòng tối của thị khiến cậu thở rộn rã hối hả, khiến cậu lúng túng hoài, cứ va vấp phải các đồ vật ở xung quanh.

Cũng có những lúc Aurêlianô có mặt trong phòng, mải mê làm việc và Pila Tecnêra dựa người vào bàn mà thán phục anh làm việc cần mẫn và tỉ mỉ. Bỗng nhiên thị xuất thần. Aurêlianô nhận rõ rằng Accađiô đang ở trong phòng. Trước khi ngước mắt lên và bắt gặp đôi mắt của Pila Tecnêra, để lộ ý nghĩ rất sáng rõ như thể chúng lộ ra mồn một ngay ở dưới ánh mặt trời lúc đang trưa, anh hỏi:

– Được! Chị hãy nói cho tôi biết cái gì vậy?

Pila Tecnêra liếm môi rồi nở một nụ cười buồn:

– Anh thích hợp với chiến tranh. – Thị nói, – anh đặt mắt ở đâu thì ở đó viên đạn do anh bắn sẽ tới.

Aurêlianô nâng tay tán thành lời tiên đoán ấy. Anh tập trung tư tưởng trở lại với công việc như thể chẳng có chuyện gì vừa xảy ra và anh nói với một giọng bình thản mà rắn rỏi:

– Biết rồi, – anh nói. – Cuộc chiến tranh ấy sẽ mang tên tuổi của tôi mà.

Cuối cùng Hôsê Accađiô Buênđya thực hiện được cái mà ông muốn làm. Ông đã nối được vũ nữ nhẩy múa nhờ dây cót vào bộ máy đồng hồ và nó khiêu vũ theo nhạc suốt ba ngày liền. Chiến tích ấy khiến ông vui sướng hơn bất kỳ một công việc hao tâm tổn sức nào của ông trước đây. Ông không ăn. Ông không ngủ. Vì thiếu Ucsula ở bên cạnh để chăm nom và săn sóc, ông tự để cho mình bơi trong thế giới tưởng tượng do đó dẫn ông đến tình dạng hưng phấn thường xuyên. Ông sống những đêm dài trăn trở mà đi đi lại lại trong phòng, mà lảm nhảm tính suy mà tìm cách áp dụng những nguyên tắc của quả lắc đồng hồ cho những chiếc xe bò, cho những lưỡi cày, nghĩa là cho tất cả những gì hữu hiệu được đặt trong chuyển động. Cơn sốt vì mất ngủ làm cho ông mệt mỏi quá tới mức một buổi đêm về sáng nọ ông không thể nhận ra một ông già tóc bạc phơ có cử chỉ ngỡ ngàng bỗng bước vào phòng ngủ. Đó là Pruđênxiô Aghila. Khi nhận ra Pruđênxiô Aghila, ông ngạc nhiên thấy rằng người chết cũng già theo năm tháng. Hôsê Accađiô Buênđya cảm thấy rùng mình vì nỗi nhớ nhung. “A, Pruđênxiô, – ông reo lên, – xa xôi thế mà bác cũng tìm đến đây được sao”. Sau rất nhiều năm ở trong cõi chết, nỗi nhở nhung người sống mới da diết làm sao, sự cần thiết phải có bạn mới bức bối làm sao, sự gắn kề một cái chết khác vốn đã tồn tại ngay trong lòng cõi chết mà chính Pruđênxiô Aghila vừa rồi mong cho kẻ thù tệ mạt nhất của mình mới đáng sợ làm sao. Pruđênxiô Aghila đã tốn nhiều thời gian đi tìm ông. Pruđênxiô Aghila hỏi thăm ông qua những linh hồn chết ở Riôacha, qua những linh hồn chết ở thung lũng Uga, qua những linh hồn chết từ vùng đầm lầy tới, nhưng không một linh hồn chết nào đã trả lời đúng điều ông muốn hỏi, bởi vì Macônđô thời ấy còn là một làng chưa được các linh hồn chết biết tới. Mãi cho tới khi cụ Menkyađêt đến và cụ chỉ cho ông biết một chấm đen trên những tấm bản đồ nhiều màu của thần chết. Hôsê Accađiô Buênđyanói chuyện với Pruđênxiô cho đến tận sáng. Sau đó ít giờ, người phờ phạc vì mất ngủ, Hôsê Accađiô Buênđya bước vào xưởng kim hoàn của Aurêlianô và hỏi anh: “Hôm nay là thứ mấy?”. Aurêlianô trả lời cha là ngày thứ ba. “Ta cũng nghĩ như vậy.” Hôsê Accađiô Buênđya nói.

“Nhưng ngay lập tức ta hiểu rằng hôm nay vẫn cứ là ngày thứ hai như ngày hôm qua ấy mà. Con hãy nhìn bầu trời kia, hãy nhìn các bức tượng kia, hãy nhìn những chậu thu hải đường kia. Hôm nay cũng vẫn là ngày thứ hai”. Đã quen với những lời lẩn thẩn ấy, Aurêlianô không nghe lời ông. Vào ngày hôm sau, tức sáng ngày thứ tư, Hôsê Accađiô Buênđya lại bước vào xưởng. “Đây là một thảm hoạ” – ông nói, “Con hãy nhìn gió kìa, hãy nghe tiếng kêu vo vo của ông mặt trời kìa, y hệt như hôm qua, hôm kia.” Đêm ấy Piêtrô Crêspi gặp ông ở ngoài hành lang bang khóc lóc với tiếng khóc khô khốc của người già, khóc cho Pruđênxiô Aghila, khóc cho cụ Menkyađêt, khóc cho cha mẹ của Rêbêca, khóc cho cha mẹ ông, khóc cho tất cả những ai ông nhớ được và lúc ấy họ đang cô đơn trong cõi chết. Piêtrô Crêspi tặng ông một con gấu cử động nhờ dây cót đi hai chân trên một dây sắt, nhưng với quà tặng này anh vẫn không làm ông vui lên được. Ông hỏi anh kế hoạch mà ông đặt ra cho anh từ những hôm trước như thế nào rồi, tức là công việc nói về khả năng xây dựng một cái máy dựa trên nguyên tắc quả lắc đồng hồ có thể nâng bổng bất cứ vật gì trong không trung, có thể giúp con người bay lên. Và anh đã trả lời ông rằng: không thể được, vì là quả lắc đồng hồ có thể nâng bổng bất kỳ một vật nào lên không trung nhưng nó lại không thể tự nâng mình lên được. Ngày thứ trăm ông lại có mặt trong xưởng kim hoàn với bộ dạng đau khổ của mặt đất bị chà sát. “Bộ máy thời gian đã hỏng rồi, – ông khóc nức nở. – Còn Ucsula và Amaranta lại ở rất xa.” Aurêlianô mắng mỏ cha như mắng một đứa trẻ và ông lại ngoan ngoãn nghe theo. Sáu giờ liên tục ông kiểm tra các đồ vật cố tìm gặp một sự khác biệt về một phương diện nào đó mà ngày hôm qua chúng đã có nhằm phát hiện trong chúng một sự thay đổi chứng tỏ rằng thời gian vẫn trôi chảy tuần tự. Cả đêm ông nằm trên giường, mắt mở thao láo, mà gọi Pruđênxiô Aghila, gọi Menkyađêt, gọi tất cả những người đã chết để họ tới cùng chia sẻ với ông nỗi chán chường. Nhưng không một ai tới. Ngày thứ sáu, ngay trước lúc mọi người thức dậy, ông lại quan sát mọi biểu hiện bên ngoài của thiên nhiên, ông quan sát mãi cho tới khi ông không nghi ngờ rằng hôm ấy vẫn cứ là ngày thứ hai.

Thế là ông vớ lấy thanh gỗ chèn cửa và với sức mạnh tàn bạo vốn có của mình ông đập phá tan tành các dụng cụ phòng thí nghiệm giả kim, xưởng kim hoàn, cỗ máy ảnh. Rồi như một con ác quỷ ông gào thét bằng một thứ ngôn ngữ có âm thanh sang sảng đồng thời lại thao thao bất tuyệt mà thực tế không thể nào hiểu được. Ông sẵn sàng đập phá nốt cả ngôi nhà cũng vừa hay Aurêlianô đã nhờ hàng xóm đến giúp mình. Phải nhờ tới mười người đàn ông lực lưỡng mới vật đổ được ông, mười bốn người trói ông, hai mươi người lôi ông tới cây dẻ ở giữa sân là nơi người ta bỏ mặc ông bị trói, tha hồ sủa những lời quái dị, thả sức nhổ phì phì thứ đờm xanh lè. Khi Ucsula và Amanranta trở về, ông vẫn bị trói chặt tay chân vào gốc cây, người ướt, đẫm nước và hoàn toàn ngây dại. Hai mẹ con nói chuyện với ông, nhưng ông không nhận ra người ruột thịt của mình. Ông nói với họ về một cái gì đó không thể hiểu được. Ucsula cởi dây trói nơi cổ tay và cổ chân cho ông, đó là những chỗ thịt đã thành chai do dây thừng thít chặt quá và chỉ để ông bị trói ngang thắt lưng thôi. Sau đó người ta dựng tạm một túp lều lá cọ để che mưa che nắng cho ông.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.