Oliver Twist
Chương 5
Một sớm tinh mơ, ông Bumble bước ra khỏi nhà và bắt đầu đi ngược lên con phố lớn bằng những bước oai vệ. Trong ánh nhìn của ông có vẻ gì sâu lắng và bước chân ông biểu lộ vẻ tự hào cho thấy nhiều suy nghĩ quan trọng đang thoáng hiện trong tâm trí ông.
Ông không dừng lại trên đường trò chuyện với vài người tiểu thương đang kính cẩn chào ông. ông chỉ trả lời họ bằng một cử chỉ nhanh nhẹn. ông Bumble đến nhà bà Mann trong chung cư được sắp xếp cho những đứa trẻ nghèo khổ.
Khi bà Mann thoáng thấy ông, bà nghĩ thầm:
“Quỷ thần ơi, một lão đến thăm viếng! Địa ngục hãy mở ra dưới chân lão đi!” nhưng bà lại đón tiếp ông bằng những lời lẽ khác:
– à! Ngài Bumble đấy ạ, tôi dám chắc đấy là ngài! Thật vui mừng được trông thấy ngài sớm như vậy! Mời ngài vào!
– Xin chào, bà Mann.
– Xin chào, ngài Bumble, tôi hy vọng ngài vẫn khỏe đấy chứ?
– Thường thôi, thưa bà, thường thôi! Tôi có một cuộc sống rất cực nhọc. Tôi thấy rất mệt mỏi.
– Tôi biết điều đấy, ngài Bumble ạ.
– Tôi đến báo với bà một tin quan trọng.
– ôi! Chúa ơi! Điều gì vậy?
– Ngày mai tôi sẽ đi Luân Đôn, bà Mann ạ.
– Đi Luân Đôn ư, ngài Bumble!
– Vâng, thưa bà, tôi sẽ dẫn theo hai đứa trẻ nghèo khổ của Trại tế bần mà chúng ta đã quyết định chuyển chúng đến nơi khác.
– Thế thì ngài sẽ đi xe khách ư? – Bà lại nói.
– Thường thì người ta chuyển những đứa trẻ nghèo khổ đi bằng xe bò.
– Chúng đang ở trong tình trạng tồi tệ và chúng tôi đã tính toán rằng chi phí vận chuyển ít tốn kém hơn là phí mai táng. Tôi hy vọng rằng chúng tôi sẽ đi đến nơi đến chốn, trừ phi là chúng chết dọc đường để gây cho chúng tôi chuyện buồn bực.
Và ông Bumble bắt đầu cười như thể đó là một chuyện hóm hỉnh.
– Chúng ta đừng quên công chuyện đấy, – ông nói tiếp, – tôi mang đến cho bà tiền trợ cấp hàng tháng như đã thỏa thuận.
Ông Bumble rút ra mấy đồng bạc trong túi và yêu cầu bà Mann viết ngay lập tức giấy biên nhận..- Những đứa trẻ thế nào? – ông Bumble hỏi.
– Những kho báu thân yêu! Chúng rất khỏe, trừ hai đứa bị chết tuần trước và một đứa bị ốm.
– Phải, tôi cho rằng chuyện Oliver Twist từng đến ở ngôi nhà này thật là tai hại, nó đã làm bọn trẻ mất tinh thần.
– Tôi đồng ý với ông, ngài Bumble ạ.
– Tôi cần phải báo tình cảnh này cho hội đồng quản trị.
– Tôi hy vọng rằng các ngài ấy sẽ hiểu rằng đấy không phải là lỗi của tôi. – Bà Mann sụt sùi.
– Hãy yên tâm, thưa bà, họ sẽ biết chính xác vụ việc và tôi sẽ tìm ra lời lẽ cần thiết để thuyết phục họ về sự tận tình của bà.
ông Bumble cáo biệt bà ta, quay về nhà để chuẩn bị cho chuyến du lịch.
Sáng hôm sau, vào lúc sáu giờ, ông Bumble, sau khi trùm kín người bằng chiếc áo choàng màu xanh da trời, trèo lên xe chở hành khách, cùng đi có hai đứa trẻ mà đám hành khách muốn gạt bỏ.
ông đến Luân Đôn không có chuyện gì khó chịu lắm trừ cử chỉ đáng ghét của hai đứa trẻ cứ nhất định run lập cập.
ông rũ bỏ hai đứa trẻ khốn khổ và đến trọ ở một khách sạn nơi chiếc xe đỗ lại.
Ngay lập tức, ông gọi cho mình vài lát thịt ngon rồi ông dùng với một chai rượu vang. Sau đó, ông dịch chiếc ghế dựa lại gần lò sưởi, đặt lên lò sưởi một cốc rượu pha chanh và sau một vài ngẫm nghĩ đạo lý về xu hướng tội lỗi của mọi người cứ thích than phiền, ông thoải mái đọc tờ báo.
Bài đầu tiên đập vào mắt ông là thông cáo sau:
Một khoản tiền thưởng lớn Một cậu bé tên là Oliver Twist đã biến mất khỏi chỗ ở từ tối thứ năm và người ta không biết cậu đã ra sao. Một khoản tiền thưởng sẽ được giao cho ai cung cấp những thông tin có thể giúp tìm thấy cậu bé Oliver Twist, hay rọi một ánh sáng nào đấy lên câu chuyện của em mà tác giả của thông tin này rất muốn biết.” Kèm theo là một vài đặc điểm chính xác của Oliver với những chi tiết về áo quần cũng như con người em và cả địa chỉ của ông Brownlow.
ông Bumble mở to mắt chậm rãi và chăm chú đọc đi đọc lại ba lần bài báo. Không nghi ngờ gì nữa, bài báo nói về cậu bé Oliver. à! ông biết vài thông tin về cậu bé vô kỷ luật này! ông chỉ cần lục lọi trong trí nhớ của mình! ông có thể kể cho ông Brownlow này khối chuyện đây! Và ông sẽ bỏ túi một khoản tiền ra trò! Đừng để mất một phút nào cả!
Năm phút sau, ông tìm đến địa chỉ đó, chẳng kịp uống hết cốc rượu chanh của mình.
– ông Brownlow có thể tiếp tôi được không?
– ông hỏi chị giúp việc ra mở cửa..- Cuộc viếng thăm của ông có lý do gì?
– Tôi là Bumble, nhưng tên tôi chẳng nói với chị điều gì cả đâu. Tôi mang đến những tin tức về cậu bé Oliver Twist.
– Mời vào, mời vào, – bà Bedwin nói, – tôi biết rõ rằng chúng tôi sẽ có tin của cậu bé đáng thương này. Tôi chắc chắn về điều ấy, tôi đã nói mà.
Bà già tốt bụng không kiềm chế nổi sự xúc động của mình, bà nhanh chóng quay về phòng, buông mình xuống chiếc ghế dựa, và khóc lóc, trong khi đó cô hầu còn giữ được tinh thần, vội vàng chạy đi báo cho ông Brownlow biết.
Cô quay lại ngay và đề nghị ông Bumble đi theo cô.
– ông Brownlow muốn nghe ông ngay lập tức.
– Cô nói.
Cô dẫn ông vào căn phòng làm việc nhỏ nơi ông Brownlow và ông bạn Grinwig đang ngồi.
– Thưa ông, mời ông ngồi. Chắc hẳn ông đã đọc mẩu tin mà tôi đã cho đăng trên báo phải không?
– Vâng, thưa ông, và nhờ vào mẩu tin đó mà tôi biết được địa chỉ của ông. Tôi đã không để chậm một phút nào.
– Thế ông biết gì về cậu bé? – ông Brownlow hỏi. – Giờ nó thế nào rồi?
– Tôi không biết gì về chuyện đó. – ông Bum-ble đáp.
– Tôi xin ông hãy nói đi, nói đi!
– Chắc hẳn ông không có gì tốt đẹp để nói đâu nhỉ. – ông Grinwig nhận xét với vẻ chế giễu.
– ông có lý đấy. – ông Bumble vừa nói vừa lắc đầu.
Ông Brownlow lo ngại nhìn vẻ mặt phấn khởi của vị khách.
– Nào, hãy nói cho tôi biết, đừng ngần ngại gì cả, tất cả những gì ông biết về Oliver.
Ông Bumble để mũ xuống đất, từ tốn cởi nút áo choàng, khoanh tay lại, tự hào ngửa cổ ra phía sau và sau một hồi suy nghĩ, bắt đầu kể lể. ông ta nói suốt hai mươi phút.
Ông tuyên bố rằng ông biết đứa trẻ này từ khi nó còn rất nhỏ vì nó được sinh ra ở Trại tế bần.
Không ai biết cha mẹ của nó và chắc rằng đức hạnh của họ cũng rất khả nghi. Đứa trẻ này chỉ thể hiện, ngay từ khi mới biết đi, biết nói, toàn những chuyện đạo đức giả, vô ơn, độc ác. Nó đã làm gì? Trước tiên là những trò nghịch ngợm tồi tệ nhất, đó chỉ là một chuyện tồi tệ vớ vẩn, song nó còn suýt giết chết một gã trai thật hiền lành vô hại và nhiều người tận tâm phải can thiệp nhanh chóng mới tránh được một tai họa. Đó chưa phải là hết. Một đêm, nó còn trốn khỏi nhà ông chủ, người thật là.tử tế với nó. ông Bumble bày ra trên bàn các giấy tờ để chứng minh cho những gì vừa nói.
Nói hết những gì cần nói, ông Bumble lại khoanh tay và chờ đợi những nhận xét của ông Brownlow.
– Tôi e rằng tất cả những điều này đều quá đúng. – ông già Brownlow nói giọng buồn rầu, sau khi đã xem xét những giấy tờ. – Đây là số tiền đã hứa cho những thông tin của ông, nhưng tôi thề với ông rằng tôi sẽ đưa nhiều gấp ba lần số tiền này cho những tin tức có lợi cho đứa trẻ.
Ông Bumble tiếc là đã không nói khác đi về đứa trẻ nhưng giờ đây đã quá muộn. ông cúi rạp người chào, bỏ tiền vào túi và bước ra.
Ông Brownlow đi dọc quanh phòng trong vài phút. Trên gương mặt ông hiện lên nỗi buồn sâu lắng nhất. Cuối cùng, ông quyết định gọi bà Bedwin đến. ông bảo bà:
– Tôi phải báo cho bà rằng chúng ta đã nhầm lẫn về thằng bé. Oliver Twist là một kẻ nói dối, một đứa trẻ đầy thật xấu. Tôi có bằng chứng chắc chắn về điều đó.
– Không thể như thế được! Không thể như thế được! – Bà lão nước mắt lưng tròng la lên.
– Tôi phải tuyên bố với bà rằng tôi vừa có chứng cớ cho thấy đó chỉ là một kẻ dối trá, một tên giết người, một thằng lêu lổng, và còn những gì nữa tôi chưa biết.
– Tôi không thể tin được, thưa ông, dù tôi rất kính trọng ông.
– Chao ôi! – Đến lượt ông Grinwig nói. – Phụ nữ các bà không có cùng lý lẽ như chúng tôi. Các bà chỉ tin vào những chuyện hoang đường làm người ta buồn hay tin vào bọn lang băm. Một người đàn ông nghiêm túc mang đến cho bà chứng cứ sự việc, bà lại kêu lên: “Không thể tin được!” Tôi thì tôi biết chuyện này từ lâu rồi và tôi cũng chẳng cần đến sự viếng thăm của cái nhà ông Bumble. Tôi đã nhận xét thằng Oliver đúng như giá trị của nó. Các vị chỉ cần hỏi tôi ngay từ đầu. Như vậy lẽ ra các vị tránh được bao chuyện buồn phiền. Nhưng thằng bé lại bị sốt phải không, thằng bé yêu quý tội nghiệp bị ốm! Cần phải chăm sóc nó. Bệnh tật khiến nó đâm ra thú vị…
– ông Grinwig, – bà lão kiên quyết nói, – tôi cũng biết về trẻ con nhiều như ông. Tôi nhận thấy rằng Oliver là một đứa trẻ hiền và biết hàm ơn.
Tôi tiếp xúc với trẻ con từ hơn bốn mươi năm nay và tôi có nhiều kinh nghiệm hơn ông. Đấy là ý kiến của tôi, tôi không ngần ngại gì mà không cho ông biết: tốt hơn là ông nên im lặng. Vả lại…
Bà Bedwin chuẩn bị tiếp tục và ông Grinwig sắp bị đè nén bởi sức mạnh của những lời trách móc thì ông Brownlow buộc bà phải im lặng.
– Bà hãy im đi! – ông giả vờ cáu giận, sự cáu giận này ông đâu có muốn. – Đừng bao giờ để tôi.nghe đến tên đứa trẻ này nữa. Bà có thể đi được rồi, bà Bedwin ạ.
Tối hôm đó, một không khí u buồn bao trùm ngôi nhà ông Brownlow.
Cùng lúc diễn ra những sự kiện có thể khiến cho Oliver hết sức phiền muộn nếu em biết được những gì mọi người nói về em, cậu bé đáng thương vẫn còn ở trong sào huyệt của lão Fagin.
Lão ăn cắp đợi lúc đồng bọn vắng mặt để thuyết giáo cho Oliver một bài giảng dài về tội vô ơn:
– Chúng ta đã tiếp đón cháu, – lão nói với cậu bé, – dù sao chúng ta cũng cứu sống cháu, còn cháu, cháu chạy trốn khỏi hội những người bạn mới của cháu và đặt họ vào sự lo âu đến vậy.
Thật là không tốt sau tất cả những gì chúng ta đã làm cho cháu.
Lẽ nào ta đã không tỏ ra với cháu tình thân ái? Ta đã không cho cháu trú ngụ khi cháu có thể chết vì đói và mệt ư? Nào, trả lời đi. Chẳng lẽ ta đã không dạy cho cháu một nghề tốt mà không bao lâu có thể giúp cháu trở nên giàu có?
Oliver không trả lời, em đưa mắt nhìn xuống và không một nét nào trên gương mặt em cử động.
Lão già độc ác lại tiếp tục bài diễn văn đang trở nên đe dọa hơn.
– Nghe đây, Oliver, đây không phải là lần đầu tiên ta đón nhận trẻ con. Một ngày nọ, có một cậu bé trạc tuổi cháu đã được cứu giúp bởi lòng thương hại, trong hoàn cảnh tương tự như cháu. Lúc đầu, ta rất yêu quý nó nhưng nó đã tỏ ra không xứng đáng với lòng tin yêu của ta. Ta được biết rằng nó đã cố quan hệ với cảnh sát và nó muốn tố cáo chúng ta; nhưng nó lại bị rơi vào cái bẫy của bản thân mình và chính nó đã bị cảnh sát bắt giữ. Người ta đã treo cổ nó lên như một tên tội phạm. Có lẽ đó cũng là số phận đang đợi cháu nếu cháu tiếp tục không nghe lời… Ta đã từng giúp đỡ cảnh sát chút ít để bắt được cái thằng bé muốn phản bội chúng ta. Đối với ta, đó là một sự độc ác cần thiết, nhưng cháu phải hiểu rằng ta cần nghĩ đến an toàn của mình và đồng bọn. Ta hy vọng cháu biết điều gì nên làm. Giá treo cổ không có gì vui vẻ cả và ta hy vọng sẽ không buộc phải gửi cháu đến đó…
Vừa lắng nghe lão già Do Thái nói, cậu bé Oliver vừa run rẩy toàn thân. Em không hiểu được tất cả những gì lão già nói nhưng em đủ lớn và có khá nhiều kinh nghiệm để có thể hiểu rằng công lý có thể lẫn lộn người vô tội và kẻ tội phạm. Em cũng cảm thấy rằng lão Fagin có khả năng tố cáo với cảnh sát những người gây phiền hà cho lão hoặc không còn làm lão vui lòng nữa.
Em ngước mắt lên và bắt gặp cái nhìn dò xét của lão Do Thái. Em có cảm giác rằng sự sợ hãi của mình không thoát khỏi lão già đểu cáng đang.tỏ ra rất mãn nguyện về xúc cảm mà Oliver thể hiện.
Một nụ cười thoáng hiện trên gương mặt của lão Fagin, lão đập nhẹ tay lên đầu cậu bé.
– Nếu cháu biết điều, nếu cháu muốn học nghề của bọn ta, chúng ta sẽ là bạn tốt của nhau… và cháu sẽ không phải phàn nàn đâu. Bây giờ, ta đi đây, cháu sẽ ở lại đây một mình. Hãy tận dụng sự cô đơn để nghĩ ngợi về những gì ta đã nói với cháu.
Cậu bé đáng thương quên ngay bài diễn văn của lão cai ngục. Em lại nghĩ về những người bạn thật sự đã chăm sóc em và đối xử thật tốt với em.
Em sẽ làm thế nào đây để gặp lại họ và họ nghĩ gì về em nhỉ? Miễn rằng họ đừng nghi ngờ em là một kẻ ăn cắp! Nếu thế thì thật là khốn khổ!
Giờ đây Oliver đã có thể ra khỏi phòng, người ta để em đi lại trong nhà và em tận dụng điều đó để nhận rõ chốn này. Em leo lên gác xép và mở một cánh cửa tò vò. Liệu em có thể ra hiệu được cho ai không nhỉ? Nhưng cậu bé uổng công ngồi phía sau những chấn song đã hoen gỉ, uống công nhìn ra bên ngoài hàng giờ, em chỉ thấy một đám hỗn độn mái nhà và ống khói.
Tuy nhiên, thỉnh thoảng một mái tóc hoa râm lại hiện ra ở ô cửa tò vò của một ngôi nhà đằng xa, nhưng sự hiện diện đó rất ngắn ngủi.
Oliver nhanh chóng nhận ra rằng em không thể làm thế nào cho ai đó nhìn thấy hoặc nghe thấy mình.
Đó là cuộc sống buồn tẻ mà em đang phải chịu đựng giữa những mạng nhện giăng khắp nhà. Thỉnh thoảng, trong suốt một ngày, em chỉ nhìn thấy một con chuột nhắt chạy lon ton trên sàn nhà, cách em không xa nó sợ sệt lẩn trốn vào chỗ trú ẩn ngay khi có tiếng động khả nghi nhỏ nhất.
Một hôm gã Láu Cá phải đi chơi tối ở ngoài, anh chàng tắm rửa và nhờ Oliver đánh xi giày hộ.
Oliver vâng lời. Điều đó khiến em được giải trí chút ít và rồi, cậu thiếu niên thích tỏ ra có ích bởi như vậy em có dịp lấy lòng những người chủ của mình.
– Thật đáng tiếc, – Láu Cá nói với em, – rằng cậu không cùng nghề. Chúng tôi đáng ra sẽ có hứng thú được làm việc cùng nhau. Cậu thật ra không phải là một anh bạn tồi. Thế thì cậu chờ đợi gì trước khi quyết định?
Oliver chẳng trả lời.
– Nhưng, tớ lại nghĩ về điều đó, – Láu Cá tiếp lời, – cậu có biết được nghề này là gì không đã?
– Em nghĩ là có, – cậu bé vừa trả lời, vừa ngẩng đầu lên, – điều đó là ăn cắp… nghĩa là điều mà ngày nào các anh cũng làm..- Đúng đấy, anh bạn, cậu đã thấy đúng. Đấy chính là nghề của bọn này và mình tự hào về nó, đó cũng là nghề của tất cả những người mà cậu gặp ở đây… Thế thì, cậu quyết định bắt chước bọn ta chứ?
– Không, – cậu bé trả lời rất đơn giản, – điều đó không khiến em thích và em muốn đi khỏi đây.
– Chúng ta biết rõ nhưng lão Fagin thích em ở lại hơn. Hãy lắng nghe tiền kêu leng keng trong túi tớ. Ai lại từ chối một cuộc sống tươi đẹp. Cậu quả là ngốc nghếch nếu cậu không muốn cùng chung cuộc sống ấy với bọn tớ… nhưng rồi lão Fagin sẽ ép buộc được cậu.
Oliver không nói gì cả và tiếp tục đánh xi đôi giày của Láu Cá và gã này lại lập tức tấn công.
– Thế thì, cậu thật không có trái tim, cậu không có lòng tự trọng. Cậu ở lại đây và chúng ta sẽ buộc phải nuôi cậu. Cậu sẽ sống dựa vào những người bạn của cậu. Tớ thì tớ không thể sống như vậy.
Không đâu! Này, hãy nhìn tiền chất đầy túi tớ, hãy lắng nghe tiếng leng keng của những đồng xu xinh đẹp. Kho tàng nơi tớ đã lấy số tiền này vẫn chưa cạn kiệt đâu. Vậy mà cậu không muốn có nhiều tiền như vậy, rõ đồ ngu!
Láu Cá mãn nguyện ngắm nhìn đôi giày của mình, Oliver đã làm cho chúng bóng loáng lên.
– Cậu chắc không được giáo dục tốt, – Láu Cá tiếp lời, – cậu không biết thế nào là cuộc sống nhưng lão Fagin sẽ dạy cho cậu, cậu có thể tin chắc vào điều đó, hoặc cậu là người đầu tiên, bằng những bước tiến bộ, không đáp ứng sự khôn khéo trong cách chỉ đạo của lão. Này, Oliver, hãy bắt tay vào việc ngay đi, sớm hay muộn thì cậu cũng sẽ làm vậy, mà cậu không ngờ, cậu đang để mất thời gian trong khi chờ đợi. Hãy suy nghĩ, Oliver, chúng ta đều đã từng ở vào hoàn cảnh của cậu, điều tốt nhất cậu nên làm là hãy tỏ ra xứng đáng với sự tử tế của lão Fagin. Và hãy nhớ cho kỹ nếu cậu không thó đồng hồ và khăn choàng thì những người khác sẽ làm, người ta mặc xác cậu nếu cậu không có khả năng làm gì cả.
Lúc đó, lão già Fagin bước vào cùng với một anh chàng tên là Tom Chitling, kẻ mới đến này đã trải qua vài tuần trong nhà giáo dưỡng. Lão Do Thái bảo:
– Ta thấy rằng Láu Cá biết việc của mình và thông thạo những mánh khóe trong nghề. Tốt lắm, ta khen ngợi cậu ấy. Bây giờ, chúng ta hãy đến ngồi bên lò sưởi và Oliver sẽ ngồi cạnh chúng ta.
Tom Chitling trạc tuổi mười tám. Nó đội một chiếc mũ lông thú, mặc một cái áo vét màu sẫm bằng nhung kẻ, một cái quần dính đầy dầu mỡ và một cái tạp dề. Phải nói thẳng rằng bộ áo quần của nó khá tồi tệ..- Oliver, cháu cho rằng anh chàng này từ đâu đến? – Lão Do Thái vừa hỏi vừa cười gằn.
– Cháu… cháu không biết, thưa ông. – Oliver đáp.
– Ai vậy? – Tom Chitling vừa hỏi vừa ném cho Oliver một cái nhìn khinh bỉ.
– Một anh bạn trẻ của tôi, anh bạn thân mến ạ. – Lão Do Thái trả lời.
– Thế thì, nó có may mắn đấy. – Anh chàng mới đến vừa nói tiếp vừa nhìn lão Fagin. – Tôi cuộc một đồng couronne rằng anh chàng này sẽ tìm ra cách để đến nơi mà tôi vừa thoát khỏi.
Từ lúc đó, lão Do Thái hướng cuộc trò chuyện sang chủ đề dễ khiến thính giả của mình quan tâm hơn cả. Lão nói dài dòng về những lợi thế to tát của nghề nghiệp, về sự khéo léo của Láu Cá, về tính tình vui vẻ của một đứa khác và mỗi đứa đều được vài lời khen ngợi.
Oliver gần như không bao giờ ở một mình, em liên tục gặp gỡ những tên kẻ cắp mỗi sáng đều đến luyện tập với lão Fagin để làm sao ăn cắp nhanh mà không gây tiếng động.
Oliver chứng kiến các bài học.
Thỉnh thoảng, lão già vô lại dừng các thao tác và kể những câu chuyện lừa đảo với đầy vẻ hào hứng và hài hước khiến Oliver không tài nào nhịn được cười và bất chấp sự tế nhị trong tình cảm của mình, em đã tỏ ra thích thú với những câu chuyện kể này.
Lão khốn kiếp giăng bẫy cậu bé. Dần dần, cậu bé Oliver đáng thương bị những gọng kìm xiết chặt lại..
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.