Kho báu của vua Solomon

Chương 04 phần 2



Vất vả lắm tôi mới thuyết phục được ba người Caphơ trong làng đi theo chúng tôi một quãng độ hai mươi dặm, tức là giai đoạn đầu cuộc hành trình của chúng tôi. Mỗi người trong số họ sẽ mang một chiếc lọ hình quả bầu đựng gần năm lít nước.

Để trả công, tôi hứa sẽ tặng họ mỗi người một con dao săn.

Chúng tôi dự định sẽ bổ sung nước dự trữ vào đêm hôm sau, và quyết định lên đường vào ban đêm, vì ban đêm trời đỡ nóng hơn. Tôi nói với những người Caphơ rằng chúng tôi đi săn đà điểu, là giống chim có rất nhiều ở sa mạc. Nghe xong, họ nói liến thoắng với nhau điều gì đó, rồi nhún vai bảo tôi rằng chúng tôi điên và nhất định sẽ chết khát trong sa mạc, là điều tôi cũng nghĩ là có lẽ sẽ xảy ra thật. Nhưng vì quá thích những chiếc dao săn mà trong mơ cũng không dám mơ tới. – vùng hoang dã này, dao săn là vật rất hiếm – Cuối cùng họ cũng đồng ý đi theo chúng tôi hai mươi dặm. Chắc họ nghĩ rằng nếu chúng tôi có chết khát thì cũng không phải do lỗi của họ. Cả ngày hôm sau, chúng tôi chỉ ngủ và nghỉ ngơi. Mặt trời sắp lặn, chúng tôi ăn no thịt bò tươi, uống no nước chè. Vừa uống Huđơ vừa buồn rầu nói rằng không biết lúc nào chúng tôi mới được uống chè một lần nữa. Sau đó, làm xong các việc chuẩn bị cuối cùng, chúng tôi lại nằm xuống chờ trăng lên. Cuối cùng gần chín giờ, mặt trăng xuất hiện trong vẻ đẹp lộng lẫy của mình. Ánh trăng tỏa xuống những khoảng không hoang dại và dát bạc cả sa mạc mênh mông cũng uy nghiêm và lặng lẽ như bầu trời đầy sao trên đầu chúng tôi.

Chúng tôi đứng dậy nhưng chưa bước đi vội như đang lưỡng lự điều gì: Tôi nghĩ con người bao giờ cũng lưỡng lự trước khi bước vào chặng đường mà không tin có ngày còn quay lại. Chúng tôi – ba người da trắng – đi ra đứng riêng một chỗ. Ambov tay cầm giáo, súng trên vai đang đứng trước chúng tôi mấy bước; anh ta đăm đăm nhìn về phía sa mạc. Venfogen và những người Caphơ chúng tôi mới thuê xách bình nước đứng một chỗ sau chúng tôi chút ít.

– Thưa các bạn. – Sau một lúc im lặng, Henry nói bằng cái giọng trầm dễ nghe của mình. – Chúng ta sắp bắt đầu một cuộc hành trình khác thường mà có lẽ xưa nay chưa ai thực hiện. Chưa chắc nó sẽ kết thúc tốt đẹp. Chúng ta có ba người. Và tôi tin rằng trong tất cả những thử thách đang chờ ta phía trước, trong bất kì trường hợp nào ta cũng sẽ đứng bên nhau cho đến hơi thở cuối cùng. Còn bây giờ, trước khi lên đường chúng ta hãy đọc một bài cầu ngắn, cầu nguyện Đức chúa Trời toàn năng, vì Ngài điều khiển số phận và vạch đường đi cho con người, kể từ ngày Ngài tạo nên thế giới. Chúng ta hãy gửi gắm tất cả vào ý Ngài và mong Ngài đặt bước chân chúng ta lên con đường may mắn.

Rồi ông cởi mũ, hai tay che mặt và lẩm nhẩm lời cầu trong hai phút. Tôi và Huđơ làm theo.

Như phần lớn những người thợ săn khác, tôi không phải là người sùng đạo lắm. Còn Henry thì theo tôi nghĩ, sâu trong lòng, ông là người rất sùng đạo, dù tôi chưa bao giờ nghe từ ông những lời tương tự, trừ một lần sau này nữa. Huđơ cũng là một con chiên thành kính, tuy ông ta thích nói tục. Ít ra thì tôi không nhớ có lần nào (trừ một lần khác sau này) tôi cầu nguyện thành tâm đến thế. Cầu xong, tôi thấy trong lòng nhẹ nhõm hơn. Tương lai của chúng tôi còn rất mù mịt; nhưng tôi nghĩ chính cái sợ hãi và mờ mịt ấy bao giờ cũng đưa con người lại gần hơn với Chúa.

– Nào, – Henry nói, – Bây giờ thì chúng ta xuất phát!

Và chúng tôi lên đường. Nói chung, hầu như chúng tôi phải đi mò, vì ngoài những đỉnh núi xa và tấm bản đồ mà Hoxe Xinvext, một ông già nửa điên nửa tỉnh đã vẽ lên một mẩu vải lúc hấp hối, chúng tôi chẳng còn gì khác để định hướng. Khó mà tin được bản đồ ấy, thế mà nó lại là tất cả hi vọng thành công của chúng tôi. Tôi lo không biết chúng tôi có tìm được hồ “nước thối” mà theo bản đồ của ông lão Bồ Đào Nha, thì sẽ nằm chính giữa sa mạc, tức là cách làng Xitandi sáu mươi dặm hay không. Từ Đấy đến núi Vú nữ hoàng Xava cũng bằng chừng ấy. Nếu không tìm thấy, chắc chắn chúng tôi sẽ chết khát. Chúng tôi hầu như không có một cơ sở nào để hi vọng tìm thấy nó giữa biển cát mênh mông và những bụi gai thấp, thưa thớt này. Giả sử đa Xinvextơra có xác định đúng vị trí của hồ nước đi nữa, thì lẽ nào dưới ánh sáng mặt trời gay gắt, nó không cạn khô sau ba thế kỷ? Lẽ nào thú vật không dẫm nát nó? Và cuối cùng là không bị cát vùi lấp?

Lặng lẽ như những cái bóng, chúng tôi bước đi trong đêm tối, chân ngập sâu dưới cát. Đi nhanh là điều không thể được, vì chúng tôi luôn vấp phải các bụi gai. Cát chui vào giày Vendxcun của chúng tôi và giày đi săn của Huđơ, nên chốc chốc phải dừng lại để dốc cát ra. Sương đêm làm giảm cái nóng ngột ngạt của sa mạc, và mặc dù đi lại khó khăn và dừng khá nhiều, chúng tôi vẫn tiến nhanh về phía trước. Xung quanh là một sự im lặng nặng nề. Để làm chúng tôi vui lên, Huđơ huýt sáo bài “Cô gái mà tôi bỏ lại ở nhà”, nhưng giữa sa mạc mênh mông giai điệu vui nhộn của bài hát lại trở nên buồn thảm và rùng rợn. Huđơ thôi không huýt sáo nữa.

Chẳng bao lâu, một việc đã xẩy ra với chúng tôi, lúc đầu làm ai cũng hoảng sợ hết hồn, nhưng sau lại biến thành câu chuyện vui vẻ. Thuyền trưởng Huđơ đi đầu, tay cầm chiếc la bàn mà với tư cách là một thủy thủ, ông ta rất biết cách sử dụng. Chúng tôi thì người nọ tiếp người kia đi theo ông ta. Bỗng ông ta kêu to một tiếng rồi biến mất. Đúng lúc ấy xung quanh chúng tôi vang lên những âm thanh kì lạ như tiếng rên, tiếng thở phì phì và tiếng những bước chân nặng nề đang bỏ chạy. Mặc dù hầu như tối hoàn toàn, chúng tôi lờ mờ nhận thấy bóng của những sinh vật lạ lùng nào đó đang lao về phía trước, cuốn tung bụi cát. Những người bản xứ vất đồ đạc định bỏ chạy, nhưng chợt nhớ ra là không còn nơi nào để chạy, liền nằm lăn xuống cát, kêu to rằng đó chính là quỷ sứ. Tôi và Henry đứng lặng vì ngạc nhiên, nhưng chúng tôi càng ngạc nhiên gấp bội khi chợt thấy Huđơ đang phóng như bay về phía núi. Chúng tôi có cảm giác như ông ta phi trên lưng ngựa, vừa phi vừa kêu lên những tiếng kêu kinh khủng. Bỗng nhiên, dang rộng hai tay, ông ta ngã phịch xuống đất.

Đến lúc này tôi hiểu chuyện gì đã xẩy ra: Đang đi trong bóng đêm, chúng tôi vấp phải một đàn ngựa rừng châu Phi, và Huđơ ngã ngay xuống lưng một con, làm con này hoảng sợ, chồm dậy và cứ thế phóng đi, mang theo cả chàng kỵ sĩ. Tôi kêu to, bảo mọi người đừng lo, rồi chạy đến chỗ Huđơ, và rất sung sướng thấy ông ta đang ngồi trên cát. Tôi thở phào nhẹ nhõm vì tuy ngã, nhưng ông ta hoàn toàn không bị thương tổn chút nào. Tất nhiên ông thuyền trưởng bị một phen hú vía và bị xóc kinh khủng, nhưng tất cả những điều ấy không để lại một dấu vết gì, cả trên người ông ta, và cả trên chiếc kính một mắt vẫn lấp lánh ở mắt bên phải.

Sau sự kiện vui vẻ ấy, chúng tôi đi tiếp và không hề gặp một chuyện khó chịu nào. Gần một giờ sáng chúng tôi dừng lại uống ít nước (chúng tôi không dám uống thả cửa, vì biết nước sau này sẽ cần thiết như thế nào) nghỉ lấy sức ba mươi phút, rồi lại đi tiếp.

Chúng tôi đi, đi mãi cho đến lúc cuối cùng chân trời phía đông rực hồng như đôi má của cô gái khi xấu hổ. Những tia nắng dịu dàng màu vàng hồng đan chéo lẫn nhau xuất hiện. Một ngày mới bắt đầu.

Chúng tôi quyết định không dừng lại nghỉ dù rất muốn, vì biết rằng khi mặt trời lên cao, trời nóng sẽ khó lòng mà đi tiếp. Nửa giờ sau, cuối cùng chúng tôi nhìn thấy ở phía xa một vài mỏm đá nhô lên trên nền sa mạc bằng phẳng. Kéo lê chân vì mỏi mệt, chúng tôi tiến về phía những mỏm đá ấy, và sung sướng nhận thấy một mỏm chìa ra phía trước tạo trước cái mái che nắng rất tốt. Phía dưới nó đất được phủ một lớp cát mịn. Chúng tôi thích thú ngồi nghỉ ở đấy, uống ít nước và mỗi người ăn một miếng thịt phơi khô rồi ngay lập tức ngủ say như chết.

Khi chúng tôi tỉnh dậy đã là ba giờ chiều. Những người khuân vác Caphơ chờ chúng tôi dậy để chuẩn bị quay trở lại. Sa mạc đã làm họ chán ngấy tận cổ, và không một thứ dao săn nào trên đời còn có thể bắt được họ đi tiếp. Chúng tôi khoan khoái uống hết số nước còn lại trong bình của mình rồi lại đổ đầy bằng nước mà những người này mang theo, rồi cho họ về nhà.

Vào bốn giờ ba mươi phút, chúng tôi lại lên đường. Sa mạc im lặng một cách chết chóc. Trên cả biển cát mênh mông mà tầm mắt có thể bao quát được không hề có một sinh vật nào, trừ một vài con đà điểu. Có lẽ vì thiếu nước nên không có muông thú, và nếu không kể một hay hai loại rắn hổ mang, chúng tôi hoàn toàn không thấy loài bò sát nào. Thế nhưng có một giống thì lại quá nhiều, đó là ruồi, loại ruồi bình thường ta vẫn thấy ở nhà. Chúng bay đầy trên sa mạc và luôn theo đuổi chúng tôi như những tên thám báo, không phải “từng con một, mà là từng đàn lớn”, như đâu đó trong phần Cựu ước của Kinh thánh đã miêu tả. Thứ ruồi này thật đặc biệt, anh trốn đâu cũng gặp chúng. Có lẽ ngay từ thời sáng thế đã có chúng. Một lần tôi nhìn thấy một con bị ướp trong một cục hổ phách mà người ta nói với tôi ít nhất cũng đã năm vạn năm tuổi. Thế mà con ruồi ấy trông chẳng khác con ruồi hiện đại một chút nào. Tôi hầu như tin tưởng một cách chắc chắn rằng khi con người cuối cùng trên trái đất chết, thì chúng (tất nhiên nếu điều ấy xảy ra vào mùa hè) cũng sẽ bay vù vù xung quanh và cố gắng chọn thời cơ thuận lợi để đậu ngay lên mũi anh ta.

Khi mặt trời lặn, chúng tôi ngồi nghỉ và chờ trăng lên. Cuối cùng trăng xuất hiện trên bầu trời, lặng lẽ và bình thản như bao đời nay, và chúng tôi lại đi tiếp. Chỉ dừng nghỉ một lần vào lúc hai giờ sáng, chúng tôi lê chân đi suốt đêm, cho đến lúc mặt trời mọc và kiệt sức vì mỏi mệt, buộc phải nghỉ. Sau khi uống một vài ngụm nước, hoàn toàn rã rời, chúng tôi lăn xuống cát và ngủ thiếp ngay lập tức. Cũng chẳng cần phải cử ai canh phòng vì bốn bề là sa mạc mênh mông không sự sống. Kẻ thù duy nhất của chúng tôi là cái nóng, cái khát và ruồi. Tôi sẵn sàng đón nhận mọi nguy hiểm từ phía con người hay thú dữ, còn hơn phải chịu ba tai họa này. Rất tiếc là lần này chúng tôi không tìm được một mỏm đá có bóng râm nào để tránh nắng như trước. Bảy giờ sáng, chúng tôi tỉnh dậy vì nóng không chịu nổi, với cảm giác như mình là miếng thịt đang bị kẹp bơ trên than đỏ rực. Những tia nắng của mặt trời nóng bỏng như chiếu xuyên qua tất cả, như đang hút khô máu trong cơ thể.

Chúng tôi ngồi, thở một cách khó nhọc.

– Cút đi! – Tôi vừa kêu lên bất lực, vừa vung tay xua bầy ruồi đang dai dẳng bay vo vo quanh đầu tôi.

Chúng thật hạnh phúc vì không biết tới cái nóng.

– Quả đúng là… – Henry lẩm bẩm.

– Vâng, nóng kinh khủng! – Huđơ ngắt lời ông.

Cái nóng đúng là không chịu nổi, và không có một nơi nào để trốn khỏi cái lò lửa địa ngục ấy. Xung quanh, nhìn đi đâu cũng chỉ thấy sa mạc trần trụi bị hun nóng hừng hực. Không một gò đất, một hòn đá hay một cái cây nào.

Không một bóng râm nào, dù nhỏ. Chúng tôi như bị mù khi nhìn lên mặt trời sáng trắng chói chang: từng luồng không khí run run bốc lên từ sa mạc như trên một tấm sắt bị nung đỏ, làm đôi mắt cay xè.

– Biết làm gì bây giờ! – Henry hỏi. – Không ai chịu được lâu cái cảnh địa ngục này.

Chúng tôi nhìn nhau, hoàn toàn không biết phải làm gì.

– Tôi nghĩ ra rồi, – Huđơ nói. – Chúng ta phải đào một cái hố rồi chui xuống đó, bên trên che bằng các cây gai.

Đề nghị này không làm chúng tôi phấn chấn hơn bao nhiêu, tuy nhiên vẫn tốt hơn là không làm một cái gì cả. Chúng tôi liền bắt tay vào công việc, bằng tay và chiếc xẻng mang theo, một giờ sau chúng tôi đã đào được một chiếc hố rộng ba mét, dài sáu mét và sâu hơn nửa mét. Sau đó chúng tôi dùng dao săn cắt các cây gai mọc lè tè trên cát, nhảy xuống hố rồi che lên trên. Chỉ một mình Venfogen không làm theo chúng tôi, vì là người Gốttentốt, anh ta đã quen với cái nóng và không hề cảm thấy mệt mỏi.

Trong một chừng mực nào đó, cái hố đã che cho chúng tôi khỏi những tia sáng mặt trời nóng bỏng. Tôi xin nhường bạn đọc tưởng tượng không khí dưới cái mộ tự tay chúng tôi đào ấy ngột ngạt như thế nào, vì thực tình tôi không đủ từ để miêu tả. Có lẽ Hầm đen ở Calcutta còn là thiên đường so với nó. Cho tận đến bây giờ tôi cũng không hiểu làm sao chúng tôi sống qua nổi cái ngày kinh khủng ấy, khi mà không đủ không khí để thở, chúng tôi chỉ thỉnh thoảng mới được phép dấp môi vì nước còn lại rất ít. Nếu được uống thả cửa thì tất cả nước dự trữ sẽ hết ngay trong hai giờ đầu. Nhưng chúng tôi buộc phải theo một chế độ tiết kiệm vô cùng khắt khe, vì hiểu rõ rằng thiếu nước, chúng tôi sẽ chết.

Thời gian trôi qua một cách chậm chạp đến không chịu nổi. Nhưng trên đời cái gì cũng phải kết thúc – Tất nhiên nếu ta sống được đến lúc đó – Và cái ngày khủng khiếp ấy bắt đầu ngả về chiều. Gần ba giờ, chúng tôi quyết định rằng không thể chịu đựng sự tra tấn này lâu hơn được nữa. Thà chết dọc đường còn hơn phải chết dần chết mòn vì nóng và khát trong cái hố đáng sợ này. Uống mỗi người vài ngụm từ số nước ít ỏi còn lại đã bị đun nóng đến nhiệt độ của máu, chúng tôi đứng dậy lảo đảo bước đi tiếp.

Chúng tôi đã đi được gần năm mươi dặm sâu trong sa mạc. Nếu còn nhớ những lời dặn của Xinvextơra và xem lại tấm bản đồ của ông ta, bạn đọc sẽ thấy sa mạc kéo dài bốn mươi Liơ, và Hồ “nước thối” được đánh dấu ngay chính giữa. Bốn mươi Liơ tức là một trăm hai mươi dặm, nghĩa là chúng tôi chỉ cách chỗ có nước nhiều nhất là hai mươi hoặc mười lăm dặm. Tất nhiên nếu quả đúng là có một hồ nước như thế.

Sau một ngày ròng rã phải chịu đựng những thử thách ghê gớm, bây giờ chúng tôi lê chân, chậm chạp tiến về phía trước, với tốc độ hơn nửa dặm một giờ. Mặt trời lặn, chúng tôi dừng lại nghỉ, và trong khi chờ trăng lên, chúng tôi uống vài ngụm nước rồi tranh thủ ngủ chút ít. Trước khi nằm xuống, Ambov chỉ cho chúng tôi một ngọn đồi không lớn lắm đang in hình mờ mờ trên nền sa mạc bằng phẳng, cách chúng tôi gần tám dặm. Từ xa trông nó như một tổ kiến, và vừa nằm thiếp ngủ, tôi vừa tự hỏi mình không hiểu đó là cái gì. Trăng lên. Chúng tôi đứng dậy đi tiếp, hoàn toàn kiệt sức vì nóng và khát. Ai chưa trải qua những thử thách này, khó mà hình dung nổi cả sự gian khổ của chúng tôi lẫn những gì chúng tôi đã trải qua ngày hôm ấy. Không phải chúng tôi đi, mà lảo đảo bên này sang bên kia, chốc chốc lại ngã xuống vì kiệt sức. Cứ đi được một giờ, hầu như lần nào chúng tôi cũng phải ngồi xuống nghỉ. Thậm chí chẳng còn đủ sức để nói chuyện. Trước đấy thuyền trưởng Huđơ bao giờ cũng nói, đùa vui vẻ, vì ông ta là người rất vui tính, thế mà bây giờ tính ấy của ông ta cũng biến đâu mất.

Cuối cùng, gần hai giờ sáng, hoàn toàn rã rời cả về thể xác lẫn tinh thần, chúng tôi đến được chân của một đồi cát kì dị, mà ngay từ lúc mới nhìn chúng tôi đã thấy giống một chiếc tổ kiến. Nó cao khoảng ba mươi mét và chiếm một diện tích gần một nghìn mét vuông.

Chúng tôi dừng lại ở đây, và bị cơn khát khủng khiếp dày vò, chúng tôi đã uống cạn đến giọt cuối cùng số nước còn lại. Thế mà mỗi người cũng chỉ được chưa đầy một phần ba lít, trong khi có thể uống hết cả thùng.

Sau đó chúng tôi lại nằm xuống, và khi đã thiếp ngủ, tôi chợt nghe Ambov lẩm bẩm nói một mình bằng tiếng Dulux:

– Nếu ngày mai không tìm thấy nước, tất cả chúng ta sẽ chết trước lúc trăng lên.

Mặc dù trời rất nóng, tôi đã run lên. Không thể nói rằng dễ chịu khi nghĩ về khả năng có thể chết một cách khủng khiếp như thế. Nhưng thậm chí cả ý nghĩ ấy cũng không ngăn được tôi ngủ thiếp lúc nào không biết.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.