11 Lời Khuyên Dành Cho Thế Hệ Trẻ Của Bill Gates
Lời khuyên thứ tư: Thói quen kỷ luật
Nếu bạn cho rằng thầy giáo của bạn nghiêm khắc thì đến khi đi làm, bạn sẽ thấy ông chủ của bạn cũng như vậy, nhưng ông chủ thì chẳng có một sự hạn chế nào về thời hạn.
BillGates cho rằng: Một người, bất luận là khi nào, đều phải khiêm tốn chấp nhận phê bình, nhất là những thanh niên đang trong giai đoạn trưởng thành. Sự khác nhau là ở chỗ, có người bảo thủ cố chấp, không chịu nổi phê bình; có người lại rất khiêm tốn, luôn sẵn sàng tiếp thu phê bình; có người trước mặt thì cảm ơn, tiếp thu sự phê bình nhưng sau đó lại chẳng nhớ gì; có người trước mặt thì cương quyết không chịu nhận lỗi vì muốn giữ thể diện, nhưng lại âm thầm tự kiểm điểm mình.
Bốn kiểu người trên đều không thể coi là những người biết chấp nhận sự phê bình, bởi vì kiểu người thứ nhất và thứ tư không có thái độ thẳng thắn chấp nhận phê bình; kiểu người thứ hai không có năng lực để thẩm định những lời phê bình, dễ bị đánh ngã; kiểu người thứ ba không có thành ý chấp nhận lời phê bình, chỉ khéo mồm mép.
Vậy thì đâu mới là thái độ đúng đắn khi đối mặt với sự phê bình?
Những người có đầu óc luôn nhìn nhận sự phê bình của người khác trên phương diện tích cực, đặc biệt là những lời phê bình nghiêm khắc. Họ sẽ coi những lời phê bình của người khác là cơ hội để cải thiện công tác của mình, hoàn thiện cá tính, kiểm soát tình cảm, nâng cao sức chịu đựng về tâm lý và kích thích sự đấu trí.
Một người có đủ dũng khí để thừa nhận sai sót của mình cũng có thể đạt được cảm giác thoả mãn ở một mức độ nào đó. Điều này không chỉ giúp loại bỏ mặc cảm tội lỗi và bản năng tự vệ mà còn giúp giải quyết vấn đề do sai sót đó tạo ra.
Bill Gates cho rằng, kẻ ngốc sẽ tìm cách biện hộ cho sai sót của mình, nhưng những người dám thừa nhận sai sót của mình sẽ nhận được sự tôn trọng của người khác. Nếu chúng ta đúng thì phải thuyết phục để người khác đồng ý, ngược lại, nếu sai thì phải nhanh chóng thừa nhận.
Những kẻ ngốc nghếch khi bị phê bình là lập tức nổi giận, nhưng những người thông minh thì học được thêm nhiều kinh nghiệm hơn từ những người trách móc, phản đối họ và “cản trở họ trên đường đi”. Nếu có người nói bạn là “kẻ ngu ngốc đáng chết”, bạn sẽ nổi cơn giận dữ lôi đình hay sẽ khích bác lại họ? Stanton – tham mưu trưởng lục quân của Lincoln đã từng mắng ông như thế. Lincoln vì muốn lấy lòng một vị chính khách nào đó nên đã ký một mệnh lệnh di chuyển một số binh đoàn. Stanton không những không chấp hành mệnh lệnh đó mà còn mắng Lincoln là “kẻ ngu ngốc đáng chết” khi đưa ra những mệnh lệnh như vậy. Ngay lập tức có người thông báo cho Lincoln biết, nhưng Lincoln lại bình thản mà nói rằng: “Nếu stanton nói tôi là kẻ ngu ngốc đáng chết thì nhất định là đúng, bởi vì cách nghĩ của stanton là đúng. Tôi phải xem lại xem việc này rốt cuộc là như thế nào, tôi đã sai ở đâu”.
Lincoln đã đến tìm Stanton, Stanton nói cho Lincoln biết sự sai sót trong mệnh lệnh của ông và Lincoln đã thu lại mệnh lệnh trên. Từ sự việc này chúng ta có thể thấy Lincoln là một người biết phục thiện. Chỉ cần sự phê bình xuất phát từ thiện ý, lời nói có hàm ý sâu sắc thì tác dụng của nó còn lớn hơn cả những lời khen ngợi.
Chúng ta nên chấp nhận những lời phê bình thiện ý, bởi vì con người không phải là thần thánh, luôn có nhiều sai sót. Bill Gates thường nói, ý kiến của đối thủ cạnh tranh thường đúng đắn hơn nhiều so với cách nhìn nhận của bản thân. Nhưng thông thường, mỗi khi bị người khác phê bình, chúng ta chưa cần làm rõ nội dung phê bình đã vội vàng biện hộ cho bản thân theo bản năng. Con người luôn thích nghe những lời dễ chịu.
Tuy vậy, có một số thứ nhất thiết phải học: Học cách khiêm tốn, học sự thông minh, học cách không được vội vàng biện hộ cho bản thân, học cách nói với bản thân: Đột phá trong một lĩnh vực nào đó. Bởi vậy, nhất thiết phải kiềm chế bản thân. Bill Gates đã nói một cách sâu sắc rằng: “Thứ duy nhất mà chúng ta có thể khống chế được chính là đầu óc của bản thân, nếu chúng ta không thể điều khiển được nó thì một sức mạnh khác sẽ đến để điều khiển nó…”
Một người nếu không thể điều khiển được trí não của mình, suy nghĩ luôn bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng khác thì sẽ không thể tập trung. Ca sĩ nổi tiếng Pavarotti khi nói về kinh nghiệm thành công của mình đã viết: “Tôi theo học một thầy dạy hát tại quê nhà, đồng thời vẫn phải theo học tại học viện sư phạm. Khi tốt nghiệp, tôi hỏi bố tôi, bố muốn con sau này làm thầy giáo hay ca sĩ? Bố tôi trả lời: “Nếu con muốn cùng một lúc ngồi lên hai chiếc ghế, con sẽ chỉ có thể ngã vào giữa hai chiếc ghế. Trong cuộc sống, nên chọn lấy cho mình một chiếc ghế”. Tôi đã chọn con đường ca hát, trải qua 14 năm phấn đấu, cuối cùng tôi đã có được thành công”.
Một nhà quyết sách thành công là người quyết định được mình phải làm gì và không làm gì. Để trở thành người quyết đoán, biết cân nhắc nặng nhẹ, nên và không nên làm gì cần có một trí tuệ lớn và sáng suốt trước vô vàn sự mê hoặc.
Những người biết kiềm chế bản thân sẽ có cơ hội để phát triển bản thân; những người biết phát triển bản thân cũng sẽ biết kiềm chế bản thân. Bill Gates nói: “Kiên trì công việc mình nên làm là một việc dũng cảm. Tuyệt đối không làm những việc mà lương tri không cho phép lại là một việc làm dũng cảm khác”. Có được dũng khí này, chúng ta có thể lựa chọn những việc nên làm, loại bỏ những việc không nên làm để đạt được mục đích đã đặt ra.
Kiềm chế bản thân là một kiểu hành vi cưỡng chế, nó không chỉ biểu hiện ở sự khống chế niềm cảm hứng đối với các chuyên môn khác, mà còn biểu hiện ở sự hạn chế về các phương diện như: hoạt động vui chơi, xã giao. Sinh mệnh của con người là hữu hạn, không được giày vò và lãng phí.
Muốn kiềm chế bản thân cần phải có ý chí ngoan cường và bền bỉ, kiểu ý chí này là một quá trình tích lũy lâu dài. Phải khởi đầu từ việc điều chỉnh tình cảm của bản thân. Những người có thể lấy tình cảm của mình để khống chế hành động của người khác chỉ là kẻ yếu; ngược lại, những người có thể dùng hành động để khống chế tình cảm của người khác là kẻ mạnh. Bill Gates đã áp dụng phương pháp “đi ngược lại quỹ đạo” đế đối phó với những tình cảm bất thường.
Nếu cảm thấy mình muốn khóc, tôi sẽ hát; nếu cảm thấy đau khổ, tôi sẽ cười; nếu cảm thấy không thể đảm nhận được, tôi sẽ nghĩ về những thành tựu đã qua; nếu cảm thấy không quan trọng, tôi sẽ nghĩ đến mục tiêu của mình.
Luôn luôn chú ý điều chỉnh tình cảm của mình ở mức độ hợp lý nhất, dần dần chúng ta có thể tăng cường được ý chí của mình, đạt được những thành quả to lớn.
Có một người tên là Howell. Ngày 31 tháng 7 năm 1944, thông tin về cái chết đột ngột của ông ta trong khách sạn NewYork đã làm chấn động toàn nước Mỹ. Phố Wall cũng bị rung chuyển, vì ông là lãnh tụ trong giới tài chính Mỹ, từng đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch hội đồng quản trị Ngân hàng tín dụng thương mại Mỹ, kiêm Chủ tịch hội đồng quản trị của vài công ty lớn. Howell không được học nhiều, ông đã từng bán hàng trong một cửa hàng nhỏ ở vùng nông thôn, sau này từng giữ chức trưởng phòng tín dụng Công ty gang thép Mỹ, đồng thời luôn từng bước hướng đến những địa vị quyền lực cao hơn.
Khi bàn về bí quyết thành công của mình, Hovvell nói: “Mấy năm gần đây tôi luôn có một quyền sồ ghi chép, trong đó ghi lại mỗi ngày có bao nhiêu cuộc hẹn. Gia đình tôi luôn không mong rằng buổi tối ngày cuối tuần tôi sẽ ở nhà bởi vì họ biết tôi thường dành buổi tối cuối tuần đế tự kiểm điểm bản thân, đánh giá về biểu hiện công tác của bản thân trong một tuần. Sau khi ăn tối, tôi mở quyển sồ ghi chép, nhớ lại quá trình của tất cả các cuộc gặp mặt, thảo luận và hội nghị đã diễn ra trong tuần. Tôi sẽ tự hỏi mình những câu hỏi như: “Khi đó mình đã làm sai những gì”, “Có điều nào là đúng? Tôi còn có thể làm thêm gì nữa để cải thiện biểu hiện công tác của bản thân”, “Tôi có thể rút ra được bài học gì từ kinh nghiệm lần này”… Việc tự kiểm điểm hàng tuần có lúc làm cho tôi rất không vui. Đôi khi tôi gần như không dám tin vào những việc mình đã làm. Đương nhiên, càng ngày, những sự việc như vậy xảy ra càng ít, tôi luôn duy trì thói quen phân tích bản thân, chính nó đã giúp đỡ tôi rất nhiều”.
Phương pháp này của Howell có thể là học từ Franklin, nhưng Franklin thì không đợi đến cuối tuần mà mỗi tối ông đều tự kiềm điểm mình. Ông đã phát hiện ra ba lỗi rất nghiêm trọng. Ba lỗi trong đó là: lãng phí thời gian, quan tâm đến chuyện vặt và tranh luận với người khác. Người có đầu óc như Franklin biết rằng, nếu không sửa đổi những khuyết điểm này thì không thể làm nên nghiệp lớn. Bởi vậy, mỗi tuần ông lấy một khuyết điểm phải sửa đổi làm mục tiêu, đồng thời mỗi hôm đều ghi lại xem bên nào thắng.
Tuần sau, ông lại nỗ lực sửa đổi một thói quen xấu khác; trong hai năm, ông kiên trì chiến đấu với những khuyết điểm của bản thân và chiến thắng chúng. Vì thế, Franklin có thể trở thành một nhân vật có sức ảnh hưởng lớn và được toàn nước Mỹ yêu mến.
Thói quen tốt bắt nguồn từ sự tu dưỡng bản thân
Trong cuộc đời mỗi chúng ta, thần kinh não bộ luôn thúc đẩy chúng ta làm ra những động tác tương quan. Loại động tác này không ngừng lặp đi lặp lại trong một hoàn cảnh tương đồng, khiến chúng ta sản sinh ra thói quen một cách không tự giác.
Thói quen không đơn thuần có nghĩa là cứng nhắc, nó còn có thể mang ý nghĩa là sức sống, trật tự và tiết kiệm. Tác dụng phản xạ là một phương pháp tiết kiệm tự nhiên, tạo cơ hội nghỉ ngơi cho thần kinh não bộ, để não bộ làm tốt những công việc quan trọng hơn.
Muốn tạo thói quen, nếu không áp dụng những phương pháp khoa học mà chỉ dựa vào ý chí nhất thời thì nó chỉ khiến bạn cảm thấy mệt mỏi và chán ghét. Thói quen phải dựa vào sự hỗ trợ của các phương pháp khoa học. Trong thói quen, chúng ta bỏ quên ý chí và ước mơ từng có và thực hiện những mơ ước khác. Những gì chúng ta làm ngày hôm nay chính là những việc mà chúng ta đã làm ngày hôm qua.
Cuộc sống mang tính thói quen sẽ khiến bạn cảm thấy có đầy đủ tinh lực và một không gian sống tốt. Thói quen thành tự nhiên, tự nhiên thành cuộc sống. Trong thói quen sống của bạn, bạn có thể thể nghiệm tính cách, sự hứng thú, sở thích, lí tưởng… của mình. Thói quen của mỗi người là không giống nhau vì chúng ta có cách sống khác nhau.
Nếu bạn muốn rèn luyện một kiểu hành vi thành thói quen, mà hành vi này lại rất xa lạ đối với bạn, vậy thì xin hãy nhớ rằng: “Chỉ cần làm nhiều là sẽ làm được!”. Sự tạo thành thói quen chỉ là một sự tích lũy hành động, sự lặp đi lặp lại một mệnh lệnh của thần kinh não bộ. Kiểu hành vi này bạn càng làm nhiều thì những sự kích thích và ghi nhớ mà thần kinh não bộ nhận được sẽ càng sâu sắc, phản ứng của bạn sẽ càng thêm thành thạo và trở thành một thói quen của bạn.
Tuy nhiên, thói quen cũng có thể trở thành thói xấu trong cuộc sống của bạn. Cách sống khác nhau, đương nhiên sẽ có những thói quen sống khác nhau và những sự thích ứng tương ứng. Nếu một thói quen là xấu, chúng ta cần phải thay thế nó bằng một thói quen khác lành mạnh hơn, có trật tự hơn và hữu hiệu hơn.
Mỗi người đều có những thói quen do bản thân tự bồi dưỡng, từ đó trở thành một cá thể khác biệt so với những người khác. Tuy nhiên, đôi khi bạn cũng phải tự xét lại xem tất cả những thói quen của mình liệu có phải đều có lợi hay không, nếu đó là thói quen tốt thì phải tiếp tục duy trì, nếu phát hiện đó là thói quen không tốt thì nhất định phải thay đổi nó. Phương pháp để thay đổi một thói quen xấu như sau:
1. Lựa chọn thời gian phù hợp
Đây là một việc không nên trì hoãn, muốn thay đổi một thói quen mà kéo dài thời gian thì sẽ càng sợ bị thất bại. Để việc thay đổi thói quen đạt được hiệu quả, không nên lựa chọn thời điểm nhà có bạn bè, người thân đến chơi, cũng không nên chọn thời điểm có quá nhiều công việc có thời hạn hoàn thành đang chờ giải quyết. Không nên chọn thời điểm trước dịp cuối năm, vì cuối năm còn phải chuẩn bị ăn tết, lại phải giải quyết các công việc còn tồn đọng, không tránh khỏi sự bận rộn căng thẳng, kiểu áp lực này chỉ làm cho những thói quen xấu trở nên sâu sắc hơn mà thôi.
2. Vận dụng sức mạnh của ý nguyện chứ không phải sức mạnh của ý chí
Thói quen sở dĩ được hình thành là do tiềm thức liên hệ một kiểu hành vi với sự vui vẻ, sự an ủi hay thoả mãn. Tiềm thức không thuộc phạm trù tư duy lý tính, mà là trung tâm của hoạt động tình cảm. Thói quen này sẽ hủy hoại cuộc đời anh”, lý trí nói như vậy, tiềm thức lại không để ý đến điều đó, tiềm thức “sợ” phải vứt bỏ một thói quen khiến nó có được sự an ủi. Sử dụng lý trí để chống lại tiềm thức thì khó có thể giành được thắng lợi. Bởi vậy, khi phải bỏ đi những thói quen xấu, sức mạnh của ý chí không có hiệu quả bằng sức mạnh của ý nguyện.
3. Tìm thứ thay thế. Bồi dưỡng một thói quen tốt khác, như vậy sẽ dễ dàng hơn để loại bỏ thói quen xấu.
Có hai thói quen tốt đặc biệt có tác dụng trong việc giúp loại bỏ thói quen xấu. Một là áp dụng một chế độ ăn uống có dinh dưỡng và điều độ. Tình cảm không ổn định càng khiến con người ỷ lại vào sự an ủi mà thói quen xấu mang lại, do đó, phòng tránh tình trạng lượng đường trong máu lúc tăng, lúc giảm do thói quen ăn uống không tốt tạo ra cũng có tác dụng giúp ổn định tình cảm. Loại thứ hai là thường xuyên vận động với một mức độ thích hợp. Việc này không chỉ giúp tăng cường sức khỏe mà còn có thể kích thích quá trình sản sinh ra chất moóc phin não – một loại vật chất hóa học kiểu moóc phin tự nhiên trong não.
4. Thực hiện từng phần
Một khi đã quyết định thay đổi thói quen thì phải đặt ra mục tiêu. Phải thực tế, biết tận dụng sức hấp dẫn của mục tiêu. Nếu mục tiêu quá lớn thì phải chia nhỏ ra thành từng phần để dễ thực hiện.
5. Không được nhụt chí
Thành công xứng đáng được khen thưởng nhưng thất bại cũng không cần phải bị trừng phạt. Trong thời gian thay đổi thói quen, nếu xảy ra sai sót thì cũng không nên tự trách mình hay từ bỏ. Một lần mắc lỗi không thể được coi là “chứng nào tật nấy”.
Bill Gates chỉ ra rằng: Con người thường cho rằng nguyện vọng mãnh liệt thay đổi thói quen xấu nếu không thực hiện được thì sẽ trở thành một sức mạnh mang tính hủy hoại. Nhưng trên thực tế, chỉ cần di chuyển sự chú ý – dù chỉ là vài phút -, thì nguyện vọng đó có thể sẽ biến mất và sức mạnh tự kiềm chế cũng vì thế mà tăng lên.
Việc tránh để lặp lại thói quen cũ còn khó hơn nhiều so với việc từ bỏ nó lúc ban đầu. Tuy nhiên, nếu bạn duy trì được hình tượng mới thì sẽ tránh được việc lặp lại thói quen cũ.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.