Keira vẫn đang ngủ, tôi ngồi dậy và rời khỏi lều, hạn chế tối đa việc gây tiếng động. Khu trại vẫn chìm trong tĩnh lặng. Tôi leo lên tận đỉnh đồi. Bên dưới, con sông Omo được một làn sương mỏng bao quanh. Một vài ngư phủ đã hối hả bận rộn bên chiếc thuyền độc mộc.
– Cảnh đẹp quá phải không? Keira đang đứng đằng sau tôi lên tiếng.
– Đêm qua em gặp ác mộng, tôi vừa nói vừa quay người lại. Em khua khoắng quẫy đạp tứ tung rồi kêu la nữa.
– Em không nhớ gì cả. Có lẽ em mơ về cuộc trò chuyện tối qua giữa chúng ta chăng?
– Keira, em dẫn anh đến tận nơi đã tìm thấy chiếc mặt dây chuyền của em được không?
– Tại sao, để làm gì ạ?
– Cần xác định vị trí chính xác vì anh có một linh cảm.
– Em còn chưa kịp uống tách trà sáng. Đi theo em nào, em đói rồi, chúng ta sẽ vừa ăn sáng vừa bàn thêm nhé.
Về đến lều, tôi thay một chiếc áo sơ mi sạch rồi lục trong túi xem mình có mang theo những dụng cụ cần thiết không.
Chiếc mặt dây chuyền của Keira đã tiết lộ cho chúng tôi một phần bầu trời không liên quan gì đến thời đại chúng tôi đang sống. Tôi cần phải biết chính xác nơi vật này bị người đã sử dụng nó bỏ lại. Vòm trời đầy sao mà chúng ta có thể quan sát trong những đêm trời quang thay đổi theo từng ngày. Bầu trời tháng Ba không giống bầu trời tháng Mười. Một loạt các phép tính có lẽ sẽ cho phép tôi biết bầu trời có bốn trăm triệu năm tuổi này được mô phỏng vào mùa nào trong năm.
– Theo những gì Harry đã kể với em, cậu ấy đã tìm được vật này trên hòn đảo trung tâm nằm giữa hồ Turkana. Đó là một ngọn núi lửa đã tắt. Lớp bùn của nó rất màu mỡ và nông dân thỉnh thoảng vẫn tới đó để lấy bùn về bón cho đất đai của họ. Harry đã tìm thấy vật này trong một lần theo cha ra đảo.
– Nếu không thể tìm ra người bạn của em thì bố của cậu ấy vẫn ở quanh vùng này chứ?
– Harry là một đứa trẻ, Adrian ạ, mồ côi cả cha lẫn mẹ.
Tôi hẳn đã để lộ ra vẻ ngạc nhiên, bởi Keira đang vừa nhìn tôi vừa lắc đầu.
– Anh không nghĩ cậu ấy và em…
– Anh chỉ tưởng cậu Harry của em lớn tuổi hơn, thế thôi.
– Em không thể cung cấp cho anh thông tin rõ ràng hơn về nơi tìm thấy vật này được.
– Anh không có thiết bị xác định vị trí chính xác. Em không đi cùng anh tới đó sao?
– Không ạ, chắc chắn là không; việc đi lại sẽ mất ít nhất là hai ngày và em không thể bỏ mặc các cộng sự ở đây. Ở đây em có những nghĩa vụ phải thực hiện.
– Nếu em bị bong gân thì mọi chuyện sẽ dừng lại, phải không?
– Em sẽ tự kiếm cho mình một cái nẹp rồi lại tiếp tục làm việc.
– Không ai là không thể miễn trừ cả.
– Công việc này đối với em là không thể miễn trừ, nếu anh thích nhìn nhận sự việc theo cách đó. Bọn em có một chiếc xe hai cầu, em đã rút ra bài học từ kinh nghiệm mới nhất. Em có thể giao nó cho anh nếu anh muốn, và em nhất định sẽ tìm được một dân làng nào đó để dẫn đường cho anh. Nếu xuất phát ngay bây giờ, anh sẽ đến hồ vào cuối giờ chiều. Hồ không xa đây lắm, nhưng đường tới đó thì hầu như không thể đi liền một mạch được; anh sẽ phải chạy xe thật chậm. Sau đó, anh sẽ phải tìm lấy một chiếc thuyền để ra đảo trung tâm. Em không biết anh sẽ mất bao nhiêu tiếng đồng hồ cho việc ấy nhưng nếu không la cà, hẳn là anh có thể về đến đây vào tối ngày mai. Như thế sẽ là vừa kịp thời gian để anh đi Addi-Abeba để kịp lên máy bay.
– Chúng ta sẽ không gặp nhau nhiều.
– Bởi vì anh nhất định phải tới cái hồ đó, đây không phải là lỗi do ai hết.
Tôi cố hết sức che giấu tâm trạng buồn bã ủ dột và cảm ơn Keira vì đã cho mượn xe. Cô ấy đi cùng tôi vào làng rồi đi gặp vị tộc trưởng. Hai mươi phút sau, chúng tôi lại cùng tộc trưởng lên đường. Đã lâu rồi ông ấy không có dịp đi thăm hồ Turkana; ở vào tuổi của ông, ông không thể đi thuyền được nữa và ông rất vui nếu có thể tranh thủ một chuyến xe. Ông hứa sẽ dẫn tôi đến tận bờ hồ đối diện với núi lửa. Một khi đã tới đó, ông sẽ dễ dàng tìm cho chúng tôi một chiếc thuyền độc mộc. Chỉ chờ tộc trưởng chuẩn bị vài thứ đồ dùng cá nhân rồi đưa Keira về đến khu trại, chúng tôi lập tức lên đường.
Keira xuống khỏi chiếc xe hai cầu rồi đi một vòng quanh xe để tới chống khuỷu tay vào cửa kính ghế lái nơi tôi đang ngồi.
– Anh đừng nấn ná quá lâu đấy nhé, để chúng ta còn một khoảng thời gian ngắn ngủi ngồi cùng nhau trước khi anh đi. Em hy vọng anh sẽ tìm thấy thứ anh đang tìm kiếm.
Thứ tôi tìm kiếm ở đây vừa đúng lúc đang ở ngay trước mắt tôi, nhưng tôi vẫn cần đôi chút thời gian nữa trước khi thú thực điều này.
Đã đến lúc phải lên đường, tôi chuẩn bị ngược lên con đường nhỏ nối đường mòn với khu trại. Hộp tốc độ kêu răng rắc, Keira khuyên tôi nên nhấn sâu bàn đạp ly hợp ở đầu và cuối chặng. Khi xe bắt đầu lùi lại, Keira lại chạy lên chỗ tôi.
– Anh có thể hoãn vài phút rồi mới lên đường không?
– Dĩ nhiên là được, nhưng tại sao?
– Để em báo cho Éric biết hướng khai quật cho đến ngày mai và để em chuẩn bị một cái túi. Anh đúng là luôn thuyết phục được em trong mọi chuyện.
Vị tộc trưởng đã thiu thiu ngủ ở băng ghế sau, ông thậm chí không biết là Keira đã nhập bọn với chúng tôi.
– Dù sao chúng ta cũng đưa ông ấy đi cùng chứ? Tôi hỏi.
– Bỏ ông ấy lại bên đường là việc làm khá khiếm nhã đấy.
– Vả lại, em còn nhờ ông ấy đi kèm nữa chứ, tôi nói thêm.
Keira thụi cho tôi một cú vào vai và ra hiệu cho tôi tiến về phía trước.
Cô ấy không hề quá lời, con đường mòn có vô số ổ gà nối tiếp nhau, tôi ghì chặt lấy vô lăng, cố gắng làm chủ hướng đi và cố gắng không sa vào những vết xe cũ. Một tiếng đồng hồ đã trôi qua và chúng tôi mới chỉ đi được chưa đầy mười cây số; với tốc độ này, chúng tôi sẽ không thể đến nơi trước khi màn đêm buông xuống.
Một chấn động mạnh hơn những chấn động khác đã đánh thức người đồng hành cùng chúng tôi. Vị tộc trưởng vươn vai và chỉ cho chúng tôi thấy một lối đi hẹp thấp thoáng sau khúc ngoặt, nhìn điệu bộ của ông tôi hiểu là ông muốn đi đường tắt. Con đường mòn đã hoàn toàn biến mất, chúng tôi đang đi ngược lên sườn đồi. Con đường mòn đã hoàn toàn biến mất, chúng tôi đang ngược lên sườn đồi. Bỗng nhiên đằng trước, chúng tôi hiện ra một thảo nguyên rộng mênh mông với những tia phản chiếu vàng rực của mặt trời. Dưới bánh xe, mặt đất đã mềm hơn và tôi rốt cuộc đã có thể tăng tốc đôi chút. Bốn tiếng sau, vị tộc trưởng bảo tôi dừng lại. Ông xuống khỏi xe rồi đi ra xa.
Keira và tôi đi theo ông. Chúng tôi đã bước theo từng dấu chân của người dẫn đường cho đến tận mép một vách đá nhỏ. Ông già chỉ cho chúng tôi thấy vùng đồng bằng châu thổ phía dưới, hồ Turnaka vĩ đại trải rộng hơn hai trăm cây số; trong số ba hòn đảo nhỏ trước kia vốn là núi lửa, chỉ có duy nhất hòn đảo nằm ở phía Bắc là có thể trông thấy bằng mắt thường, chúng tôi sẽ còn phải chạy xe một lúc lâu nữa mới đến được đích.
Bên bờ sông phía Kenya, bầy chim hồng hạc bay vút lên tạo thành những đường cong dài duyên dáng trên bầu trời. Những phá nước mặn bằng thạch cao đem lại cho nước hồ một sắc hổ phách, khi nhìn từ xa sẽ ngả sang màu xanh lục. Bây giờ tôi đã hiểu rõ hơn tại sao người ta lại đặt cho hồ này biệt danh là Ngọc thạch.
Sau khi ngồi vào chiếc xe hai cầu, chúng tôi đi theo lối hẹp trải đá giăm để sang bờ hồ phía Bắc.
Trừ một đàn linh dương, nơi đây hoàn toàn hoang vắng. Chúng tôi đã vượt qua hàng cây số đường không bắt gặp một bóng người. Đôi chỗ, mặt đất trắng phớ bởi những ruộng muối phản chiếu ánh sáng, đến mức khiến chúng tôi lóa mắt. Những chỗ khác, một chút cây cối gọi là lấn về sa mạc; giữa cánh đồng cỏ cao vút bỗng xuất hiện cái đầu của một con nghé lạc đàn.
Một tấm biển chỉ dẫn dựng giữa nơi đồng không mông quạnh cho chúng tôi biết mình đã vào đến Kenya. Chúng tôi đi xuyên qua một ngôi làng của dân du mục, vài nóc nhà bằng đất khô chứng tỏ cuộc sống định cư của một vài người trong số họ. Để vòng tránh một cao nguyên đá, con đường mòn tách khỏi bờ sông, và thi thoảng hồ lại khuất khỏi tầm nhìn của chúng tôi, con đường mòn cằn cỗi này dường như không có điểm kết thúc.
– Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ đến Koobi For a, Keira lên tiếng.
Koobi Fora là một di chỉ khảo cổ được phát hiện bởi Richard Leakey, nhà khảo cổ mà Keira rất ngưỡng mộ về chuyên môn. Ông đã khai quật được hàng trăm mẫu hóa thạch, trong số đó có những bộ xương của vượn Phương Nam cũng như một số lượng lớn các công cụ bằng đá. Nhưng phát hiện quan trọng của ông chính là bộ hài cốt của một người khéo léo Homo habilis đã sinh sống cách đây khoảng hai triệu năm, tổ tiên trực tiếp của loài người. Trong khi chúng tôi lái xe vượt qua các bãi khai quật, Keira quay đầu lại, và tôi đoán rằng cô ấy đang mơ đến lúc các du khách một ngày nào đó đi qua trước một di chỉ sẽ bị ấn tượng bởi một trong những khám phá của chính mình.
Một tiếng sau, chúng tôi hầu như đã đến chặng cuối của hành trình.
Một vài người đánh cá đang đứng bên bờ hồ. Vị tộc trưởng bắt chuyện với họ và như đã hứa, ông thuê hộ chúng tôi một chiếc xuồng máy. Bản thân ông muốn ở lại trên bờ. Ông đã thực hiện cả chuyến đi dài để chiêm ngưỡng cái quang cảnh thần diệu này lần cuối cùng trong đời.
Trong khi chúng tôi đang rời khỏi bờ, tôi nhận thấy một luồng bụi dài bốc tung từ phía đằng xa, chắc chắn là một chiếc ô tô, nhưng ánh mắt của tôi đã quay sang phía đảo trung tâm, bởi vì ba trong số các miệng núi lửa trên đảo tạo thành hình đôi mắt và cái miệng.
Tổng số miệng núi lửa trên hòn đảo nhỏ này lên tới mười hai. Bên trong ba miệng núi lửa chính đều là một cái hồ nhỏ. Xuồng máy vừa cập vào một bờ cát đen, Keira liền bắt tôi leo lên một vách dốc đứng. Thứ đất đỏ bazan bở tơi dưới chân chúng tôi. Chúng tôi phải mất gần một tiếng đồng hồ mới leo lên tới đỉnh ngọn núi lửa. Ở độ cao ba trăm mét, tầm nhìn chúc xuống phía dưới gây ấn tượng mạnh. Tôi không khỏi hình dung rằng dưới mặt nước yên ả kia là một loài thủy quái với sức mạnh hủy diệt khó lường đang thiu thiu ngủ.
Để trấn an tôi, Keira chỉ cho tôi thấy dấu vết lần phun trào gần đây nhất của núi lửa ngược lên đến những thời xa xưa, nhưng cô cũng nói thêm với vẻ giễu cợt rằng vào năm 1974 miệng núi lửa này đã từng hoạt động dữ dội, không phải là một đợt phun trào theo đúng nghĩa mà là những nỗi day dứt đủ để những đám hơi lưu huỳnh bốc lên và từ các bờ còn lại của chiếc đồng hồ lớn cũng có thể nhìn thấy. Phải chăng những cú giật nảy đã làm nổi lên từ trung tâm Trái đất chiếc mặt dây chuyền cô vẫn đeo trên cổ? Và nếu đó là sự thật thì nó đã lắng đọng ở đó bao lâu rồi?
– Harry tìm ra nó chính tại đây, Keira bảo tôi. Chuyện này có giúp được gì cho anh không?
Tôi lấy từ trong balô ra thiết bị định vị GPS đã mang theo và xác định vị trí đang đứng. Chúng tôi đang ở 32o9′ Bắc và 36o04′ Đông tính từ điểm xích đạo.
– Anh đã thấy thứ anh đang tìm chưa?
– Vẫn chưa, tôi đáp, anh sẽ phải quay lại Luân Đôn để thực hiện một loạt phép tính.
– Để làm gì ạ?
– Để xác minh sự tương ứng giữa bầu trời mà chúng ta có thể quan sát từ đây và bầu trời mà chiếc mặt dây chuyền của em đã cho chúng ta thấy. Có lẽ bằng cách đó anh cũng sẽ thu thập được những thông tin quý giá.
– Và anh không thể tìm thấy những tọa độ này trên một tấm bản đồ sao?
– Có chứ, nhưng tìm trên bản đồ không giống như đến tận thực địa.
– Khác nhau ở điểm gì nào?
– Hai chuyện đó không giống nhau, chỉ thế thôi.
Và khi nói ra câu này, mặt tôi đỏ lựng lên hệt như một tên ngốc. “Vụng về như anh”, Walter sẽ bảo thế nếu hắn có mặt tại đây vào lúc này.
Mặt trời xế bóng, chúng tôi phải leo trở xuống bãi bồi cát đen rồi quay về xuồng. Tối nay, chúng tôi sẽ ngủ lại trong làng du mục đã gặp dọc đường.
Vừa tiến đến gần bờ hồ, Keira và tôi đã nhận ra có điều gì đó không ổn. Các cửa của chiếc xe hai cầu đều mở toang và vị tộc trưởng đã biến mất.
– Hẳn là ông ấy đang nằm nghỉ trong xe, Keira nói để tự trấn an, nhưng cả hai chúng tôi đều lo lắng.
Những người dân chài bỏ chúng tôi lại trên bờ và lập tức khởi hành để trở về nhà trước khi trời tối. Keira vội vã đi về phía xe còn tôi đi theo cô ấy để rồi nhận thấy điều tệ hại nhất đã xảy ra.
Vị tộc trưởng đang nằm sấp sóng soài trên mặt đất. Một vệt máu mảnh đã đen kịt lại đang chảy xuống từ đầu ông và biến mất trong lớp đá cuội. Keira cúi xuống, cô ấy vô cùng cẩn trọng lật tộc trưởng nằm ngửa ra, nhưng đôi mắt không còn thần sắc của ông đã cho biết chính xác số phận của ông. Keira quỳ xuống và lần đầu tiên tôi thấy cô ấy khóc.
– Hẳn là ông ấy thấy khó ở rồi bị ngã, lẽ ra chúng ta không nên bỏ ông ấy lại một mình, cô ấy nói trong tiếng nức nở.
Tôi vòng tay ôm cô ấy rồi chúng tôi ngồi lại đó để trông nom thi hài của ông lão, cái chết của ông khiến tôi xúc động lạ thường.
Màn đêm xanh lơ sâu thẳm chiếu sáng lên chúng tôi và lên giấc ngủ cuối cùng của vị tộc trưởng già. Tôi hy vọng rằng đêm nay, bầu trời sẽ có thêm một vì sao tỏa sáng.
– Sáng mai phải báo tin cho các nhà chức trách.
– Nhất định không thể làm như vậy, Keira nói với tôi, chúng ta đang ở trên lãnh thổ Kenya, nếu cảnh sát can thiệp vào chuyện này, họ sẽ giữ thi hài trong thời gian tiến hành điều tra. Nếu họ phẫu thuật pháp y, đó sẽ là hành động lăng nhục ghê gớm đối với cả bộ tộc; chúng ta phải đưa tộc trưởng về với họ hàng thân thích, ông ấy phải được mai táng trong vòng hai mươi tư giờ tới. Dân làng muốn tỏ lòng tôn kính với ông ấy theo đúng tập tục, đó là một nhân vật quan trọng đối với họ, ông ấy là người dẫn đường của họ, kho tàng kiến thức của họ và đạo lý của họ. Không nên vi phạm các nghi lễ của họ. Chỉ riêng việc ông ấy qua đời trên một vùng đất xa lạ đã đủ tạo nên thảm kịch rồi. Nhiều người xem đó là một dạng tai họa do thần linh giáng xuống.
Chúng tôi bọc tộc trưởng trong một tấm chăn và khi khênh ông lên băng ghế sau của chiếc xe hai cầu, tôi nhận thấy những vết lốp xe ngay cạnh xe của chúng tôi. Tôi lại nhớ đến luồng bụi đã nhìn thấy lúc trước khi chúng tôi lên đường ra đảo trung tâm. Có thể nào cái chết của vị tộc trưởng già không phải là do một cơn khó ở và một cú ngã hiểm hóc? Thực sự đã xảy ra chuyện gì trong lúc chúng tôi vắng mặt? Trong khi Keira đang ngồi tĩnh tâm, tôi tìm thấy trong hộp đựng đồ vặt trên xe một chiếc đèn pin và bắt đầu xem xét kỹ mặt đất. Quanh xe chúng tôi có những vết gót giày và có quá nhiều để có thể là vết giày của riêng hai chúng tôi. Hay là vết giày của những người đánh cá đã đi cùng chúng tôi? Tuy nhiên, tôi nhớ là họ không hề rời khỏi thuyền và tôi sẵn sàng thề rằng chúng tôi đã chủ động ra thuyền gặp họ. Tôi không muốn nói chuyện này với Keira; cô ấy buồn như thế đủ rồi, tôi không muốn làm cô ấy lo lắng với những ngờ vực không có cơ sở nào khác ngoài một vài dấu hiệu vu vơ và mấy vết giày trên nền đất bụi của bờ hồ.
Chúng tôi ngủ vài tiếng ngay trên nền đất.
Đến bình minh, Keira phụ trách cầm lái. Chúng tôi đang trên đường trở về thung lũng thì cô ấy nói nhỏ:
– Bố em cũng đã ra đi theo cách này. Em đi mua sắm, khi về đến nhà đã thấy bố nằm sóng soài trên thềm nhà rồi.
– Anh rất tiếc, tôi ấp úng vụng về.
– Anh biết không, điều kinh khủng nhất không phải là thấy ông nằm đó, nằm dài trên các bậc thềm, đầu ở bậc thấp nhất, chân ngay trước cửa; không hề, điều kinh khủng nhất chỉ đến sau đó. Khi họ tới mang thi thể của ông đi, em đã quay vào phòng ông và nhìn thấy những tấm trải giường nhàu nhĩ. Em đoán mò những cử chỉ của ông khi thức dậy hồi sáng, những bước chân cuối cùng ông rời khỏi giường. Em hình dung ông đang bước về phía tấm rèm, mở hé nó ra để xem thời tiết bên ngoài thế nào. Đối với ông, việc đó đã trở thành một nghi thức và chuyện thời tiết quan trọng hơn mọi tin tức ông sẽ đọc trong nhật báo. Em đã tìm thấy tách cà phê của ông trong bồn rửa trong bếp, tảng bơ vẫn để trên bàn cạnh một miếng bánh mới ăn hết nửa.
Chính là khi nhìn thấy những vật dụng tầm thường ngày, như một chiếc dao phết bơ, ta nhận ra ai đó đã ra đi và sẽ không trở lại nữa; một chiếc dao phết bơ ngớ ngẩn vĩnh viễn khắc những nhát cô đơn vào cuộc sống của bạn.
Nghe Keira nói, tôi biết tại sao tôi đã mang theo chiếc vòng cổ của cô về Hy Lạp, tại sao nó không bao giờ rời khỏi túi áo tôi từ ngày cô ấy để nó lại trên bàn đầu giường ở nhà tôi trước khi bỏ đi.
Trời sẩm tối khi chúng tôi về đến làng. Khi Keira ra khỏi xe, dân bộ lạc Mursis hiểu rằng đã xảy ra chuyện gì đó nghiêm trọng. Những người đang đứng trên quảng trường trung tâm ngay lập tức đứng sững lại. Keira nhìn họ rồi bật khóc, nhưng không ai trong số họ tiến lại gần để an ủi cô ấy. Tôi mở cửa sau xe và ôm xác vị tộc trưởng già trong tay. Tôi đặt cái xác xuống đất rồi cúi đầu tỏ ý mặc niệm. Một tiếng rên rỉ kéo dài lan khắp cử tọa; đám phụ nữ giơ tay lên trời và bắt đầu kêu khóc. Đám đàn ông xúm lại quanh xác của vị tộc trưởng. Con trai ông nhấc tấm chăn lên và chậm rãi vuốt ve vầng trán của người cha. Quai hàm bạnh ra,anh ta đứng thẳng dậy rồi nhìn chúng tôi không chớp mắt. Qua ánh mắt của anh ta, tôi hiểu rằng chúng tôi không còn được chào đón nữa. Đối với họ, chuyện gì đã xảy ra không quan trọng, khi ra đi cùng chúng tôi vị tộc trưởng già của họ vẫn còn sống, vậy mà khi chúng tôi mang ông về cho họ, ông đã chết cứng. Tôi cảm thấy thái độ thù địch dành cho chúng tôi mỗi lúc một lớn dần. Tôi cầm tay Keira chậm rãi dẫn cô ấy ra xe.
– Đừng quay đầu lại, tôi bảo cô ấy.
Trong khi chúng tôi ngồi vào chiếc xe hai cầu, dân làng tụ lại quanh chúng tôi, bao vây chiếc xe. Một ngọn giáo nảy thia lia trên nắp máy, ngọn giáo thứ hai cào nát kính chiếu hậu, và Keira chỉ kịp thét bảo tôi cúi thấp người xuống, khi ngọn giáo thứ ba chẻ nứt kính chắn gió. Tôi cài số lùi, chiếc xe nảy vọt lên, tôi ngồi thẳng dậy, quay đầu xe và phóng ra khỏi làng.
Bộ lạc du mục trong cơn nộ khí đã không truy đuổi chúng tôi. Mười phút sau, chúng tôi về đến khu trại. Khi nhìn thấy tình trạng của chiếc xe và sắc mặt nhợt nhạt của Keira, Éric hết sức lo lắng và tôi kể lại cho anh ta nghe những rủi ro đã gặp phải. Toàn bộ nhóm khảo cổ họp lại quanh đống lửa để quyết định xem nên xử sự thế nào.
Ai nấy đều nhất trí đoán trước rằng tương lai của nhóm đã được định đoạt. Tôi đề nghị ngay ngày mai sẽ quay trở vào làng, tôi sẽ nói chuyện với “giữa đàn ông” với con trai tộc trưởng và sẽ giải thích cho anh ta rằng chúng tôi không liên quan gì đến tai nạn đáng tiếc dẫn đến cái chết của bố anh ta.
Éric nổi giận khi nghe xong lời đề nghị của tôi, những lời lẽ đó cho thấy tôi hoàn toàn mù tịt về độ nghiêm trọng của tình hình. Chúng ta đâu phải đang ở Luân Đôn, anh ta gào lên, cơn giận của dân làng sẽ không nguôi dịu bên một tách trà. Con trai của tộc trưởng muốn tìm ra kẻ có tội và chẳng bao lâu nữa khu trại sẽ trở thành mục tiêu của cuộc tấn công trả đũa.
– Cả hai người nên trốn đi, Éric nói. Các bạn nên rời khỏi đây thì hơn.
Keira đứng dậy và xin lỗi các bạn đồng nghiệp, cô ấy cảm thấy không được khỏe. Khi ngang qua chỗ tôi, cô ấy xin tôi hãy tìm nơi khác ngủ qua đêm, cô ấy muốn được ở một mình. Tôi rời khỏi đám đông đi theo cô ấy.
– Anh có thể hãnh diện về mình rồi đấy, anh vừa khiến cho mọi chuyện hỏng bét, cô ấy nói với tôi mà không hề bước chậm lại.
– Nhưng khỉ thật, Keira, anh đâu có giết ông già đó!
– Chúng ta thậm chí còn không thể giải thích được với họ hàng của tộc trưởng lý do ông ấy qua đời và em phải từ bỏ những hố khai quật tại đây để tránh một cuộc tàn sát trên diện rộng. Anh đã hủy hoại công việc của em, hy vọng của em, em vừa đánh mất toàn bộ quyền chỉ huy và Éric hẳn phải vui mừng lắm khi lên thay em. Nếu em không đi theo anh tới hòn đảo đáng nguyền rủa của anh thì đã chẳng xảy ra chuyện gì hết. Anh nói đúng, chuyện này không phải lỗi của anh mà chính là lỗi do em!
– Nhưng tất cả các người làm sao vậ? Tại sao lại cư xử như những kẻ có tội? Người đàn ông này chết vì già cả, ông ấy muốn ngắm cảnh hồ lần cuối và chúng ta đã tặng cho ông ấy cơ hội thực hiện một trong những ý nguyện cuối cùng. Anh sẽ quay trở lại làng, ngay tối nay, và anh sẽ tới nói chuyện với họ.
– Bằng ngôn ngữ gì đây? Bây giờ anh còn biết nói cả thổ ngữ Mursis sao?
Bị căn vặn về điều mình không biết, tôi nín thinh.
– Sáng mai, em sẽ đưa anh ra sân bay, anh sẽ nán lại Addis-Abeba một tuần, hy vọng mọi chuyện ở đây sẽ lắng xuống; sáng sớm mai chúng ta lên đường.
Keira chui vào lều, không cả lời chúc ngủ ngon.
Tôi không còn bụng dạ nào quay trở lại với nhóm khảo cổ. Họ tiếp tục thảo luận về số phận của cả nhóm quanh đám lửa trại. Những mẩu đối thoại vẳng đến chỗ tôi ngồi chứng minh cho tôi thấy Keira đã đoán đúng về chuyện sắp xảy ra, Éric đang khẳng định uy quyền của bản thân với những người khác. Khi quay trở về cô ấy sẽ tìm được cho mình vị trí nào đây? Tôi trèo lên đỉnh đồi ngồi ngắm dòng sông. Quang cảnh tĩnh mịch vô cùng. Tôi cảm thấy đơn độc và có lỗi trong chuyện vừa xảy đến.
Một giờ trôi qua, tôi nghe thấy tiếng bước chân phía sau lưng. Keira đã tới ngồi bên cạnh tôi.
– Em không thể nào bình tĩnh nổi. Nội trong tối nay, em đã mất tất cả, em không còn công ăn việc làm, mất hết tín nhiệm, chẳng còn tương lai, tất cả đã tiêu tan. Lần đầu là cơn bão Shamal đuổi em khỏi đây, còn anh, Adrian, có lẽ anh chẳng khác nào cơn bão thứ hai.
Tôi nhận ra rằng thông thường, khi một phụ nữ gọi tên ban ngay giữa cuộc trò chuyện, đó là vì cô ấy có điều gì muốn trách cứ bạn.
– Em có tin vào số mệnh ko Keira?
– Ôi, em van anh, không phải lúc này, anh sẽ lôi từ trong túi ra một cỗ bài và rút cho em vài lá hay sao?
– Anh thì chưa bao giờ tin vào số mệnh, thậm chí chỉ riêng ý nghĩ rằng số mệnh có tồn tại đã khiến anh chán ghét, bởi như thế sẽ phủ nhận tự do ý chí của chúng ta, khả năng để chúng ta được lựa chọn và quyết định tương lai của chính mình.
– Em thực sự không còn tâm trạng nào để nghe mớ triết lý ba xu của anh.
– Anh không tin vào số phận nhưng anh luôn tự vấn về sự tình cờ. Giá như em biết được số phát kiến sẽ không thể xảy ra nếu không có sự tình cờ can dự vào công đoạn hoàn tất.
– Nếu anh cần thì em có sẵn thuốc aspirin đây, Adrian.
– Em có mặt tại đây bởi em đang mơ ước tìm ra dấu vết của con người đầu tiên, đúng thế không? Hôm qua anh đặt câu hỏi này cho em và em đã lẩn tránh câu trả lời. Trong những giấc mơ huyễn hoặc nhất của em, con người độ không này được bao nhiêu tuổi?
Tôi tin rằng Keira trả lời tôi vì bực mình nhiều hơn là vì tin tưởng.
– Và nếu anh giúp em trở về quá khứ một quãng ba trăm tám mươi lăm triệu năm thì em sẽ nói sao?
– Nói là hôm nay anh đã dãi nắng quá nhiều.
– Vậy thì hãy để anh nói chuyện này theo cách khác nhé. Không thể xác định được niên đại của chiếc mặt dây chuyền này vì chúng ta không biết thành phần cấu tạo nên nó,em� vẫn tin rằng nó chỉ là một biến cố của tự nhiên sao?
Tôi đã bắn trúng hồng tâm, Keira nhìn tôi đăm đăm rồi tôi thấy trên gương mặt cô ấy một vẻ khiến tôi sửng sốt.
– Buổi tối hôm có giông đó, khi hàng triệu điểm sáng xuất hiện nhờ có tia chớp, cái mà em nhìn thấy trên tường nhà thực ra chính là tinh vân Bồ Nông, một cái nôi hình thành các ngôi sao nằm giữa hai thiên hà.
– Thật sao? Keira kinh ngạc hỏi.
– Phải, thật thế, và sự việc chưa dừng lại tại đó. Mảnh trời mà chiếc mặt dây chuyền của em phát ra không đồng nhất với bầu trời em đang nhìn thấy trên đầu chúng ta. Mà có từ bốn trăm triệu năm trước. Nó tương ứng với cái gì trong thang địa chất của em? Tôi hỏi cô ấy.
– Tương ứng với sự xuất hiện của sự sống trên trái đất này, cô ấy đáp, nét mặt lộ rõ vẻ bàng hoàng.
– Anh có những lý do xác đáng để tin rằng còn tồn tại những vật khác giống với vật em đang đeo trên cổ. Nếu tất cả chúng hầu như đều cùng kích cỡ, và nếu các tính toán của anh chính xác, thì cần đến bốn mảnh khác nữa để có được hình ảnh phát chiếu của một bầu trời hoàn chỉnh. Trò chơi ghép hình kỳ lạ, phải không?
– Không thể tồn tại một tấm bản đồ về bầu trời được tạo thành cách đây bốn trăm triệu năm được, Adrian ạ.
– Chính em đã nói với anh rằng, mới hai mươi năm trước đây, tất cả mọi người còn tin rằng người già nhất trong số tổ tiên của chúng ta chỉ có ba triệu năm tuổi kia mà. Hãy hình dung trong giây lát rằng chúng ta tập hợp được tất cả các mảnh còn thiếu lại, và anh còn chưa biết phải làm cách nào, nhưng chúng ta chứng minh được rằng cách đây bốn trăm triệu năm từng có một tấm bản đồ bầu trời được tạo nên với độ chính xác ngang tầm những phương tiện quan sát mà chúng ta thâmh chí còn không thể nêu ra giả định, vậy thì em sẽ rút ra những kết luận gì từ đó?
Keira ngồi lặng thinh đối diện với tầm ảnh hưởng của một phát minh tương tự.
Tôi chưa bao giờ nghĩ cái chết của một ông già sẽ buộc cô ấy rời khỏi hiện trường khai quật, nhưng ngay từ khi khởi hành tại Luân Đôn, tôi đã hy vọng sẽ thuyết phục được cô ấy đi theo mình.
Cả hai chúng tôi cùng ngồi lặng thinh, chăm chú ngắm nhìn bầu trời cho đến tận đêm muộn.
Chúng tôi thỏa thuận sẽ chợp mắt vài tiếng rồi tạm biệt khu trại ngay lúc bình minh. Cả nhóm tập hợp quanh chiếc xe hai cầu để từ biệt chúng tôi. Theo kế hoạch đã định, Keira sẽ tiễn tôi ra sân bay Addis-Abeba, còn cô ấy ở lại thành phố đợi cho dân làng nguôi ngoai. Éric sẽ chỉ đạo cuộc tìm kiếm trong thời gian cô ấy vắng mặt. Keira sẽ gọi cho anh ta thường xuyên để biết khi nào là thời điểm thích hợp nên quay trở lại.
Trong suốt hai ngày diễn ra chuyến hành trình, chúng tôi không ngừng tự vấn về chiếc mặt dây chuyền. Ý nghĩa của việc nó xuất hiện trong miệng núi lửa cũ giữa lòng hồ Turkana là gì? Ai đó đã cố ý để nó lại tại nơi đó, để làm gì, và nhất là, từ khi nào?
Ai trong số chúng tôi cũng biết rằng ít nhất còn tồn tại một mẫu vật nữa có những đặc tính tương tự, ngay cả khi chưa ai nhắc đến chuyện đó. Cần tập hợp đủ năm miếng ghép để tạo thành một bầu trời trọn vẹn. Nhưng từ giờ trở đi, câu hỏi ám ảnh chúng tôi là tìm hiểu xem chúng đang ở đâu và làm thế nào chúng tôi có thể tìm ra chúng.
Chỉ mới cách đây vài tháng, khi còn sống trên cao nguyên Atacama, tôi chưa bao giờ hình dung ra cảnh mình phải kết hợp những kiến thức về vật lý thiên văn với kiến thức của một nhà cổ sinh vật học để tìm kiếm một phát minh không chắc đã xảy ra.
Chúng tôi bắt đầu ngày đường thứ hai thì Keira nhớ ra một bài báo đọc được trong tạp chí cách đây vài năm. Chính vì kỷ niệm mơ hồ này mà chúng tôi phải tiến hành chuyến đi đang chờ phía trước. Sau khi chúng tôi đã hành động theo bản năng khoa học, nghe theo một linh cảm? Tôi không thể nói chắc. Nhưng tất cả bắt đầu khi Keira hỏi tôi đã bao giờ nghe nói đến một vật xuất hiện từ thời đồ đồng, giống với một dụng cụ đo thiên thể thời xưa và đã được phát hiện tại Đức. Tất cả những nhà thiên văn xứng đáng với danh xưng này đều biết về sự tồn tại của đĩa Nebra. Nó đã được phát hiện tại Haute-Saxe vào cuối thế kỷ XX trong một cuộc khai quật lén lút. Mẫu vật nặng chừng hai cân, hình dạng của nó trên đó nổi bật những mảng vàng khảm, một mặt trăng hình lưỡi liềm và các chấm mà người ta đoán là tượng trưng cho những thiên thể. Cấu tạo của nó khó tin đến mức các nhà khảo cổ thoạt tiên đã nghĩ đến một tác phẩm giả mạo. Nhưng một thí nghiệm xác định niên đại chặt chẽ đã khẳng định mẫu vật đúng là đã có ba nghìn sáu trăm năm tuổi. Vài thanh gươm và đồ trang sức tìm thấy tại cùng một địa điểm đã công nhận tính xác thực của nó. Không kể niên đại của nó, đĩa Nebra có hai đặc tính hết sức độc đáo. Những điểm xuất hiện trên mặt đĩa giống với chòm Thất tinh, một loạt ngôi sao xuất hiện trên bầu trời châu Âu vào thời đó. Đặc tính độc đáo thứ hai là sự xuất hiện của cung 82 độ trên mặt phải. Tám mươi hai độ hoàn toàn tương ứng với khoảng cách giữa điểm mặt trời mọc tại Nebra vào hạ chí với điểm mặt trời mọc vào đông chí. Về chức năng của chiếc đĩa, nhiều giả thiết được dưa ra: nó có thể được dùng trong nông nghiệp, hạ chí báo thời điểm bắt đầu gieo trồng, sự xuất hiện của chòm Thất tinh trên bầu trời báo mùa thu hoạch. Khả năng khác, đĩa Nebra là dụng cụ giảng dạy và truyền bá kiến thức về thiên văn; trong cả hai trường hợp, nó đều chứng tỏ kiến thức của con người về lĩnh vực này vào thời đó là hết sức tiến bộ, hơn những gì chúng ta có thể hình dung.
Đĩa Nebra là hình ảnh thể hiện bầu trời cổ nhất đã được biết đến vào thời điểm này; ít ra là cho đến khi chiếc mặt dây chuyền mà Keira đang vuốt nhẹ xuất hiện trên hòn đảo trung tâm trên hồ Turkana…
– Giữa đĩa Nebra và chiếc mặt dây chuyền của em liệu có mối liên hệ nào được nhỉ?
– Anh không rõ, nhưng anh nghĩ chuyện này cũng đáng để ghé qua Đức, tôi vui vẻ đáp.
Chúng tôi càng tiến đến gần thủ đô, tôi càng cảm thấy Keira trở nên khép kín. Khả năng có được một phát hiện quan trọng hay chuyện đã thuyết phục được Keira cùng tiến hành những nghiên cứu này đã tránh cho tôi cảm thấy nỗi mệt nhọc của chuyến đi? Nhưng niềm phấn khích đang cổ vũ tôi dường như không được sẻ chia; mỗi lần gặp một biển chỉ dẫn khoảng cách còn lại với Addis-Abeba, Keira lại trở nên tư lự và chìm đắm trong suy tư.
Tôi đã cố kìm để không hỏi chuyện đến cả trăm lần, quay lại với nỗi cô đơn của bản thân cả trăm lần, đành bằng lòng với việc quan sát đường xá.
Chúng tôi đỗ chiếc xe hai cầu tại bãi xe của sân bay, Keira theo tôi vào ga cuối. Một chuyến bay tới Francfort ngày mai sẽ cất cánh. Tôi tiến vào quầy và mua hai vé, nhưng Keira kéo tôi ra một góc.
– Esẽ không đi cùng anh đâu, Adrian ạ.
Cuộc sống của cô ấy là ở đây, cô ấy bảo vậy cô ấy chưa sẵn sàng để từ bỏ như thế này. Vài tuần nữa, nhiều nhất là một tháng nữa, thung lũng sẽ yên ổn trở lại, cô ấy sẽ quay trở lại với công việc đang dang dở.
Tôi đã viện cớ rằng khám phá mà chúng tôi sắp cùng nhau thực hiện sẽ hé lộ một bí ẩn tuyệt vời nhưng vô ích, cô ấy nhắc lại cuộc tìm kiếm này là của tôi chứ không phải của cô ấy. Nghe giọng Keira, tôi hiểu rằng ý cô ấy dã quyết, tôi có nài nỉ cũng chẳng ích gì.
Chúng tôi chỉ còn một buổi tối lưu lại Addi-Abeba trước khi tôi lên đường, tôi xin cô ấy một ân huệ cuối cùng, chúng tôi tìm ra một nhà hàng xứng với danh xưng này; nơi khi đã bước chân vào tôi không phải rời khỏi đó với cái dạ dày trống rỗng.
Tôi vô cùng khổ tâm khi phải vờ như không biết rằng ngày mai chúng tôi sẽ chia tay nhau, nhưng sao phải lãng phí quãng thời gian ngắn ngủi còn lại được ở bên nhau?
Tôi trụ vững suốt bữa tối, và trên quãng đường dạo bộ về khách sạn, tôi không một lần nào cố thử thuyết phục cô ấy đổi ý.
Trong khi tôi đưa cô ấy về phòng khách sạn riêng, Keira ôm tôi rồi gục đầu vào vai tôi. Cô ấy thì thầm vào vai tôi rằng cô ấy sẽ giữ lời mà tôi đã bắt cô ấy hứa khi còn ở Luân Đôn. Cô ấy không hôn tôi.
Tôi ghét ý tưởng nói lời tạm biệt tại sân bay; buổi tối hôm trước đã đủ buồn rồi và không nên tạo thêm buồn phiền làm gì. Tôi rời khách sạn từ sáng sớm, sau khi đã nhét một mẩu giấy nhắn qua khe cửa phòng Keira. Tôi còn nhớ đã viết lên đó rằng tôi rất tiếc vì đã gây cho cô ấy nhiều rắc rối đến thế. Tận đáy lòng tôi mong cô ấy sẽ nhanh chóng trở lại với cuộc sống mà cô ấy đã dũng cảm tạo dựng nên. Tôi cũng thú nhận tính ích kỷ thể hiện trong cách mình tiến hành mọi việc, và sau khi đã chứng kiến đủ tội lỗi mình gây ra, tôi tâm sự với cô ấy rằng nếu như không hề biết những gì đang chờ đợi mình phía trước, thì tôi đã có một khám phá vô cùng quan trọng: sự hiện diện của cô ấy khiến tôi hạnh phúc. Tôi ngờ rằng lời thú nhận này thật vụng về, và ngòi bút trong tay tôi ngập ngừng nhiều lần trên mặt giấy trước khi viết ra những con chữ, nhưng có hề gì vì đó là những lời chân thành tự đáy lòng kia mà.
Sảnh đi chật cứng người, đủ để tin rằng cả châu Phi đã quyết định đi du lịch vào sáng ngày hôm đó. Dòng người xếp hàng làm thủ tục lên chuyến bay của tôi dài như không dứt. Sau hồi lâu chờ đợi, tôi cũng ngồi được vào hàng ghế cuối cùng trên máy bay. Trong khi cánh cửa dẫn vào khoang hành khách khép lại, tôi tự hỏi liệu mình có nên quay trở về Luân Đôn, đặt dấu chấm hết cho câu chuyện có lẽ nói cho cùng chỉ là một ảo tưởng vĩ đại. Cô tiếp viên hàng không thông báo chuyến bay có chút chậm trễ mà không hề giải thích nguyên nhân.
Và rồi bỗng nhiên trên lối đi dọc máy bay, giữa những hành khách đang xếp hành lý cá nhân vào khoang riêng, tôi nhìn thấy Keira đang kéo một chiếc túi hẳn là nặng hơn cả trọng lượng của chính cô ấy. Cô ấy thương lượng với người ngồi cạnh tôi để đổi ghế cho anh ta, anh ta vui vẻ nhận lợi và cô ấy vừa ngồi xuống cạnh tôi vừa thở dài.
– Mười lăm ngày, anh nghe rõ chứ, cô ấy vừa nói vừa cài thắt lưng an toàn, hai tuần nữa, bất kể chúng ta đang ở đâu, anh cũng phải cho em ngồi lên một chuyến bay về Addis-Abeba. Hứa chứ?
Tôi đã hứa.
Mười lăm ngày để khám phá sự thật về chiếc mặt dây chuyền của cô ấy, hai tuần để tập hợp đủ cái tổng thể đã bị chia tách bởi bốn trăm triệu năm, đối với tôi giống như một vụ đánh cược không thể thắng, nhưng có hề gì; máy bay bắt đầu lăn bánh trên đường băng, Keira đang ngồi cạnh tôi; áp mặt vào khung cửa kính, cô ấy nhắm mắt lại, và mười lăm ngày sắp tới là nhiều hơn cả những gì mới ngày hôm qua tôi còn hy vọng. Suốt tám tiếng ngồi trên máy bay, cô ấy không hề nhắc gì tới bức thư mà tôi đã nhét qua khe cửa phòng khách sạn, sau đó cũng không hề nhắc tới nó một lời.