Oliver Twist
Chương 2
Khi mặt trời vừa ló, Oliver dậy và kéo chốt cửa. Em lưỡng lự giây lát. Ra đi ư? Đúng vậy, cuộc sống quá cực nhọc. Em sẽ đi đâu bây giờ? Rẽ phải hay rẽ trái? Em nhớ lại đã từng thấy những xe chở hàng bốn bánh leo lên đồi khi chúng ra khỏi thành phố. Em đi theo hướng ấy và chẳng mấy chốc đến một lối mòn nhỏ xuyên qua cánh đồng. Em biết rằng lối mòn này, đi một chút sẽ dẫn ra đường cái.
Em bước lên đường cái.
Cột mốc nơi em ngồi nghỉ chân chỉ rõ rằng Luân Đôn cách đó tám mươi cây số. Tại sao em lại không thử vận may ở thủ đô nhỉ? ở nơi đó ít ra em cũng được an toàn. Không ai, ngay cả ông Bumble có thể phát hiện ra em. Khi còn ở Trại tế bần, mọi người đã từng nói với em về Luân Đôn, người ta đã khẳng định với em rằng trong thành phố này có rất nhiều cơ hội để kiếm tiền.
Không có gì phải lưỡng lự nữa, đó là nơi em phải đến. Em đứng dậy, lòng tràn đầy dũng cảm..Em lại nhanh nhẹn lên đường, nhưng em không tưởng tượng được tất cả những gì em phải chịu đựng trước khi đạt được mục đích của chuyến du hành.
Trong túi đồ của mình, em có một mẩu bánh mì, một chiếc áo sơ mi cũ, hai đôi tất và một ít tiền mà một ngày nọ, sau một đám tang em đã nhận được.
Oliver bước nhanh chân. Những cây số này tiếp nối những cây số khác nhưng thành phố lớn vẫn còn rất xa. Đôi khi, Oliver đói và khát, lúc đó em nhấm nháp một mẩu bánh mì và hỏi xin một cốc nước ở những túp lều tranh bên đường.
Bàn chân em bắt đầu sưng phồng lên và đôi khi bắp chân yếu ớt đến nỗi chúng trở nên run rẩy.
Đêm xuống, em vào một đồng cỏ và thu mình dưới chân một đụn cỏ khô. Cơn gió buồn rầu, rít trên cánh đồng vắng vẻ khiến em hơi sợ nhưng em thiếp đi nhanh chóng và vì thế quên đi những khó nhọc của mình.
Sáng dậy, em cảm thấy lạnh cóng cả người. Đến ngôi làng đầu tiên, em mua bánh mì. Hôm đó em chỉ đi được vài cây số và khi màn đêm bao phủ, đôi bàn chân em rướm máu.
Một đêm nữa trôi qua ngoài trời, thời tiết lạnh và ẩm ướt cuối cùng làm em kiệt sức. Em lê bước tiến lên.
Gặp một nhà trọ, Oliver nhìn mọi người qua lại một cách rất thảm hại cho tới khi ông chủ ra lệnh cho đầy tớ của mình đuổi thằng bé khốn cùng này đi. Nơi khác, người ta dọa thả chó ra đuổi em hoặc dọa giao em cho chính quyền địa phương.
Điều đó đủ làm em chạy trốn thật nhanh.
Em lại tiếp tục lên đường và hỏi xin một chút bánh mì ở những nơi có thể, vì ở nhiều cổng làng, em kinh hãi đọc những biển thông báo rằng người nào đi ăn xin sẽ bị giam vào ngục.
Em còn phải ngủ nhiều lần nữa ngoài trời, và sức em bắt đầu cạn kiệt nghiêm trọng. Chắc chắn rằng nếu không có lòng tốt của một người gác chắn đường và một bà già thì những nỗi đau khổ của Oliver đã bị rút ngắn lại như bà mẹ đáng thương của em. Em tới một thành phố nhỏ tên là Barnet.
Oliver Twist, người đầy bụi, ngồi bệt xuống những bậc thềm lạnh lẽo như một kẻ ăn mày. Chính lúc đó, em làm quen được với một nhân vật lạ lùng đang thích thú quan sát em.
Anh thanh niên tiến đến gần em và hỏi:
– Chuyện gì xảy ra với em vậy?
– Em đói, em lạnh, em đã đi bộ bảy ngày trời.
– À, – chàng thanh niên nói, – cảnh sát đang đuổi theo em à? Em vừa vượt ngục chăng? Không ư! Tốt! Anh sẽ cho em ăn uống sau đó chúng ta sẽ.cùng nhau đến Luân Đôn. Anh có quen một ông già có thể sẽ vui lòng cho em trú ngụ.
Oliver biết tên người bạn mới của mình là Jack Dawson và tên thân mật là gã Láu Cá. Họ đi đến Luân Đôn. Jack dẫn em qua nhiều khu phố bẩn thỉu, nghèo khổ, đầy trẻ con đang thi nhau la hét.
Oliver tự hỏi liệu có nên chuồn đi không. Cuối cùng họ đến trước một cánh cửa, gã Láu Cá đẩy ra sau khi đã huýt sáo.
– Ai đấy? – Tiếng ai đó cất lên từ phía trong.
– Tôi mang đến một thành viên mới đây. – Jack cầm tay Oliver trả lời.
Oliver được đưa vào trong túp lều rách, và được giới thiệu với một ông già Do Thái da nhăn nheo tên là Fagin, lão bèn vừa cười vừa nhăn nhó điệu bộ.
– Chào mừng anh bạn mới đến. Hãy nhìn xung quanh mình xem.
Oliver ngạc nhiên nhận ra năm hay sáu nam nữ thanh niên trạc tuổi gã Láu Cá đang uống rượu, hút thuốc và trên một sợi dây có nhiều khăn choàng.
Tất cả những cái đó có nghĩa gì nhỉ?
Lão già Do Thái nét mặt gớm guốc cho Oliver ăn và mang cho em một cốc rượu đỗ tùng. Kiệt sức vì mệt mỏi và xúc động, em nhanh chóng thiếp đi.
Sáng hôm sau, tỉnh dậy, qua mi mắt khép hờ em thấy chỉ có một mình lão Do Thái. Lão đi lại trong phòng, thỉnh thoảng lại liếc mắt nhìn về cái giường tồi tàn nơi em đang nằm. Oliver không động đậy vờ như đang ngủ.
Lão già, yên tâm bởi sự bất động của cậu bé, lôi ra từ sau một cánh cửa kéo trên trần nhà một chiếc hộp nhỏ rồi đặt rất cẩn thận lên bàn.
Hộp đựng chiếc đồng hồ vàng rất đẹp, lão già Do Thái bắt đầu ngắm nghía, sau đó lão lại nhìn những chiếc đồng hồ khác và nhiều đồ trang sức cùng với một vẻ sung sướng hân hoan như vậy.
Chợt, lão nhận thấy Oliver đang quan sát mình.
Lão đóng vội chiếc hộp, vớ lấy một con dao và la lên:
– Mày đã nhìn thấy tao! Tao sẽ giết mày! Mày đã trông thấy tao! Đó là kho báu của tao!
Lão già Do Thái giận dữ đứng dậy, lão run đến nỗi đứa trẻ có thể nhìn thấy lưỡi dao chao đảo.
– Tại sao mày lại rình mò tao, đồ súc sinh vô lại? Tại sao lại quan sát tao thay vì ngon giấc như người ta ra lệnh cho mày? Mày nói ngay cho tao biết mày đã trông thấy gì?… Nào, nói đi, mày đã thấy gì? Nói nhanh và không được nói dối! Hãy nghĩ rằng cuộc sống của mày đang gặp nguy hiểm đấy!
– Lẽ ra cháu muốn ngủ lâu hơn, – Oliver bình tĩnh nói, – nhưng cháu không thể ngủ được nữa.
Cháu không hề có ý không vâng lời ông. Cháu xin.ông tha lỗi nếu cháu đã gây cho ông một tổn hại nào đó.
– Được rồi, được rồi. – Lão Fagin vừa nói vừa bình tĩnh hơn một chút. – Ta tin cháu.
– Cám ơn ông.
– Và may cho cháu đó. – Lão già độc ác vừa tiếp lời vừa nghịch con dao. – Bình tĩnh nào, cháu thấy rõ ta chỉ muốn làm cháu sợ mà thôi. Ta đã muốn thử thách cháu, cháu hiểu chứ, ta muốn xem xét lòng dũng cảm của cháu. Và ta khen ngợi cháu, cháu thật can đảm, anh bạn nhỏ, cháu thật dũng cảm, Oliver ạ! Chúng ta chờ đợi nhiều ở cháu!
Vừa nói, lão Fagin vừa đặt con dao lên bàn, rồi xoa tay, nhưng lão không để chiếc hộp đựng kho báu của lão lọt khỏi tầm nhìn và thỉnh thoảng lại liếc nó với ánh mắt lo âu.
– Nói cho ta biết, – lão Do Thái vừa nói vừa tiến gần cậu bé, – cháu đã thấy cái gì đó phải không, cháu đã thấy những cái ta có trong hộp chứ? Bây giờ cháu có thể nói mà không hề sợ sệt cháu đã nhìn thấy của cải của ta phải không?
– Vâng, thưa ông. – Oliver thành thật nói khi thấy cơn lôi đình của lão già đã hạ xuống.
– à, cháu đã thấy kho báu của ta… Hãy nghe đây Oliver, tất cả những thứ đó thuộc về ta, đó là của cải của ta. Ta chỉ có ít của để dành này để sống khi ta quá già nua. Ta sẽ chỉ có nó mà thôi khi ta không thể làm việc được nữa.
Oliver nghĩ rằng lão Fagin phải rất hà tiện mới sống trong một căn nhà ổ chuột như vậy khi lão có một gia tài như thế.
– Dậy thôi! – Lão Fagin nói, nhấc hũ nước nằm sau cánh cửa. – Ta sẽ đưa cho cháu một cái chậu để cháu rửa mặt.
Đứa trẻ vâng lời. Khi em quay lại chỗ lão già, em thấy chiếc hộp đã được cất đi.
Oliver rửa mặt cẩn thận và sắp xếp mọi thứ trật tự như lão Fagin bảo, lão còn ra lệnh cho em hắt hết nước trong chậu qua cửa sổ.
Một lát sau, Láu Cá quay về nhà với một thanh niên mà Oliver đã thoáng nhìn thấy và người ta giới thiệu với em anh chàng này tên là Charlot Bates. Mọi người ngồi vào bàn ăn và Oliver không hề làm khách, bữa ăn gồm cà phê và bánh mì nóng.
Em ngạc nhiên nhận thấy rằng Láu Cá đã mang về thịt giăm bông cất trong đáy mũ.
– Ta rất hài lòng được trông thấy các cháu. -lã o Fagin nói với Charlot và Láu Cá. – Ta đã không nói dối khi khẳng định rằng sáng nay các cháu đã làm việc tốt. Chắc là các cháu đã làm việc chứ?
– Dĩ nhiên, – Láu Cá trả lời, – và làm thật đẹp.
– Vâng, một công việc khó khăn! – Charlot thêm vào..- Nào, hãy nói đi! Các cháu có gì đưa cho ta nào?
– Hai cái ví. – Láu Cá tự hào trả lời.
– Rất nặng chứ? – lão Do Thái hỏi.
– Vâng, vâng, cháu xem chúng có vẻ dày cộm đấy. – Láu Cá nói và lôi chúng ra khỏi túi của mình.
– Chuyện này có thể tốt hơn. – lão già Do Thái nhận xét sau khi đã xem xét hai cái ví. – Nhưng cũng có thể tồi hơn. Ví chỉ mới được sử dụng và người sản xuất ra chúng là một anh thợ tốt, đã dùng những vật liệu cực kỳ. Phải không, Oliver?
– Vâng, thưa ông. – Oliver đáp.
Những lời nói của cậu bé tỏ ra ngây thơ đến nỗi Charlot ôm bụng bật cười.
– Khá ồn đấy, – lão già nói, – Charlot, còn cháu mang về cái gì thế?
– Bốn chiếc khăn tay. – Chàng thanh niên trả lời.
– Đưa chúng đây. – Lão Do Thái nói và xem xét chúng cẩn thận. – Chúng đẹp đấy, nhưng cần phải dùng kim tháo “mác” ra. Đó là một công việc cần thiết mà Oliver có thể làm được. Chúng ta sẽ chỉ cho nó cách làm như thế nào. Phải không Oliver? Công việc này sẽ làm cháu hài lòng, anh bạn của ta. Chúng ta đồng ý chứ?
– Vâng, thưa ông, cháu sẽ vâng lệnh ông. – Cậu bé nhẹ nhàng trả lời.
– Ta chắc là, – lão Do Thái nói tiếp, – cháu sẽ tự hào được làm việc như Charlot Bates và mang về những chiếc khăn tay. Nào, trả lời đi!
– Cháu sẽ cố gắng hết sức, nếu ông cho cháu những lời khuyên và chỉ bảo cho cháu. – Oliver nói.
Câu trả lời của cậu bé có vẻ thú vị đến độ Charlot phá lên cười một lần nữa và hắn suýt sặc khi nuốt ngụm cà phê.
– Xin lỗi. – Hắn nói với cả bọn. – Tôi đã không thể nhịn được, tôi chưa bao giờ thấy một đứa trẻ nào ngây thơ đến như vậy!
Láu Cá không nói một lời nào, gã chỉ lùa tay vào tóc Oliver, làm nó bù xù lên và xõa xuống mắt em.
– Nó sẽ nhanh biết thôi. – Charlot tiếp lời.
– Hãy chuyển sang những chuyện nghiêm túc.
– Lão Fagin vừa nói vừa chuẩn bị những việc rất kích thích sự tò mò của cậu bé Oliver.
Lão già Do Thái dường như sửa soạn chơi với hai anh chàng thanh niên. Lão để một hộp đựng thuốc rê vào trong một túi quần một quyển sổ vào túi kia. Một chiếc đồng hồ lớn được đặt trong túi con ở quần có đính dây xích an toàn chắc chắn; áo sơ mi của lão được tô điểm thêm bởi một cái kẹp ánh lên như vàng. Fagin cài cúc áo lên tít cao và không quên bỏ vào túi áo vét cái hộp kính và chiếc.khăn tay. Sau đấy, lão bắt đầu đi lại quanh phòng với bộ dạng những quý ông đang dạo mát trên đại lộ.
Cứ như thế lão già Do Thái đóng kịch và Char-lot theo dõi cả những cử chỉ nhỏ nhất của lão với sự chú ý cao độ. Lão già cầm cây gậy chống và bước đi đường hoàng như một người đàn ông lương thiện đang vui sống. Lão đi dọc, đi ngang, dừng lại trước lò sưởi, sau đó lại tiếp tục dạo quanh phòng và dừng lại trước cửa. Lão cúi xuống như thể đang ngắm nghía những gian hàng lộng lẫy.
Oliver không rời mắt khỏi lão. Đôi khi, lão già Fagin nhìn quanh như thể lão sợ kẻ trộm. Lão sờ túi như sợ mất cái gì đó và cử chỉ của lão rất buồn cười, dáng vẻ của lão tỏ ra hài hước đến nỗi Oliver cười chảy cả nước mắt và cậu bé tự hỏi trò chơi vui nhộn này sẽ kết thúc như thế nào. Cậu sẽ biết ngay thôi.
Charlot và Láu Cá theo sau người đi dạo, chúng cũng tiến một bước khi người này tiến và cố gắng lại gần người đó hết mức có thể. Nhưng lão già không để mình mắc bẫy, lão đột ngột quay lại và hai anh chàng này lẩn đi, nhanh chóng đến kinh ngạc.
Trò chơi còn tiếp tục một lát nữa, sau đó, lão Fagin bị chặn trước, chặn sau, một anh giẫm lên chân lão, anh kia xô lão và tất cả những gì lão Do Thái mang theo: khăn tay, hộp kính, cái kẹp sáng lấp lánh, hộp đựng thuốc rê, sổ, đồng hồ… bị tước mất khỏi lão như một phép kỳ diệu.
Trò chơi lại bắt đầu. Khi lão già cảm thấy một bàn tay đang thò vào một trong những chiếc túi của mình, lão nói luôn. Thế là, trò chơi dừng và tất cả bắt đầu lại. Lão Fagin tiếp tục dạo quanh và hai anh bạn không ngừng theo sát lão và lột những gì mà lão có.
Oliver vui đùa như điên rồ và ngầm thích thú với ý định một ngày nào đó có thể bắt chước Char-lot và Láu Cá.
Một lát sau, có hai người đàn bà trẻ tuổi tên là Betty và Nancy đến. Oliver nhận thấy ngay rằng giày của họ ít được lau chùi cẩn thận và áo váy của họ đáng ra nên chữa lại. Hai cô mới đến này không đẹp nhưng họ ngẩng cao đầu và có vẻ trâng tráo.
Dường như không có gì làm họ hoảng sợ. Cả hai cô nói cùng một lúc và cung cách của họ làm
Oliver thích thú, em tự nhủ:
– Các cô này có vẻ dễ thương.
Cuộc viếng thăm kéo dài và các cô nói rằng dạ dày của họ đã đóng băng. Ngay lập tức, rượu mùi được mang ra và cuộc nói chuyện càng lúc càng trở nên sôi nổi. Đến một lúc, Charlot tuyên bố:
– Các bạn, đến giờ vận dụng cặp giò rồi! Oliver không hiểu ngay ý nghĩa của câu nói nhưng sau đó, khi nhìn thấy hai chàng này đi ra cùng với hai cô, em biết rằng “vận dụng cặp giò” nghĩa là “đi ra ngoài”. Oliver thấy lão Do Thái đưa cho các cô cậu này ít tiền, chắc là để họ có thể giải trí chút đỉnh trên đường, như một ông bố cư xử với con cái.
– Thế nào? Anh bạn thấy ra sao? – Lão Fagin hỏi khi còn lại một mình với cậu bé Oliver. – Đó là một cách sống làm nhiều người thích thú. Hãy nghĩ rằng họ được tự do đi đâu tùy thích. Điều đó không cám dỗ cháu ư?
– Thế họ đã làm xong công việc của mình rồi ạ? – Oliver hỏi.
– Dĩ nhiên. – Lão Do Thái trả lời. – Nhưng có thể từ giờ đến tối, chúng tìm thấy điều gì đó để làm. Cháu hiểu rằng chúng sẽ không để lỡ cơ hội.
Ta khuyên cháu hãy theo gương chúng. Hãy bắt chước chúng, xin chúng lời khuyên, cháu sẽ không thiệt đâu.
Vừa nói, lão già vừa nhen lại lửa và những nhát xẻng lão giáng xuống là tăng thêm sức mạnh cho lời lẽ của lão.
– Hãy nghe đây, Oliver! – Lão tiếp lời. – Hãy làm những gì chúng sẽ nói với cháu, đừng cằn nhằn khi chúng ra cho cháu một mệnh lệnh. Luôn để mắt đến Láu Cá, nó quả là có tài và nó sẽ trở thành một vĩ nhân. Nếu cháu theo gương nó, cháu có thể chắc chắn rằng tương lai của mình được bảo đảm và cháu sẽ không bao giờ đói.
– Liệu cháu có học được cách chơi như lúc nãy ông đã làm không ạ? – Oliver ngây thơ hỏi.
– ồ, có chứ! – Lão Fagin vừa nói vừa mỉm cười.
– Hãy nhìn xem, khăn tay của ta lòi ra khỏi túi một chút, cháu có thấy không?
– Có, thưa ông.
– Thế thì này, để làm tốt, cần phải lấy nó mà ta không hề nhận thấy… như những đứa khác đã làm sáng nay. Cháu đã quan sát chúng khá kỹ. Nào hãy thử xem.
Oliver làm hết sức mình, em cố gắng làm hài lòng lão già và xoáy được chiếc khăn tay khá khéo léo như em đã thấy Láu Cá và Charlot làm.
– Được chưa cháu? – Lão Fagin hỏi.
– Khăn tay đây! – Cậu bé tự hào trả lời.
– Ta khen ngợi cháu Oliver, hiếm khi ta thấy kẻ nào khéo léo như cháu. Này, ta thưởng cho cháu một đồng xu. Nếu cháu tiếp tục, cháu cũng trở thành một vĩ nhân. Bây giờ, hãy lại gần ta, ta sẽ dạy thêm cho cháu một bài học nữa. Cháu sẽ biết tháo nhãn những chiếc khăn tay ngay thôi.
Oliver đã không hiểu được rằng ăn cắp là công việc duy nhất của lão Fagin và đồng bọn. Em ngạc.nhiên tự hỏi làm thế nào có thể trở nên nổi tiếng chỉ bằng cách nẫng nhẹ những chiếc khăn tay.
– Này! – Lão già Do Thái kêu lên. – Đừng ngồi ì ra không làm gì, đến đây, đây là những chiếc khăn tay, hãy nhìn xem làm thế nào ta bỏ đi nhãn mác của chúng và hãy khéo léo bắt chước ta hết mức có thể.
Lão Do Thái giam giữ Oliver trong nhiều ngày.
Lão cấm em ra ngoài và luôn theo sát em từ sáng đến tối. Những chiếc khăn tay đổ dồn vào nhà lão già và Oliver không có một phút nào rảnh rỗi nếu em muốn tháo nhãn tất cả những chiếc khăn. Đôi khi, em cũng có vài phút nghỉ ngơi khi lão Fagin, Charlot và Láu Cá lao vào trò chơi mà chúng tôi đã miêu tả ở trên. Mỗi buổi sáng, lão Do Thái lại đi dạo quanh phòng và hai anh chàng cố gắng lấy gọn nhiều thứ chất đầy túi lão. Sự khéo léo của các anh chàng này khiến Oliver thích thú ngưỡng mộ.
Sau một thời gian, cậu bé thấy đau khổ vì bị giam giữ, em bắt đầu thèm khí trời và nhiều lần em xin phép lão già Fagin cho ra ngoài và đi làm như hai anh bạn đồng hành của mình.
Oliver càng muốn được sử dụng một cách hiệu quả hơn vì em có thể thấy sự nghiêm khắc của lão già. Mỗi lần, Láu Cá và Charlot trở về tay không vào buổi tối, lão lại nói dài dòng về tính chất có hại của sự lười biếng. Lão cho các anh chàng thấy sự cần thiết của một cuộc sống năng động bằng cách bắt các anh đi ngủ không ăn tối. Thậm chí, lão còn đi đến mức đẩy các anh ngã xuống cả một loạt bậc thang. Oliver muốn tỏ ra có ích đối với một ông chủ khó tính đến như vậy.
Cuối cùng, vào một buổi sáng, lão Fagin gọi cậu bé Oliver đến.
– Thằng bé nghịch ngợm, hãy lại đây, ta báo cho cháu một tin trọng đại.
– Cháu xin nghe, thưa ông.
– Hôm nay, ta cho phép cháu ra ngoài. Ta hy vọng cháu sẽ xứng đáng với những bài học và lời khuyên mà ta đã cho cháu. Ta đặt cháu dưới sự trông chừng của Charlot và Láu Cá. Cháu biết giá trị của chúng mà. Hãy vâng lệnh chúng và cố gắng hết sức để bắt chước chúng..
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.