Oliver Twist

Chương 4



Oliver bị sốt mê man trong nhiều ngày và em không biết gì cả. Khi tỉnh lại, em thấy một bà già phúc hậu thức trông nom em như thể em là con của bà.

Người đàn bà tốt bụng này tên là Bedwin, bà đã không rời em một phút nào.

Ba ngày sau, người ta đặt Oliver lên một chiếc ghế tựa dài chất đầy gối trong phòng bà Bedwin.

Em ngồi trước lò sưởi.

– Bà thật là tốt bụng, thưa bà. – Oliver nói.

– Đừng nói chuyện đó nữa và hãy uống ngay bát canh bác sĩ đã kê cho cháu. ông Brownlow chắc sẽ đến thăm cháu hôm nay và cháu cần phải tươi tỉnh với ông ấy.

Oliver bắt đầu ngắm chăm chú bức chân dung treo trên tường trước mặt em.

– Cháu thích tranh lắm à? – Bà Bedwin hỏi.

– Cháu không biết, cháu hầu như chưa bao giờ thấy chúng. Nhưng gương mặt của bà này có vẻ thật hiền dịu.

– à, họa sĩ biết cách làm đẹp thêm cho phụ nữ. Đấy là nghề của họ.

– Thế bức tranh có giống ai không, thưa bà? -Cậ u bé hỏi.

– Dĩ nhiên, đó là một bức chân dung mà.

– Của ai, thưa bà? – Cậu bé vội vàng hỏi.

– Ta không biết rõ lắm. – Bà vui vẻ đáp. – Một người mà cả cháu và ta đều không biết, ta nghĩ vậy.

“Người này thật đẹp”. Oliver nghĩ.

Em vừa uống xong thìa canh cuối cùng thì có tiếng gõ cửa.

– Mời vào. – Bà nói.

ông Brownlow bước vào và ngắm Oliver rất lâu. Cậu bé cố đứng dậy nhưng lại ngã xuống ghế bành. ông già rất xúc động về điều này.

– Cậu bé đáng thương. – ông ta lặp lại nhiều lần.

– Cháu nó vừa uống hết một bát canh ngon tuyệt đấy. – Bà Bedwin nói.

– Và cốc rượu mùi sẽ khiến cháu khỏe nhanh hơn nữa phải không, Tom White?

– Cháu tên là Oliver Twist, thưa ông. – Cậu bé bị ốm ngạc nhiên nói..- Một cái tên kỳ cục. Tại sao cháu lại khai với thẩm phán cháu tên là Tom White? – ông già nói.
– Cháu không nói vậy, thưa ông. – Oliver ngạc nhiên đáp.

ông Brownlow nghiêm khắc nhìn Oliver, cho rằng em nói dối nhưng ông đọc thấy trên gương mặt em rằng em nói thật.

Bỗng nhiên, mắt ông Brownlow dừng lại trên bức chân dung người đàn bà trẻ mà Oliver đang ngắm. Xúc động khiến ông chao đảo.

– Lạy Chúa! – ông ta kêu lên. – Bà Bedwin này! Tôi thấy gì vậy! Bà hãy nhìn đây!

ông lần lượt chỉ tay lên bức chân dung và gương mặt cậu bé, đấy là bản sao sống động của bức chân dung: mắt ấy, mũi ấy, các nét ấy. Sự giống nhau nổi bật.

Oliver chăm chú nhìn theo những động tác của ông già. Mặt em nhợt nhạt và ngất đi.

Trong khi đó, những anh bạn đồng hành đáng trách của Oliver ra sao?

Láu Cá và Charlot, sau khi ăn cắp chiếc khăn tay của ông Brownlow, đã thấy rõ điều xảy đến với Oliver.

Chúng hùa vào đám đông đuổi theo Oliver và thế là chúng không bị ai chú ý đến. Khi thấy cậu bé bị bắt và người ta lôi em vào đồn cảnh sát, chúng chạy về nhà mình bằng con đường ngắn nhất. Sau khi chạy qua nhiều phố nhỏ chật hẹp, quanh co, chúng dừng chân dưới một mái hiên thấp.

– Thật là một vụ làm ăn kỳ cục! – Bates vừa la lên vừa cười vang.

– Mày cười gì vậy? – Láu Cá hỏi.

– Ha! Ha! Ha! – Thằng kia hét lên.

– Im ngay! – Láu Cá quát. – Mày muốn bị bắt à?

– Tao không làm được. – Charlot nói. – Mày đã thấy thằng Oliver chạy như thế nào rồi đấy, và chúng ta cũng đuổi theo nó với chiếc khăn ăn cắp trong túi… Tao không kìm được, tao phải cười!

Charlot lại ôm bụng cười và nghĩ đến sự rủi ro của Oliver.

– Lão Fagin sẽ nói gì nhỉ? – Láu Cá hỏi. Gã không thể chia sẻ niềm vui của tên tòng phạm.

– Gì cơ? – Thằng kia hỏi.

– Phải, cái gì? – Láu Cá hỏi lần nữa.

– Thế này, lão Fagin có thể nói gì? Tao tự hỏi mình điều đó. ý kiến của mày thế nào?

Láu Cá không trả lời, nó vuốt tóc, nhăn nhó, nhún vai và lao ra sân. Charlot buộc phải chạy theo nó..Trong thời gian đó, lão già Fagin ngồi cạnh đống lửa đối diện chiếc bình thiếc, ăn dồi heo và bánh mì. Nghe thấy tiếng động ở cầu thang, một nụ cười gớm guốc hiện lên trên gương mặt tái mét của lão, và đôi mắt lão long lên dưới cặp lông mày rậm.

Bước chân của Charlot và Láu Cá lại gần và chẳng mấy chốc đã nghe thấy ngay phía đầu cầu thang.

Lão già đặt dao xuống, để lại miếng dồi và chờ đợi.

Khi Charlot và Láu Cá bước vào, lão Do Thái hỏi chúng Oliver đâu.

– Nó đã bị sa vào bẫy chuột rồi. – Láu Cá nói.

Sự giận dữ của lão già Fagin thật là kinh khủng – lão lắc mạnh hai tên ăn cắp trẻ tuổi và ném vào đầu Charlot chiếc bình thiếc đầy bia.

Chính lúc đó một nhân vật mới tên là Guil-laume Sikes bước vào, hắn hỏi ngay nguyên do của sự ồn ào.

Láu Cá thuật lại đầy đủ mọi chi tiết lý do và hoàn cảnh việc Oliver bị bắt giữ.

– Tôi sợ, – lão Do Thái nói, – nó sẽ khai ra và kéo cả lũ chúng ta vào chuyện lôi thôi đây.

– Có khả năng thế đấy. – Sikes trả lời với một nụ cười ranh mãnh. – Thế là ông đã rơi vào một chuyện rắc rối rồi đấy, ông Fagin ạ!

– Nếu tôi bị bắt, hoàn cảnh của ông cũng không khá hơn đâu.

Bằng cách dọa nạt, rồi tán tỉnh, cả bọn khiến Nancy đồng ý đến chỗ Oliver dò hỏi tin tức.

Nancy đến đồn cảnh sát, nơi người ta đã dẫn Oliver đến. Cô đi thẳng đến chỗ viên cảnh sát và khóc nức nở đòi gặp Oliver, cô nói nó là em trai cô.

– Nó không ở đây, cô bé. – Viên cảnh sát nói.

– Thế nó ở đâu? – Nancy hốt hoảng kêu lên.

– ông già đã mang nó đi rồi. – Viên cảnh sát đáp.

– ông nào, ôi trời ơi, ông nào? – Nancy la lên.

Viên cảnh sát thông báo cho người chị tội nghiệp đang khóc sướt mướt rằng Oliver được tòa án tha bổng bởi vì một nhân chứng đã chứng tỏ em vô tội và em được ông khiếu nại mang đi khi đang bất tỉnh. Viên cảnh sát đã nghe thấy ông già nói với người đánh xe ngựa đến Pentonville. Chắc là Oliver đang ở đấy.

Nancy quay trở lại nhà lão Fagin và nói cho đồng bọn biết sự việc. Chúng tranh luận sôi nổi rất lâu.

Trong khi những cách sắp xếp được đưa ra tại nhà của lão Do Thái, Oliver đã dứt cơn sốt. Em quyết tâm sau này sẽ hỏi thêm nhiều chi tiết về bức.chân dung đã mang đến cho em ấn tượng mạnh mẽ đến thế, còn giờ đây em hài lòng được nghe những câu chuyện thú vị mà bà lão đang chăm sóc em kể cho em nghe không mệt mỏi.

Đó là chuỗi ngày hạnh phúc, chuỗi ngày bình phục của Oliver. Em nhận được áo quần mới, mũ lưỡi trai, giày và bà lão Bedwin tốt bụng không ngừng ngây ngất cảm kích trước bộ dạng khỏe khoắn của cậu bé.

Khoảng một tuần sau khi xảy ra câu chuyện về bức chân dung, Oliver được mời đến phòng làm việc của ông Brownlow, ông hỏi em đến từ đâu, ai đã nuôi em, và làm thế nào em quen được những người mà em ở cùng.

Oliver sắp bắt đầu kể chuyện đời mình thì ông bạn của ông Brownlow, ông lão Grinwig xuất hiện.

– Cháu sẽ kể cho chúng ta nghe chuyện đó vào sáng mai, – ông Brownlow nói, – cháu đừng ngạc nhiên về tính cách hơi thô lỗ của ông Grinwig.

Quả vậy, ông này phàn nàn đã nhìn thấy ở cầu thang một miếng vỏ cam nhỏ và suýt nữa ông bị ngã gãy chân…, sau đó ông nhìn thấy cậu bé Oliver.

– Thế nào, cậu đã khỏe chưa, cậu bé? – ông Grinwig nói.

– Cám ơn ông, cháu đỡ nhiều rồi. – Oliver đáp.

– ông nghĩ gì về anh bạn trẻ của tôi. – ông Brownlow hỏi.

– ông đã cứu bộ đồ ăn bằng bạc của mình à?

– ông kia thô bạo đáp. – Tôi dè chừng những thanh niên lêu lổng và ông nên bắt chước tôi, nếu không, tôi báo cho ông biết là ông sẽ chịu đau khổ về chuyện đó.

– Không, – ông Brownlow bình tĩnh đáp, – tôi có những lý do để đặt lòng tin vào cậu bé. Này, ông có muốn chúng ta thử thách cậu ta không? Tôi sẽ giao cho nó một gói sách và một ít tiền để mang đến cho anh bán sách.

– Nó sẽ không quay lại đâu. – ông Grinwig nói.

– Vâng, thưa ông, hãy để cháu mang sách đi. -Oliver nói. – Cháu xin ông, cháu sẽ chỉ chạy đến đó.

ông lão định nói rằng Oliver rất tốt bụng nhưng sau khi suy nghĩ, ông cho rằng tốt hơn là không nên để em ra ngoài một mình, thì lúc đó ông Grinwig khọc khọc ho với vẻ tinh quái. Để chứng minh cho ông bạn già của mình thấy rằng những nghi ngờ của ông là không có cơ sở – ông lão quyết định giao cho cậu bé việc này.

– Cháu sẽ đi, anh bạn ạ. – ông nói với Oliver.

– Những quyển sách ở trên một chiếc ghế tựa, cạnh bàn làm việc của ta. Nào, cháu đi tìm chúng đi. Oliver, hân hoan vì thấy mình có ích, quay lại rất nhanh, sách cắp dưới nách và chờ đợi sẵn sàng ra đi theo lệnh của ông Brownlow.

– Cháu sẽ nói rằng, – ông lão nói, – cháu mang những quyển sách do ta gửi đến và cháu đến trả món nợ của ta. Đây là một tấm ngân phiếu.

– Cám ơn ông, cháu không đi tới mười phút đâu. – Oliver đáp.
Em bỏ tấm ngân phiếu vào túi quần, cài nút áo vét cẩn thận, kính cẩn cúi chào và bước đi.

Bà Bedwin tiễn em ra tận cửa để chỉ cho em con đường ngắn nhất, tên của anh bán sách, tên phố và sau khi nhắc lại nhiều lần rằng cẩn thận kẻo bị sổ mũi, bà già thận trọng cuối cùng cũng để em đi khỏi.

– Cậu bé yêu quý, – bà vừa nói vừa dõi theo cậu bé đang bước dần xa, – ta không muốn để cháu đi như vậy trong thành phố.

Oliver quay lại, vui vẻ ra dấu tạm biệt trước khi biến mất khỏi khúc quẹo của con đường. Bà lão rất vui sướng vì điều đó, hơi lấy lại bình tĩnh, bà khép cửa và bước vào phòng.

– Nào, – ông Brownlow vừa nói vừa lôi đồng hồ ra đặt lên bàn, – nó sẽ về đây trong vòng hai mươi phút nữa, đến lúc đó, trời sẽ tối.

– ông luôn nghĩ rằng nó sẽ quay lại à? – ông Grinwig hỏi.

– Đúng vậy, – ông Brownlow đáp, – còn ông, ông vẫn nghi ngờ sao?

– Vâng, tôi rất nghi ngờ về điều đó. Cậu bé được mặc một bộ áo quần hoàn toàn mới, mang đi những quyển sách có giá trị, nó còn nhận được một tấm ngân phiếu kha khá. Theo ý tôi, nó sẽ gia nhập lại đám bạn trộm cướp và chế giễu ông đấy. Người ta cứ chặt đầu tôi đi nếu nó lại đặt chân về đây!

ông Grinwig tiến lại gần bàn và hai người bạn ngồi im lặng, mắt nhìn chăm chăm chiếc đồng hồ và chờ đợi cậu bé quay lại.

ông Grinwig không phải là người có ác ý, nhưng muốn tỏ ra mình có lý, ông không muốn đứa trẻ quay lại, ngay cả khi điều đó khiến ông bạn Brownlow buồn rầu.

Trong thời gian đó, Oliver Twist đi về phía cửa hàng sách. Em đi nhầm đường và đi vào một phố không được phác họa trong chặng đường đi của mình. Em nhận thấy ngay nhưng không muốn quay lại. Con đường này dù sao cũng dẫn em đến đúng chỗ. Em xét thấy thật vô ích nếu quay lại và em tiếp tục đi nhanh hết mức có thể.

– Mình thật là hạnh phúc, – em nghĩ, – mình đã tìm thấy một gia đình. Mình không mong muốn gì hơn. Mình được bao bọc bởi những con người trung hậu, yêu thương mình. Mình sẽ làm gì đây để họ hài lòng về mình?.Em bị kéo ra khỏi những suy nghĩ mơ màng của mình bằng tiếng kêu to của một cô gái trẻ.

– ôi! Em tôi! Đây là em tôi!

Em vừa ngước mắt lên xem thử điều đó có nghĩa gì thì em đã bị giữ chặt bởi hai cánh tay mạnh mẽ.

– Thả tôi ra! Thả tôi ra! Tôi không có chị! Tôi không biết cô! – Em la lên. Để trả lời, cô gái đang giữ em, chính là Nancy, bắt đầu than thở và rền rĩ:

– ôi! Oliver! Cuối cùng chị cũng tìm thấy em!

Làm thế nào mà em có thể để cho chúng ta rơi vào bao lo âu như vậy? Nhưng mà chị vui mừng đến nỗi không đủ can đảm để trách mắng em. Hãy đi nhanh về nhà! Mọi người sẽ hài lòng như thế nào khi gặp lại em!

Nancy đóng kịch rất giỏi, sau tất cả những lời không mạch lạc thốt lên, cô lại bắt đầu rền rĩ đến độ nhiều người đang chứng kiến cảnh ấy cho rằng cô sắp bị ốm.

– Cô ấy sắp ngất xỉu mất. – Một bà nói.

– Có nên gọi một bác sĩ chăng? – Một người khác thêm vào.

– Đừng, – anh bán thịt nói, – không có gì gấp gáp lắm đâu. Tôi biết điều ấy mà, một phút nữa, sẽ ổn thôi.

– Cám ơn, – Nancy nói, – tôi đã thấy khá hơn rồi, không cần thiết phải phiền một bác sĩ đâu. Tôi sẽ về nhà với em trai mình. Nào, đi thôi, cậu bé hỗn láo!

– Chuyện gì xảy ra với em cô vậy? – Một phụ nữ hỏi.

– Bà hãy hình dung xem nó trốn khỏi nhà, cách đây đúng một tháng để đến sống với một băng kẻ cắp. Bà có hiểu được nỗi đau khổ của bố mẹ nó, những người thợ trung hậu. Mẹ nó suýt chết vì buồn phiền.

– Một cậu con trai hư đốn! – Bà ta nói.

– Thật khốn khổ. – Người khác đệm thêm.

– Mọi người nhầm rồi, đấy không phải là tôi.

– Oliver run rẩy nói. – Tôi không hề có chị gái lẫn bố mẹ. Tôi mồ côi, người ta đã nhận nuôi tôi. Để cho tôi quay về nhà mình!

– Thật trơ tráo! – Nancy kêu lên.

– Nancy, – Oliver nói, – chị biết rõ là tôi không hề bịa gì cả.

– Mọi người thấy rõ là nó biết tôi, phải không?

– Nancy vừa nói vừa quay lại với những người đứng xem. Có ai có lòng tốt giúp tôi đưa nó về nhà không? Nếu nó còn trốn đi lần nữa, nó sẽ là nguyên nhân cái chết của bố nó, mẹ nó và sẽ khiến tôi tuyệt vọng..Lúc đó, một người đàn ông dẫn theo con chó bước ra khỏi quán rượu và tiến đến đám đông. Đó là Guillaume Sikes, người đã chứng kiến cảnh đó từ nãy và đợi lúc can thiệp vào.

– Có chuyện gì ở đây vậy? Nào nào, – hắn kêu lên, – cậu bé Oliver! Cháu có muốn về nhà không, về với bà mẹ đáng thương của cháu, cậu bé hư hỏng!

– Cứu tôi với! Cứu với! Tôi không quen các người! Thả tôi ra! Cứu tôi với!

Nhưng cậu bé uổng công chống cự, Guillaume Sikes giữ chặt lấy em để em không thoát khỏi sự ghì chặt của hắn.

– Cứu tôi với, mày dám kêu cứu à? Chính tao đến cứu giúp Nancy, nhóc con bịp bợm! Mày cầm cái gì kia? Chắc là sách mày lấy cắp được phải không? Đưa chúng cho tao!
Dứt lời, hắn lôi tuột những quyển sách cậu bé đang cầm và đánh em lên đầu dữ dội.

– Phải làm vậy. – Một người đứng xem nói. -Đ ây là một biện pháp tốt để dạy những đứa trẻ nổi loạn.

– Đúng vậy. – Một anh chàng thợ mộc to con vụng về thêm vào. – Không có biện pháp mạnh, chẳng làm gì được.

– Điều đó tốt cho nó. – Các bà nói – Nó chỉ còn cách vâng lời.

– Đúng quá rồi!- Sikes nói và bắt đầu đánh cậu bé Oliver khốn khổ. – Nào, giờ thì đi đi, đồ vô lại, đồ du thủ du thực.

Hoàn toàn choáng váng vì những cú đánh, kinh hoàng trước sự tàn bạo của người đàn ông, bị đe dọa bởi con chó không ngừng nhe nanh ra, run sợ nhất là chắc chắn không một ai giúp mình, Oliver cảm thấy suy sụp. Cậu bé tội nghiệp có thể làm gì đây? Giờ đây, màn đêm đã buông xuống, khu phố trở nên vắng tanh. Mọi sự chống cự là vô ích.

Em bị lôi vào trong một mê cung những đường phố tối tăm, chật chội. Em còn cất lên vài tiếng kêu la, do lại bị ăn đòn, sau đó, kiệt sức vì mệt mỏi, sợ hãi và xúc động, em bị buông trôi theo số phận đáng buồn của mình.

Khắp thành phố, những ngọn đèn khí đã thắp lên. Bà Bedwin lo lắng chờ đợi trước cửa ngôi nhà.

Hai mươi lần, bà tưởng chừng như trông thấy Oliver.

Trong phòng làm việc tối om, hai ông già khăng khăng chờ đợi. Và người ta chỉ nghe thấy tiếng tíc-tắc của chiếc đồng hồ.

Sikes, Nancy và Oliver bước chậm lại khi đến một khoảnh đất hình tròn dùng làm nơi buôn bán gia súc.

– Cầm lấy tay Nancy! – Sikes thô bạo ra lệnh cho Oliver và đưa tay kia cho tao. Nếu mày kêu.lên một tiếng, con chó này sẽ nhảy lên cổ họng mày. Tao nghĩ rằng mày đã hiểu.

Oliver đã hiểu rất rõ. Họ đang ở một chỗ hẻo lánh, xa tất cả những người khách qua đường, sự chống cự là không thể được.

Họ đi bộ trong vòng nửa giờ qua những phố bẩn thỉu và ít người qua lại, sau đó dừng lại trước một cửa hậu khép kín, bề ngoài như bị bỏ hoang.

Nancy bấm chuông. Cánh cửa mở nhẹ nhàng.

– Lão già có ở đây không? – Sikes hỏi.

– Có, – tiếng nói đáp lại, – ông ta sẽ vui mừng khi gặp các bạn. Lão sốt ruột chờ các bạn đấy. Láu Cá dẫn cả bọn vào trong một căn phòng thấp, nơi lão Fagin ngồi cùng đồng bọn.

– Vui mừng được gặp lại anh bạn. – Lão Do Thái nói.

– Hãy gửi trả lại sách và tiền cho ông già. -Oliver nói. – ông ta sẽ cho rằng cháu là một kẻ ăn cắp, cháu xin ông.

Những lời nói này được đón nhận bằng những nụ cười mỉa. Oliver định chạy trốn nhưng nhanh chóng bị tóm lại.

Để em mất hẳn ý muốn bỏ trốn, lão Fagin quyết định cho em vài gậy. Lão nện mạnh một gậy xuống vai Oliver và khi lão giơ lên để lại bắt đầu thì Nancy lao vào lão, giằng lấy cây gậy.

– Tôi không muốn các người làm đứa trẻ này đau.

– Bình tĩnh nào, – Sikes nói, – chẳng lẽ em lại trở thành bạn của thằng nhóc vô lại này ư?

– Đúng vậy, và tôi lấy làm tiếc đã giao nó cho các người. Các người đã khiến tôi trở thành một con ăn cắp và các người cũng muốn làm vậy với đứa trẻ này à.

Cả bọn khiến Nancy câm miệng và chúng lột áo quần đẹp khỏi người Oliver.

Sau bao hạnh phúc, Oliver lại một lần nữa chìm đắm trong nỗi đau khổ tuyệt vọng..


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.