Oliver Twist

Chương 7



Điều gì đã xảy ra khi Guillaume Sikes vừa chạy trốn vừa mang theo cậu bé Oliver đáng thương?

Giữa sương mù và bóng tối bao phủ, Sikes nghe thấy tiếng những người đuổi theo mình: không chỉ tiếng những người nông dân mà còn có tiếng chó sủa giận dữ.

Tobie ở cách đấy không xa. Guillaume nghe thấy nó la lên:

– Mạnh ai nấy chạy, Guillaume! Thả thằng bé lại và chuồn thôi!

Sikes thả thằng bé vào trong một cái hố, chạy dọc hàng rào, như để đánh lạc hướng những người đuổi theo, nó dừng lại một lát trước một hàng rào khác vuông góc với hàng rào đầu tiên, xả súng chỉ thiên và sau đó vắt chân lên cổ chạy.

Lúc đó, một tiếng nói cất lên gọi những con chó lại, những chú chó không tỏ ra hào hứng mấy trong việc đuổi bắt những tên trộm, chạy ngay về phía những ông chủ đã dừng lại trên cánh đồng để tranh luận.

– Chúng đã nổ súng! – Một người nói.

– Theo ý tôi thì tốt hơn chúng ta nên quay về nhà. – Anh chàng đô con nhất tên Giles nói.

– Anh Giles có lý đấy. – Người thứ ba đang run lên vì sợ tiếp lời. – Anh Giles biết những gì chúng ta phải làm.

– Anh sợ đấy à, Brittles? – Giles hỏi.

– Không, không đâu, không chút nào…

– Có đấy… – Giles nhấn mạnh.

– Tôi nói với anh là không phải mà.

– Chính anh đang nói dối đấy chứ, Brittles! -Giles nói tiếp.

– Thực tế, – anh thứ ba kết luận, – tất cả chúng ta đều sợ.

– Đúng đấy. – Anh đầu tiên nói.

– Không có gì phải xấu hổ khi sợ hãi trong những tình huống như vậy. – Giles nhận xét.

Và cả ba cùng quay đầu lại và chạy thật nhanh đến mức mà Giles, đang cầm cây đinh ba, phải yêu cầu dừng lại một lát để lấy lại hơi.

Sau đó, họ tiến đến một gốc cây nơi họ để lại cây đèn. Họ vội vã thổi tắt ngọn đèn, sợ rằng.ánh sáng chỉ dẫn cho những tên trộm điểm cần nổ súng.

Ngay sau đó, làng quê lại trở nên im ắng và vắng vẻ. Một làn mưa nhỏ bắt đầu rơi nhưng Oliver không hề cảm nhận thấy. Em nằm sóng soài trên nền đất ướt.
Khi trời sáng, một tiếng kêu đau đớn, yếu ớt phá tan sự im lặng. Oliver tỉnh lại. Cánh tay trái của em được băng bó qua loa trong chiếc khăn san thấm đầy máu lủng lẳng bên cạnh em. Em khó nhọc đứng dậy, tiến bước vô định, chẳng biết mình đang đi đâu.

Em đến một con đường và nhìn thấy không xa một ngôi nhà và em lê bước đến đó.

Vừa tiến lại gần, em vừa có cảm giác mơ hồ rằng mình đã thấy ngôi nhà này và em ngạc nhiên xiết bao khi nhận ra chính là nơi mà những tên cướp đã định ăn trộm. Em muốn bỏ chạy nhưng không còn đủ sức. Em chỉ có thể đẩy cánh cửa khu vườn, bước lên các bậc tam cấp và gõ nhè nhẹ vào cánh cửa.

Lúc đó, hai anh hầu, Giles và Brittles và anh bán chảo cùng đi với họ đang ngồi uống chè và ăn bánh ngọt để lấy lại sức sau những mệt mỏi hồi đêm. Họ kể cho nhau nghe những gì mình đã làm, đã nhìn thấy và nghe thấy. Cô làm bếp và cô hầu phòng vừa lắng nghe, vừa rùng mình.

Đột nhiên, Giles kêu lên:

– Có ai gõ cửa.

Tất cả mọi người đều tái mặt đi. Cuối cùng, cả nhóm, dẫn theo chó, tiến về phía cửa và phát hiện thấy cậu bé bị thương.

– Chúng ta tóm được nó rồi! – Giles kêu lên.

– Đó là một trong những tên ăn trộm! Chính tôi đã bắn nó!

– Có chuyện gì vậy? – Một giọng nữ cất lên từ phía đầu cầu thang. – Các người lại làm khuấy động dì của ta, người chỉ vừa mới bớt xúc động.

Giles giải thích cho cô chủ trẻ tuổi những gì đang diễn ra.

– ồ, hãy đối xử tốt với nó. – Cô nói. – Giles, hãy bế nó cẩn thận vào phòng anh và Brittles, đi tìm ngay bác sĩ Losberne và báo cho các nhà chức trách.

Bác sĩ Losberne nhanh chóng đến ngay. ông kính cẩn chào bà lão Maylie, chủ ngôi nhà và cô Rose xinh đẹp mà bà xem như cháu gái, sau đó, ông chăm sóc vết thương cho cậu bé.

Sau khi ông làm xong, Oliver thiếp đi. Rose, bước nhẹ đến ngồi ở cạnh giường cậu bé, vén những.sợi tóc đang lòa xòa trên gương mặt em và để rơi vài giọt nước mắt lên trán em.

Oliver rùng mình trong giấc mơ. Bà Maylie và cô cháu gái không thể tin được cậu bé này là đồng bọn với những tên trộm.

– Cần phải làm gì với nó nhỉ? – Họ hỏi ông bác sĩ. – Hãy khuyên chúng tôi đi!

ông bác sĩ tuyên bố là cần phải hỏi cậu bé khi nó thức dậy nhưng trước hết, nó cần phải lấy lại sức đã.

Oliver ngủ trong nhiều giờ và khi tỉnh giấc, em kể cho hai người phụ nữ đang xúc động đến rơi lệ và ông bác sĩ đang vụng về giấu đi cảm xúc của mình, nỗi thống khổ mà em phải chịu kể từ khi chào đời. Em không giấu gì, kể cả sự bất hạnh và đau khổ mà những kẻ độc ác đã khiến em phải chịu đựng.
Khi Oliver đã phân trần xong, và em lại thiếp đi, ông bác sĩ lau nước mắt, tuyên bố cần phải làm tất cả để cứu Oliver, không nên tố cáo em là đồng bọn của bọn trộm cướp.

Ông bác sĩ đi xuống bếp, nơi mà những sự kiện tối qua vẫn còn là chủ đề trong mọi cuộc trò chuyện. Giles hào hứng nói về sự nhanh trí của mình và Brittles, cốc bia cầm tay cũng phụ họa theo.

– Các anh đừng bận tâm nữa. – ông bác sĩ nói và khoát tay ra hiệu.

– Kẻ bị thương nay ra sao rồi? – Giles hỏi.

– Không khỏe lắm. – ông bác sĩ đáp. – Tôi sợ rằng anh sẽ bị vướng vào một vụ đáng bực đấy, anh Giles ạ.

– Tôi hy vọng, thưa ông, rằng nó sẽ không chết.

– Giles vừa nói vừa run. – Tôi sẽ không bao giờ nguôi được. Tôi không muốn mình là nguyên nhân cái chết của một đứa trẻ, dù có được toàn bộ chén đĩa bạc trên thế giới.

– Vấn đề không phải như vậy. – ông bác sĩ nói tiếp với giọng thịnh nộ. – Anh có thể khẳng định rằng đứa trẻ đang nằm trong phòng kia cũng chính là đứa chui qua cửa sổ nhỏ tối qua chứ? Nào, trả lời đi!

ông bác sĩ vốn nổi tiếng trong vùng bởi đức tính dịu dàng. Vì thế Giles và Brittles sửng sốt về vẻ bực tức của ông. Họ nhìn nhau sững sờ.

– Đây là một ngôi nhà bị tấn công. – ông bác sĩ tiếp lời. – Bị bối rối bởi sự tấn công này, hai người đàn ông thoáng thấy một đứa trẻ trong bóng tối, qua làn khói thuốc súng. Ngày hôm sau, một đứa trẻ xuất hiện cũng trong ngôi nhà này, và bởi vì em có một cánh tay bị băng bó, hai người đàn ông này thô bạo tóm lấy em. Bằng cách làm như.vậy, họ khiến cuộc sống của em bị hiểm nguy. Họ cam đoan em là tên trộm. Hãy xem họ có lý không, và trong trường hợp ngược lại, hãy xem xem họ đặt mình vào tình thế nào.

– Dĩ nhiên, – Giles nói, – tình thế được trình bày như vậy thì rất khác.

– Tôi lại hỏi các anh. – ông bác sĩ kêu lên. -Các anh có thề rằng đứa trẻ này là tên trộm của các anh không?

Brittles và Giles nhìn nhau do dự.

– Thật ra… – Giles bắt đầu.

Cũng chính lúc đó, họ nghe thấy tiếng gõ cửa.

– Cảnh sát đấy! – Brittles kêu lên, thở phào vì tình huống không ngờ này.

– Cảnh sát nào? – ông bác sĩ Losberne hỏi. Đến lượt mình lại bị bối rối.

– Cảnh sát của phố Bow-Street. – Brittles trả lời. – Anh Giles và tôi đã báo cho họ sáng nay.

Tình thế trở nên gay go. Chắc chắn là những anh chàng cảnh sát sẽ khó thao túng hơn những gia nhân.
Brittles ra mở cửa và thấy trước mặt mình là một người cao lớn, mặc chiếc áo khoác dài không hề nói năng gì đang bước vào, đến chùi chân trên tấm thảm rơm. Cùng đi với anh ta còn có một viên cảnh sát khác, đang đặt đôi cùm tay lên bàn.

– Nào, hãy nói về tên tội phạm đi. – Viên cảnh sát đầu tiên tên là Blathers nói, khi hai người phụ nữ và ông bác sĩ xuất hiện. ông Losberne muốn kéo dài thời gian liền kể chi tiết vụ việc trong khi hai viên cảnh sát trao đổi với nhau vài tín hiệu.

– Nhưng tốt hơn là hãy nói cho chúng tôi, -Blathers ngắt lời, – cậu bé bị thương ấy là ai? Liệu đó có phải là đồng bọn của những tên trộm hay không?

– Những anh hầu đã nhầm. – ông bác sĩ nói.

– Cậu bé đang nằm trong phòng trên kia bị trúng đạn của một người đi săn. Vụ đột nhập tối qua làm xáo trộn chút ít tâm trí họ và lời họ hơi bộp chộp khi kết tội một người lương thiện.

– Một anh hầu đã bắn phải không? – Một trong hai viên cảnh sát hỏi.

– Vâng, và đây là khẩu súng anh ấy đã sử dụng…

– Này! – Blathers kêu lên. – Khẩu súng lục này chỉ nhét có thuốc súng và giấy xám, nó chỉ gây tiếng động, không có gì khác. Không có chuyện làm ai đó bị thương!

Giles hết sức ngạc nhiên. Anh không hiểu rõ lắm nhưng anh nhẹ nhõm vì nghĩ rằng không phải mình làm đứa trẻ bị thương..Cần phải biết rằng, ông bác sĩ, một lát trước đây đã khéo léo lôi viên đạn còn lại ra và thay vào đó bằng một mẩu giấy vô hại.

Những viên cảnh sát vừa rút lui vừa tuyên bố rằng Oliver không liên can gì đến chuyện này.

Oliver bình phục chậm chạp dù mọi người chăm sóc em rất chu đáo và sau nhiều tuần em mới có thể ra khỏi nhà được.

Khi em đã hồi phục, ông bác sĩ Losberne dẫn em đến nhà ông Brownlow, người mà cậu bé thiết tha muốn gặp. Một thất vọng lớn đang chờ em.

Căn nhà trống không và có một tấm biển lớn đề là nhà cho thuê. Oliver nhìn qua cửa sổ nước mắt lưng tròng.

– Hãy gõ cửa nhà hàng xóm. – ông Losberne vừa nói vừa choàng lấy Oliver và hỏi xem ông Brownlow sống ra sao rồi.

– Tôi không biết, – một cô hầu đáp, – nhưng nếu các ông muốn, chờ một lát, tôi sẽ đi hỏi xem. Cô quay lại và nói rằng ông Brownlow đã bán tất cả gia tài và chuyển đến miền Đông ấn Độ. Oliver vặn hai bàn tay vào nhau và cảm thấy choáng váng.

– Bà quản gia cũng đi rồi ư? – ông Losberne hỏi sau một hồi im lặng.

– Vâng, thưa ông, – cô hầu đáp, – ông lão, bà quản gia và một ông nữa, bạn của ông Brownlow, tất cả đi cùng nhau.
– Cám ơn cô. Bây giờ, Oliver, chúng ta về thôi.

– Hay là chúng ta đến nhà anh bán sách đã đến làm chứng ở đồn cảnh sát hôm cháu bị bắt? Cháu xin ông, chúng ta hãy đến gặp anh ta đi.

– Cháu bé đáng thương của ta, – ông bác sĩ nói, – thế là đã có khá nhiều thất vọng cho một ngày rồi đấy. Nếu chúng ta đến nhà anh bán sách, có lẽ chúng ta sẽ được biết tin anh ấy hoặc chết, hoặc bị cháy nhà hoặc đã bỏ đi. Không, chúng ta đi thẳng về nhà thôi.

Thất vọng cay đắng này khiến Oliver buồn ghê gớm. Nhiều lần, trong cơn bệnh, em đã vui thích khi tưởng nhớ đến những gì ông Brownlow và bà Bedwin đã nói với em, đến niềm thích thú được kể với họ rằng em đã trải qua nhiều ngày dài đêm thâu để nhớ lại những gì họ đã làm cho em. Và bây giờ, em không chịu đựng nổi ý nghĩ là họ đã đi thật xa, và mang theo ý kiến rằng em chỉ là một tên lừa dối và ăn cắp. Liệu có khi nào em có cơ hội để minh oan chăng?

Khi thời tiết lại trở nên đẹp đẽ và ấm áp, khi cây cối bắt đầu ra lá non, những người nữ ân nhân của Oliver chuẩn bị rời nơi ở thường xuyên của.mình trong vài tháng. Trước hết, họ gửi ngân hàng bộ đồ ăn bằng bạc đã kích thích lòng tham của lão già Do Thái và băng đảng của lão, sau đó họ đi về đồng quê mang theo cả Oliver.

Không ai có thể mô tả niềm thích thú, sự thanh thản trong tâm hồn và sự yên tĩnh nhẹ nhàng mà cậu bé cảm nhận được giữa chốn thiên nhiên quyến rũ này.

Nơi ở của họ đẹp mê hồn và Oliver, người trước đây luôn sống giữa những con người chẳng ra gì, ngỡ rằng mình bước vào một cuộc sống mới.

Oliver thỉnh thoảng cũng nhớ đến người mẹ em chưa từng biết mặt và nức nở không để ai nhìn thấy, nhưng điều đó không ảnh hưởng đến niềm hạnh phúc của em. Nhiều ngày trôi qua yên bình và đêm đến em không còn sợ hãi, cũng chẳng lo lắng nữa.

Hàng ngày, em đến nhà một ông lão tóc bạc trắng nhận dạy em học và rèn luyện cho em đọc và viết. Sau đó, em cùng đi dạo với bà Maylie và cô Rose.

Ba tháng trôi qua như vậy, đối với Oliver là ba tháng hạnh phúc trọn vẹn. Cậu bé mồ côi lấy lại được niềm tin cuộc sống và em dành cho các nữ ân nhân của mình một tình thương yêu vô bờ. Họ còn yêu em nhiều hơn và tự hào về em.

Nhưng một hôm, vào cuối mùa hè, cô Rose bị bệnh và cần phải khẩn trương gọi bác sĩ Losberne.

ông này chẩn đoán ngay rằng cô gái bị một cơn sốt nguy hiểm và cuộc sống của cô lâm nguy.

Tin này khiến cả nhà kinh hoàng.

Oliver lại một lần nữa cảm nhận cơn gió của bất hạnh đang lướt qua bên mình. Trong nhiều ngày, cô Rose ở trong tình trạng nguy kịch giữa sự sống và cái chết và bà Maylie quyết định gửi thư cho Henry, Maylie, con trai mình.

Oliver chạy đến nhà trọ tìm gặp một kỵ mã nhận chuyển giúp thư.

Vừa ra khỏi đó, cậu bé có một cuộc gặp gỡ kỳ lạ, em vô ý xô phải một người đàn ông cao lớn vừa bước vào quán trọ. Oliver xin lỗi, người mới đến có vẻ nhận ra em và kêu lên:

– Khỉ thật! Lại gặp thằng bé này trên đường của mình! Đồ chết tiệt!

Nhân vật này không phải ai khác ngoài gã Monks bí hiểm. Gã tiến đến Oliver, như để giáng cho em một đòn thật mạnh nhưng gã bỗng ngã sóng soài, người co giật và giận dữ sùi bọt mép.

Oliver chạy trốn nhanh hết mức có thể, và vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi nghĩ đến dáng điệu kỳ lạ của người đàn ông mà em vấp phải. Tuy nhiên, cuộcđụng độ này không khiến em bận tâm lâu. Tình trạng sức khỏe của cô Rose khiến em lo nghĩ nhiều hơn.

Cô Rose suýt chết, nhưng sức xuân của cô đã thắng bệnh tật. Một hôm, ông bác sĩ có thể thông báo chắc chắn rằng cô đã được cứu sống.

Oliver sửng sốt, hạnh phúc quá chăng, em không thể nói cũng không thể khóc mà chỉ đi ngay ra cánh đồng hái vài bông hoa để trang trí cho phòng cô Rose.

Trên đường quay về, em gặp cỗ xe đang chở Giles và Henry Maylie về nhà. Em sung sướng thông báo với họ tin tốt lành này.

Cuộc gặp gỡ giữa hai mẹ con khá xúc động.

Sau những thổ lộ đầu tiên, Henry trách mẹ đã báo cho anh muộn quá.

– Mẹ có nghĩ đến nỗi đau của con nếu bất hạnh này xảy ra? Con có lẽ sẽ chết mất vì buồn, vì mẹ biết rằng con yêu Rose và hy vọng một ngày nào đó sẽ cưới cô ấy. – Anh nói.

– Chúng ta sẽ nói chuyện đó sau. – Bà mẹ đáp.

– Rose sẽ tự quyết định. Cô ấy rất tận tụy với chúng ta và chẳng thờ ơ với con đâu, nhưng cô ấy cho là mình có xuất thân quá tầm thường.

Cuộc chuyện trò dừng ở đó, và Henry Maylie tự nhủ là sẽ tìm cách quay lại đề tài này một ngày nào đó.

Cuộc sống lại gần như theo nhịp cũ.

Oliver không ngày nào quên mang những bông hoa xinh đẹp vào tặng cô Rose, cô vẫn chưa thể ra khỏi phòng nhưng sức khỏe của cô đang hồi phục nhanh chóng.

Oliver tiếp tục thu nhận những bài học quý giá và em lao vào học tập với một niềm hăng hái đáng kinh ngạc.

Căn phòng nhỏ nơi em ngồi học nhìn ra một vườn cây cảnh sau nhà.

Một hôm khi màn đêm buông xuống, Oliver đầu cúi xuống trang sách, đang chăm chú đọc thì có hai cái bóng in hình trên khung cửa sổ.

– Suỵt! – Một trong hai người nói. – Chính nó đấy!

Những lời này khiến cậu bé giật bắn mình, sửng sốt kinh hoàng. Em nhận ra dáng hình đê tiện của lão già Fagin và bóng dáng nhân vật có những nét dữ tợn mà em đã va phải trong sân quán trọ.
Em chỉ thấy chúng trong giây lát bởi vì sau đó nhanh như chớp, chúng biến mất.

Chúng đã nhận ra cậu bé nhưng cả em cũng nhận ra chúng. Gương mặt của lão già Do Thái đã hằn sâu vào tâm trí em như thể nó được tạc trên nền đá hoa cương..Oliver đứng dậy, nhảy vào trong vườn, và dùng hết sức kêu cứu.

Mọi người trong nhà, nghe tiếng kêu của Oliver, chạy vào ngay và thấy mặt cậu bé tái nhợt, hoảng hốt, vừa chỉ tay về phía bãi cỏ sau nhà vừa nói: “Lão Do Thái! Lão Do Thái!”.

Ngay lập tức, mọi người hiểu chuyện gì đang xảy ra.

– Lão ta chạy theo hướng nào? – Henry Maylie là một trong những người đến đầu tiên hỏi.

– Hướng kia. – Oliver đáp. – Chúng chỉ vừa mới khuất tầm nhìn của em.

– Thế thì, anh sẽ tìm thấy chúng trong con hào thôi! – Henry nói và tự trang bị cho mình một cây gậy nặng trịch. – Hãy theo tôi và chạy sát cạnh tôi hết mức có thể nhé.

Henry phóc qua hàng rào, chạy nhanh đến mức những người khác khó khăn lắm mới theo kịp anh.

Chạy đằng sau anh là Giles, anh hầu và Oliver.

ông lão Losberne, vừa quay về nhà sau khi đi dạo một vòng phía ngoài, cũng nhảy băng qua hàng rào và chạy theo hướng đó với một tốc độ đáng kinh ngạc. ông hét đến đinh tai nhức óc để hỏi xem chuyện gì đang xảy ra.

Khi Henry chạy đến góc cánh đồng mà Oliver chỉ, anh bắt đầu lục soát kỹ càng đường hào và hàng rào bên cạnh. Những người khác đuổi kịp anh và Oliver giải thích cho ông Losberne chuyện gì đã xảy ra.

Mọi người tìm kiếm mãi, nhưng chẳng thấy gì.

Không nhìn thấy một vết chân nào. Đoàn người ít ỏi trèo lên đỉnh một ngọn đồi nhỏ nơi có thể nhìn bao quát cả cánh đồng.

– Em không nằm mơ đấy chứ, Oliver? – Henry Maylie hỏi. – Quanh vùng này chừng vài cây số không có ai khả nghi đâu.

– Không! – Cậu bé vừa đáp vừa rùng mình nhớ lại chuyện đã xảy ra. – Em đã trông thấy cả hai như hiện giờ em thấy anh đứng trước mặt vậy.

– Ai đi cùng với lão Do Thái? – ông Losberne hỏi.

– Người đàn ông mà cháu đã gặp ở quán trọ hôm nọ. Cháu không thể nhầm được. Cháu đã nhận ra hắn mà.

Không thể nghi ngờ gì về lòng thành thật của Oliver. Sự thật thà và niềm tin chắc hiện rõ trên gương mặt em. Tuy nhiên, không thấy ở nơi đâu dấu tích dù nhỏ nhất của những kẻ chạy trốn.

– Chuyện này thật là lạ lùng. – Henry nói..- Đúng vậy, thật kỳ lạ. – ông bác sĩ lặp lại. -Con chó săn tinh anh nhất cũng không hiểu tý gì về việc đó.
Mọi người tiếp tục tìm kiếm cho đến khi màn đêm buông xuống. Thậm chí Giles còn được phái đến tất cả những tửu quán trong làng, nhưng anh ta quay về mà không có tin tức gì có thể làm sáng tỏ điều bí ẩn.

Hôm sau, mọi người lại tiếp tục tìm kiếm nhưng cũng không có gì khả quan hơn. Hôm sau nữa, Oliver và Henry Maylie đi ra chợ của thành phố lân cận và hỏi thăm nhiều người, không một ai đã nhìn thấy lão Do Thái và tên đồng bọn của lão.

Sau nhiều ngày, sự việc đó bắt đầu đi vào quên lãng và cuộc sống lại trở về nhịp bình thường.

Người ta lại nghe thấy tiếng nói cười trong ngôi nhà. Tuy nhiên, Oliver cũng nhận ra có sự thay đổi trong tính cách của nhiều thành viên trong gia đình.

Bà Maylie và con trai thường khép kín cửa trong nhiều giờ. Cô Rose, đang bình phục, đôi khi có đôi mắt đỏ hoe như thể cô vừa mới khóc. Điều gì đã làm khuấy động sự yên bình của cô gái trẻ này?

Sức khỏe của cô Rose đã hồi phục, Henry phải nghĩ đến việc ra đi. Anh yêu cầu gặp cô gái và ngỏ lời cầu hôn với cô. Rose tỏ ra cương quyết trong quyết định của mình. Cô nói:

– Em không thể chấp nhận niềm hạnh phúc này! Em thì nghèo khổ còn anh lại giàu có. Vinh quang đang chờ đợi anh và họ của em có một tì vết mà sau này có thể gây tổn thương đến anh.

– Anh sẽ còn quay lại, – Henry nói, – và anh sẽ cầu xin em một lần cuối.

– Tùy anh, – Rose nói, – nhưng rồi chỉ thêm một thử thách đau khổ nữa mà thôi.

Cô đưa tay ra. Nhưng chàng trai lại kéo cô sát ngực mình, và sau khi đã hôn lên trán cô, anh bước nhanh ra khỏi phòng.

Hôm sau, trước khi lên đường, anh gọi Oliver lại.

– Giờ thì em biết viết rồi phải không? – Henry vừa nói vừa đặt tay mình lên cánh tay của em.

– Em hy vọng như vậy. – Oliver đáp.

– Có thể là anh sẽ không quay về nhà trong một thời gian, anh muốn em viết thư cho anh mười lăm ngày một lần theo địa chỉ văn phòng bưu điện trung tâm Luân Đôn.

– ồ! Em sẽ vui sướng hoàn thành nhiệm vụ này..- Em sẽ kể cho anh nghe về sức khỏe của mẹ anh và cô Rose, xem họ có hạnh phúc và khỏe mạnh không. Đừng nói gì với họ cả. Đây là bí mật của riêng chúng ta thôi!

Oliver, hân hoan vì vinh hạnh được giao, thề rằng sẽ viết thư cho anh thường xuyên và giữ bí mật.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.