Ngày Đầu Tiên

PARIS



Keira ngủ thiếp đi trên giường của chị gái cô. Một chai rượu thành phần chủ yếu là nước ép nho, một khay đồ ăn, những tin nhắn tế nhị trong suốt buổi tối, một bộ phim đen trắng cũ kỹ đang chiếu trên kênh truyền hình cáp, đoàn người nhảy claket do Gene Kelly dẫn đầu là ký ức cuối cùng về buổi tối. Khi ánh sáng ban ngày dánh thức cô dậy, thứ rượu vang uống ngày hôm trước, có lẽ cũng không đức hạnh 1 đến thế, liền nã đến tận hai thái dương cô.
– Chúng ta đã nốc nhiều lắm nhỉ? Keira vừa hỏi vừa đi vào bếp.
– Phải! Jeanne vừa đáp vừa nhăn mặt. Chị pha cà phê cho em rồi đấy.
Jeanne đang ngồi bên bàn nhìn chăm chăm vào tấm gương treo trên tường, gương mặt của cô và em gái cô đang phản chiếu trong đó.
– Chị có chuyện gì mà lại nhìn em như thế? Keira hỏi.
– Không có gì.
– Chị đăm đăm nhìn em trong gương trong khi em đang ngồi đối diện chị đây, thế mà bảo là không có gì ư?
– Như thế hơi giống như khi em đang ở đầu kia thế giới vậy. Chị đã đánh mất thói quen có em bên cạnh rồi. Ẳnh của em rải rác khắp nơi trong căn hộ này, thậm chí chị để cả một bức trong ngăn kéo bàn làm việc tại viện bảo tàng nữa. Ngày nào chị cũng nói chúc buổi sáng tốt lành và chúc ngủ ngon với em; trong những thời khắc hơi khó khăn hơn, chị còn trò chuyện với em hồi lâu nữa kia, cho đến khi chị nhận ra đó không phải là những cuộc trò chuyện mà chỉ là những lời độc thoại của bản thân chị. Tại sao em không bao giờ gọi điện? Nếu em chịu khó gọi về, ít ra chị cũng có thể cảm nhận được em bớt xa xôi hơn. Khỉ thật, chị là chị gái của em cơ mà, Keira!
– Được rồi, Jeanne, em sẽ ngăn chị lại ngay lập tức. Một trong những điều thuận lợi hiếm hoi của cuộc sống độc thân là không phải chịu đựng những màn cãi cọ giữa vợ và chồng, vậy thì làm ơn đi, giữa hai chị em mình cũng đừng có những cuộc cãi vã tương tự! Thực sự là trong thung lũng Omo làm gì có trạm điện thoại công cộng, không mạng lưới sóng di động, chỉ có một hệ thống liên lạc qua vệ tinh hoạt động tậm tịt. Mỗi lần em đến được Jimma, em đều gọi cho chị còn gì.
– Cứ hai tháng mới gọi một lần ấy hả? Và những khoảnh khắc mới tâm đầu ý hợp làm sao chứ! “Em khỏe không?… Tuyến đường không tệ lắm… Khi nào em về?… Em không biết gì đâu, muộn nhất có thể nhé, bọn em vẫn cứ đào bới luôn tay ấy mà, còn chị viện bảo tàng, gã người yêu của chị thế nào?…. Người yêu của chị tên là Jérôme, từ ba năm nay rồi, em chắc vẫn còn nhớ chứ!… “Chị đã chia tay anh ta, nhưng chị không có dịp nào mà cũng chẳng muốn kể chuyện ấy với em, vả lại để làm gì cơ chứ, hai đến ba câu nữa là em gác máy luôn rồi.
– Em gái chị không được dạy dỗ đến nơi đến chốn, Jeanne ạ, cô ả là một kẻ hoàn toàn ích kỷ đến tệ hại, có đúng thế không? Nhưng chị cũng có một phần trách nhiệm trong chuyện này, bởi vì chị là chị cả và chị vẫn luôn là hình mẫu để em noi theo.
– Bỏ qua đi, Keira.
– Dĩ nhiên là em đang bỏ qua, em sẽ không quay lại với trò chơi của chị đâu!
– Trò chơi nào?
– Xem ai trong hai chúng ta có thể đổ tội được cho người kia ấy! Em đang ở trước mặt chị đây, không phải ảnh, cũng không phải trong gương, vậy thì hãy nhìn em và nói chuyện với em đi.
Jeanne đứng dậy, nhưng Keira đột nhiên nắm cổ tay chị giữ lại, buộc chị phải ngồi xuống.
– Em đang làm chị đau đấy, ngốc ạ.
– Em là nhà khảo cổ kiêm nhà nhân loại học, em không làm việc trong một bảo tàng, em không có thời gian để biết đến một anh chàng Pierre nào đó, một anh chàng Antoine nào đó, hay một anh chàng Jérôme nào đó từ nhiều năm nay; em không có con; em có may mắn ngạo đời là theo đuổi một nghề khó khăn mà em yêu thích, được sống với một niềm đam mê không có gì là tội lỗi. Nếu chị tự chuốc lấy rắc rối vào cuộc sống của mình, thì cũng đừng văng vào mặt em những điều chị tiếc nuối, nếu chị nhớ lấy, hãy tìm lấy một cách dịu dàng hơn để nói với em điều đó.
– Chị nhớ em, Keira ạ, Jeanne vừa ấp úng vừa rời khỏi bếp.
Keira lặng ngắm hình ảnh phản chiếu của mình trong gương.
– Mình đúng là đại ngốc, cô thì thầm.
Và từ phòng tắm ngay cạnh bếp, ngăn ra bởi một tấm vách mỏng, Jeanne vừa đánh răng vừa mỉm cười.
Đầu giờ chiều, Keira băng qua kè Branly để gặp lại chị gái mình tại viện bảo tàng; trước khi đến gặp chị trong văn phòng làm việc, cô quyết định tự tặng cho một chuyến thăm cuộcc triển lãm thường xuyên. Đúng lúc cô đang chiêm ngưỡng một chiếc mặt nạ, hy vọng sẽ đoán được xuất xứ của nó thì một giọng nói thì thầm rót vào tai cô:
– Đây là một chiếc mặt nạ của tộc người Malinké ở Tây Phi. Xuất xứ của nó là từ Mali. Chiếc này không cổ lắm, nhưng nó rất đẹp.
Keira giật bắn mình trước khi nhận ra ông Ivory, người đã tiếp chuyện cô ngày hôm trước.
– Tôi e là chị gái cô vẫn đang bận họp rồi. Tôi đã tìm gặp cô ấy cách đây vài phút, nhưng được người ta thông báo là cô ấy sẽ bận trong khoảng một tiếng nữa.
– “Người ta” thông báo cho ông biết ạ?
– Các viện bảo tàng là những thế giới thu nhỏ, với những trật tự tôn ti riêng của chúng giữa các bộ, các ngành, các lĩnh vực thẩm quyền. Con người là một sinh vật lạ kỳ, sinh vật này có nhu cầu sống thành quần xã và không thể ngăn mình phân chia quần xã đó thành từng đoạn. Có lẽ đó là cái còn sót lại từ bản năng tập quần của chúng ta. Tạo ra những không gian động đồng để trấn áp những nỗi sợ hãi. Nhưng hẳn là tôi đang làm cô phát chán với những lời ba hoa này rồi. Cô phải biết về toàn bộ chuyện này rõ hơn tôi mới phải chứ, đúng không?
– Ông đúng là ranh mãnh, Keira đối đáp.
– Có lẽ thế, Ivory đáp và phá lên cười vui vẻ. Hay là chúng ta đi thảo luận toàn bộ chuyện này trong một quán giải khát ngoài vườn kia. Khí hậu ôn hòa, vậy thì phải tận hưởng đi thôi.
– Thảo luận về chuyện gì cơ?
– Sao nào, về chuyện một ông lão ranh mãnh thì là cái thứ gì? Tôi sẽ tra hỏi cô về chủ đề này.
Ivory kéo Keira về phía quán cà phê ngự tại sân trong của viện bảo tàng. Lúc ấy là giữa buổi chiều, các bàn trong quán hầu như không có ai ngồi. Keira chọn cái bàn xa nhất từ bức tượng đầu người Moai khổ lớn.
– Cô có phát hiện được thứ gì quan trọng dọc theo hai bờ sông Omo không? Ivory tiếp tục hỏi.
– Tôi đã tìm được một thằng bé mười tuổi mất cả cha lẫn mẹ. Xét trên quan điểm khảo cổ học mà nói thì phát hiện này khá hạn chế.
– Nhưng xét trên quan điểm của đứa trẻ ấy, tôi hình dung rằng chuyện này còn quan trọng hơn nhiều so với một vài bộ hài cốt bị vùi dưới nền đất. Tôi cứ ngỡ một đợt thời tiết xấu đã tàn phá công trình của cô và đánh bật cô khỏi khu vực có các hố khai quật đó.
– Một cơn bão, đủ mạnh để đưa tôi về lại đây!
– Vô cùng bất thường đối với vùng đó. Chưa bao giờ Shamal chuyển hướng về phía Tây cả.
– Làm sao ông biết được tất cả những chuyện này? Tôi nghĩ chuyện đó đâu có xuất hiện trên trang nhất các báo?
– Không, tôi công nhận chuyện đó, chính chị gái cô đã kể tôi nghe về những chuyện không may của cô. Bản tính tôi vốn tò mò, đôi khi hơi quá, tôi chỉ cần gõ mổ cò lên bàn phím máy tính cá nhân là xong.
– Tôi có thể kể thêm điều gì để thỏa mãn trí tò mò của ông?
– Thực sự cô đang tìm kiếm gì trong thung lũng Omo vậy?
– Ông Ivory ạ, nếu nói cho ông biết sự tình, thì xét về mặt thống kê tôi sẽ có nhiều cơ hội bị ông giễu cợt hơn là làm cho ông lưu tâm đến công việc của tôi.
– Cô Keira này, nếu những nhà thống kê chi phối được cuộc sống của tôi thì tôi đã nghiên cứu toán học chứ không phải nhân loại học. Vậy nên cứ thử vận may của cô đi.
Keira chăm chú quan sát người mình đang trò chuyện cùng. Ông lão này có một ánh mắt rất lôi cuốn.
– Tôi tìm kiếm ông bà của Toumai 2 và của Ardipithecus Kadabba 3. Có những hôm, tôi thậm chí còn hình dung là đã tìm ra được cụ tổ của các cụ tổ.
– Không có gì khác à? Cô muốn tìm bộ xương cổ nhất mà chúng ta có thể cho kết thân với giống người ấy hả? Con người độ không!
– Không phải đó là thứ tất cả chúng ta hằng tìm kiếm sao, tại sao tôi phải cấm mình mơ giấc mơ mày chứ?
– Mà tại sao lại trong thung lũng Omo?
– Có lẽ là bản năng phụ nữ mách bảo!
– Ở một cô gái chuyên săn lùng hóa thạch hả? Nghiêm túc đi nào!
– Trúng phóc! Keira đáp. Vào cuối thế kỷ hai mươi, chúng ta đã tin chắc rằng Lucy 4, một phụ nữ chết cách đó hơn ba triệu năm là mẹ của loài người. Trong mười năm trở lại đây, không cần tôi nói ông cũng biết, những nhà khảo cổ nhân loại học đã phát hiện những bộ xương họ người có niên đại cách đây tám triệu năm. Cộng đồng khoa học tiếp tục tranh luận, nếu không muốn nói là người ta nên, hoặc không nên, gắn với loài người. Dù tổ tiên chúng ta có hai chân hay bốn chân thì đó cũng không phải là điều đáng kể đối với tôi. Tôi thậm chí còn không tin rằng đó là cuộc tranh luận thực sự về nguồn gốc loài người cơ. Tất cả chỉ nghĩ đến phần cơ học của bộ xương, về lối sống, về cách ăn uống.
Một cô phục vụ bàn tiến lại gần, Ivory đuổi khéo cô ta bằng một cử chỉ phẩy tay.
– Đây mới là kẻ vô cùng tự phụ này, và theo cô cái gì sẽ xác định nguồn gốc loài người?
– Tư duy, những tình cảm, lý tính! Điều khiến cho chúng ta khác với các loài khác không phải ở chỗ ăn chay hay ăn thịt, không phải ở độ hoạt bát có được trong cách chúng ta bước đi. Chúng ta đang tìm hiểu chúng ta từ đâu đến mà không muốn nhìn xem ngày nay chúng ta đang là cái gì: những động vật ăn mồi phức tạp tột độ và đa dạng đến khó tin, có khả năng yêu thương, giết chóc, xây dựng và tự hủy hoại, cưỡng lại bản năng sinh tồn đang chi phối tập tính của tất cả các loài động vật khác. Chúng ta được phú cho một trí tuệ cực điểm, một tri thức tiến triển không ngừng tuy nhiên đôi khi lại vô cùng dốt nát. Nhưng chúng ta sẽ phải gọi đồ uống đi thôi, đây đã là lần thứ hai cô nhân viên phục vụ bàn của chúng ta thử vận may của mình rồi.
Ivory gọi hai tách trà rồi nghiêng người sang Keira.
– Cô vẫn chưa nói tôi biết tại sao lại là thung lũng Omo, cũng chưa nói cái mà cô thực sự tìm kiếm ở đó.
– Dù chúng ta là dân gốc Âu, gốc Á hay gốc Phi, dù màu da của chúng ta là gì, tất cả chúng ta vẫn mang một gen đồng nhất; chúng ta có hàng tỉ cá thể, mỗi cá thể lại khác so với những cá thể khác, thế mà chúng ta lại xuất thân từ một sinh vật duy nhất. Làm thế nào sinh vật đó lại xuất hiện trên Trái đất, và tại sao? Tôi đang tìm chính người đó, con người đầu tiên! Và tôi sẵn sàng tin là người đó có tuổi thọ hơn mười hoặc hai mươi triệu năm.
– Ngay kỷ Cổ Cận ư? Cô mất trí rồi!
– Ông thấy đó, tôi có lý khi nhắc đến những nhà thống kê, và giờ chính tôi mới là người khiến ông phát chán với những câu chuyện tôi kể.
– Tôi nói là cô mất trí, chứ không phải vô lý!
– Ông tế nhị quá đấy. Thế còn ông, Ivory, ông đang nghiên cứu về vấn đề gì?
– Tôi đã đến cái tuổi mà người ta tỏ vẻ và tất cả mọi người xung quanh cô đều giả bộ không nhận ra chuyện đó. Tôi không nghiên cứu gì nữa, tôi đã bước vào cái tuổi khi người ta muốn xếp gọn lại những hồ sơ của mình hơn là mở chúng ra một lần nữa. Nhưng đừng có chường bộ mặt đưa đám ấy, nếu cô thực sự biết tuổi của tôi, cô sẽ thấy rằng tôi đúng ra là đã rất khôn khéo để thoát khỏi cảnh khó khăn. Thậm chí đừng cố hỏi tuổi tôi, đó là một bí mật tôi sẽ mang theo xuống mồ.
Đến lượt mình, Keira nghiêng người sang Ivory, để lộ chiếc vòng cô vẫn đeo trên cổ.
– Ông sẽ không làm thế chứ!
– Cô thật tử tế khi nói tôi biết chuyện đó, nhưng tôi mới là người biết rõ nhất! Cô có muốn chúng ta tìm hiểu thêm về cái vật kỳ lạ này không?
– Tôi đã nói với ông rồi, đó chỉ là món quà do một cậu bé tặng cho tôi.
– Nhưng mới hôm qua, cô vừa kể với tôi là chính cô cũng đã thử tìm hiểu xuất xứ thực sự của nó cơ mà.
– Thực ra thì tại sao lại không nhỉ?
– Chúng ta có thể bắt đầu bằng việc thử đoán niên đại của vật này được không? Nếu đây đúng là một mẩu gỗ, một phân tích đơn giản tiến hành dùng đồng vị carbon 14 hẳn sẽ cho chúng ta lời giải đáp.
– Với điều kiện là nó không quá năm mươi nghìn năm tuổi.
– Cô nghĩ nó cổ đến thế kia ư?
– Ivory ạ, từ khi quen ông tôi trở nên đa nghi về vấn đề tuổi tác.
– Tôi muốn coi đó như một lời khen tặng hơn, nhà bác học lão thành vừa đáp vừa đứng dậy. Đi theo tôi nào.
– Ông không định nói với tôi là có một chiếc máy gia tốc phân tử được cất giấu trong tầng hầm của viện bảo tàng đấy chứ?
– Không, tôi sẽ không nói như thế đâu, Ivory vừa đáp vừa cười phá.
– Và ông cũng không có một ông bạn già ở Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Saclay sẽ làm đảo lộn cả chương trình nghiên cứu của Ủy ban chỉ để nghiên cứu chiếc vòng cổ của tôi đấy chứ?
– Cũng không nốt, và tôi lấy làm tiếc về điều đó, tôi đảm bảo với cô đấy.
– Vậy thì chúng ta đang đi đâu?
– Về văn phòng làm việc của tôi, cô còn muốn chúng ta đi đâu nữa nào?
Keira đi theo Ivory đến tận thang máy. Cô đang định vặn hỏi tiếp, nhưng ông không để cô kịp làm vậy.
– Nếu cô chờ được đến lúc chúng ta được yên thân một cách thoải mái, ông nói trước cả khi cô kịp thốt ra lời nào, tôi xin hứa là cô sẽ tiết kiệm được nhiều câu hỏi vô ích đấy.
Buồng thang máy đi lên tầng mười ba.
Ivory ngồi ra phía sau bàn làm việc riêng và mời Keira ngồi vào một chiếc ghế bành. Cô ngay lập tức đứng dậy để xem cho rõ hơn những dòng chữ ông đang gõ trên bàn phím máy tính.
– Internet! Từ khi tôi phát hiện ra thứ này, tôi liền phát điên lên vì nó. Giá mà cô biết được tôi đã trải qua bao nhiêu tiếng đồng hồ cùng nó! Thật may là tôi đã góa vợ, nếu không tôi tin là thú tiêu khiển này sẽ giết chết vợ tôi mất, hoặc là chính bà ấy sẽ cho tôi tiêu đời. Cô có biết về “hình cầu” không – đó là một từ đậm chất “tin” mà các sinh viên đã dạy cho tôi – tóm lại, về hình cầu hoặc cảnh nền – cái đó đã dạy cho tôi – ý nghĩa – người ta không tìm kiếm một thông tin nữa, mà người ta “google hóa” thông tin đó! Chuyện này không phải rất vui hay sao? Tôi ngưỡng mộ vốn từ vựng mới này, và chuyện hay ho nhất là khi tôi không nhớ ra nổi một thuật ngữ, sao nào, tôi cũng gõ nó lên Internet, và hấp, ngay lập tức tôi thu được nghĩa của nó. Tôi nói với cô điều này, người ta tìm ra hầu hết mọi thứ, ngay cả địa chỉ những phòng thí nghiệm tư có thực hiện những phân tích với carbon 14, tuyệt chưa nào?
– Thực ra thì ông bao nhiêu tuổi rồi hả Ivory?
– Ngày nào tôi cũng phát minh lại tuổi của mình, Keira ạ, điều quan trọng là không buông trôi chán nản.
Ivory in ra một danh sách các địa chỉ và ngạo nghễ phe phẩy tờ giấy trước mắt vị khách của mình.
– Chúng ta chỉ cần gọi vài cuộc điện thoại để tìm ra những nơi sẽ chấp nhận giải quyết yêu cầu của chúng ta với giá cả phù hợp và trong thời gian hợp lý nhất, ông kết luận.
Keira tra giờ trên đồng hồ đeo tay.
– Chị gái của cô! Ivory kêu lên. Tôi tin là cô ấy đã được giải thoát khỏi cuộc họp được một lúc lâu rồi đấy! Đi gặp cô ấy đi, tôi sẽ lo mọi việc.
– Không, tôi ở lại, Keira nói vẻ ngượng nghịu, tôi không thể để ông làm công việc này một mình được.
– Có chứ, tôi xin đấy, nói cho cùng, tôi còn háo hức muốn biết kết quả chẳng kém gì cô, thậm chí là còn hơn cả cô. Cô đi gặp Jeanne đi và quay trở lại gặp tôi vào ngày mai. Chúng ta sẽ có thêm nhiều thông tin.
Keira cảm ơn vị giáo sư.
– Cô đồng ý giao chiếc vòng cổ này cho tôi cả tối nay nhé? Tối lấy trích ra một mẩu nhỏ để dùng vào việc phân tích. Tôi xin hứa là sẽ thao tác với sự khéo léo của một bác sĩ phẫu thuật, nhìn vào sẽ không thấy sứt mẻ gì đâu.
– Dĩ nhiên là được, nhưng tôi đã thử nhiều lần rồi và tôi chưa bao giờ thành công dù chỉ là làm xước được nó.
– Cô có một lưỡi dao kim cương giống như thứ này không? Ivory hỏi, hãnh diện lôi ra một ngăn kéo dụng cụ cắt cúp.
– Rõ ràng là ông có đầy đủ phương tiện rồi, Ivory. Không, tôi làm gì có một con dao mổ như thế.
Keira ngập ngừng giây lát rồi để chiếc vòng cổ lại trên bàn làm việc của Ivory. Ông nhẹ nhàng gỡ nút dây da đang quấn chặt vật hình tam giác rồi trả lại sợi dây mảnh cho chủ sở hữu.
– Hẹn ngày mai gặp, Keira, cứ ghé qua bất cứ lúc nào cô muốn, tôi vẫn sẽ ở đây.
Chú Thích
1 Chơi chữ của tác giả: tên của loại rượu vang là “honnête vin”, mà “honnête” tiếng Pháp có một nét nghĩa là “đức hạnh”.
2 Hộp sọ hóa thạch 7 triệu năm tuổi.
3 Một họ người sống cách đây khoảng 5,2 đến 5,8 triệu năm.
4 Lucy được phát hiện vào ngày 30 tháng Mười một năm 1974 tại Hadar, bên bờ sông Awash, trong khuôn khổ một dự án tập hợp khoảng ba mươi nhà khoa học quốc tịch Êtiôpia, Mỹ và Pháp, do Donald Johanson, Maurice Taieb và Yves Coppens lãnh đạo. Bộ xương được đặt tên là Lucy bởi những người phát hiện ra nó hát lầm rầm suốt cả ngày trời bài “Lucy in the Sky with Diamonds” của ban nhạc The Beatles. (chú thích của tác giả).

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.