Oliver Twist

Chương 3



Charlot và Láu Cá xếp Oliver ở giữa hai đứa và cả bọn tiến vào thành phố. Bộ ba trông rất buồn cười. Láu Cá xắn cao tay áo và để mũ che gần kín một bên tai. Còn Charlot, anh chàng cho tay vào túi quần và hếch mũi tiến về phía trước.

– Chúng ta đi đâu đây? – Oliver hỏi nhưng em không nhận được một câu trả lời nào cả.

– Chúng ta sẽ làm công việc gì?

Những anh bạn đồng hành của em không hé răng và Oliver không nài hỏi nữa.

Em thấy Láu Cá lấy mũ của những đứa trẻ đi ngang qua và ném mũ đi bất kỳ đâu. Những đứa trẻ òa khóc nhưng nước mắt của chúng không khiến anh chàng này dừng tay. Điều đó có nghĩa gì nhỉ?

Oliver còn ngạc nhiên hơn khi trông thấy Charlot, với tài khéo léo chẳng ai bì, nẫng nhẹ những quả táo và các loại hoa quả trên giá của những người bán hàng. Đồ ăn cắp được giấu trong những chiếc túi dường như rất rộng. Oliver không hề thích thú kiểu đùa giỡn này và chuẩn bị thổ lộ sự bất bình của mình với hai anh bạn; em sắp tuyên bố với chúng rằng em muốn quay về nhà ngay lập tức, thì bỗng nhiên em bị cuốn hút bởi dáng vẻ của Láu Cá.

Anh chàng vừa dừng lại đột ngột và đặt tay lên môi.

– Suỵt! – Gã nói khẽ. – Hãy yên lặng lùi lại!

– Có chuyện gì vậy? – Oliver hỏi, em không nhận thấy điều gì bất thường.

– Suỵt, im lặng, bảo thế mà! – Láu Cá nói thêm.

– Thế em không nhìn thấy con chim bồ câu đang đứng trước cửa hàng sách à?

– Một con chim bồ câu? – Oliver kêu lên. – Em chỉ thấy một ông già đứng bên kia đường.

– Đúng vậy, em đã nhìn thấy rõ! – Láu Cá tiếp lời. – Nào chúng ta sẽ cho lão một vố.

– Cho ông ấy một vố ư? – Oliver ngạc nhiên.

– ừ, đúng vậy! – Đến lượt Charlot nói. – Món này quả là bở. Đừng ngần ngại gì cả!

Oliver rất ngạc nhiên và tự hỏi không biết hai anh bạn của mình muốn gì, thì em nhìn thấy bọn họ qua đường cũng thận trọng như khi họ đi theo lão Fagin trong phòng… Charlot và Láu Cá tiến sát.sau lưng ông già lúc này đang xem những cuốn sách của tiệm bán sách.

Oliver tiến lên vài bước nhưng em không biết phải làm gì. Em phải đứng lại ở đây chăng? Hay em phải đi theo những anh bạn của mình? Điều gì sẽ xảy ra? Em thấy đứng lại và quan sát thì thận trọng hơn.

ông già có vẻ là người ham thích sách, ăn mặc hết sức chỉnh tề và đeo kính gọng vàng. Tấm áo màu xanh lá cây được tô điểm thêm bằng chiếc cổ nhung đen, quần trắng và cây gậy tre tạo cho ông dáng vẻ của một người giàu có. ông lấy một quyển sách trên giá và chăm chú lật từng trang như thể ông đang ngồi trong phòng làm việc của mình. ông lật từng trang hết sức cẩn thận đến độ không cảm thấy hai anh chàng đã đến ngay phía sau.

Cậu bé Oliver rất đỗi ngạc nhiên và lo sợ khi thấy bàn tay của Láu Cá luồn vào trong túi của ông già, lôi ra một chiếc khăn tay, và ngay lập tức được chuyền qua cho Charlot.

Xong phi vụ hai anh chàng tẩu thoát.

Trước mắt Oliver dường như một tấm màn vừa được xé ra. Cuối cùng, em đã hiểu điều bí ẩn của những chiếc khăn tay, những cái đồng hồ và đồ nữ trang. Giờ đây, em biết được lão già Do Thái sống nhờ cái gì, em đột ngột hiểu ra công việc mà lão giao phó cho đồng bọn của lão là cái gì. Em đang sống với một băng trộm cắp.

Cậu bé Oliver đáng thương không cựa quậy được nữa vì nỗi sợ hãi quá lớn, máu em dường như đông đặc lại trong tĩnh mạch, nhưng em nhanh chóng tĩnh trí và cho rằng tốt nhất là vắt chân lên cổ và biến thật nhanh.

Vào lúc chưa quyết định chạy trốn thì ông lão đột ngột quay đầu lại. ông đã phát hiện ra khăn tay biến mất và nhìn thấy trước mặt mình một thằng bé đang tẩu thoát. Dĩ nhiên ông nghĩ rằng em lấy cắp và chẳng kịp xếp lại quyển sách đang xem, ông bèn vừa đuổi theo Oliver vừa la to: “Kẻ cắp! Bắt nó lại!” Mọi người chạy theo ông và săn lùng kẻ đang trốn chạy.

Oliver đáng thương chạy nhanh như tia chớp và nỗi sợ hãi đã chắp cánh cho em. Em nghe thấy phía sau mình bước chân của đám đông và tiếng la hét ngày càng nhiều hơn. Quả vậy, ai cũng bỏ dở công việc của mình và không ngần ngại tham gia cuộc săn đuổi. Mọi người ồn ào xông lên, anh thợ thì bỏ đồ nghề, học sinh bỏ chơi bi, người chuyên chở hàng cũng mặc kệ những gói hàng, tất cả cùng la to: “Kẻ cắp!”. ấy thế mà, chỉ có một đứa trẻ mồ côi bất hạnh, một kẻ vô tội mệt đứt hơi, kiệt sức vì mệt và gần như xỉu đi vì sợ hãi. Đôi chân dường.như không đỡ nổi thân em. Điều phải đến, đã đến.

Chẳng mấy chốc em bị đuổi kịp và bao vây, nhưng em không còn đủ sức đứng thẳng, em ngã gục xuống đất.

Ai cũng cố chen lên hàng đầu để nhìn mặt tên trộm. Tiếng la hét từ tứ phía:

– Cho tôi lên đi!

– Tránh ra, anh làm nó nghẹt thở mất!

– Dào ôi! Thêm hay bớt một tên kẻ cắp thôi mà!

– Nhưng ai bị mất cắp?

– Một ông già.

– ông lão đây này.

– ông ơi, lại đây! ông có nhận ra kẻ đê tiện đã ăn cắp của ông không?

ông già ung dung tiến lại gần và đưa mắt nhìn Oliver trông như con thú bị sa bẫy, đang hoảng hốt nhìn quanh. Cậu bé côi cút, nằm dài dưới đất, người phủ đầy bụi bặm và khóe miệng trào ra một ít máu.

ông già nhìn em rất lâu và lòng thương hại hiện lên trên gương mặt ông:

– ông có nhận ra nó không? – Mọi người hỏi.

– Tôi sợ rằng không phải là nó. – ông trả lời nhẹ nhàng.

– ông nhầm to khi thương hại cho số phận của kẻ bất lương này!

– Cậu bé đáng thương, – ông tiếp lời, – nó đã bị thương khi ngã.

– Không, chính tôi đã đánh nó và làm nó ngã.

Chính nhờ tôi mà người ta bắt được nó. – Một người đàn ông nói và chắc là hy vọng nhận được một khoản tiền thưởng.

Ông già khinh bỉ nhìn người đó. ông hy vọng rằng câu chuyện sẽ dừng ở đó thì một viên cảnh sát đi tới.

– Có chuyện gì vậy? Hãy giải thích đi. – Viên cảnh sát vừa xô mọi người ra vừa túm lấy Oliver.

– Nào, đứng dậy đi, kẻ tồi tệ!

– Thưa ông, cháu không phải là thủ phạm, cháu xin thề với ông, cháu đã không làm gì cả. Thủ phạm của vụ trộm là hai thanh niên. Chắc là họ không ở xa đây đâu.

– Nào đứng dậy, nhanh lên đi chứ! Và đừng có bịa chuyện nữa.

– Đừng thô bạo với nó. – ông già nói. – Hãy nhẹ tay thôi, đứa trẻ này rất yếu.

– ông đừng e ngại. – Viên cảnh sát nói tiếp và túm lấy cậu bé một cách cộc cằn đến nỗi làm áo em rách toang đến giữa lưng. – Tôi biết loại khách.hàng này và không cần dạy tôi cách cư xử với chúng.

Nào nhanh lên, đồ nhóc nham hiểm!

Oliver bị viên cảnh sát túm lấy cổ áo lôi đi.

Ông già đi theo họ.

Sở cảnh sát cách đấy không xa. Người ta dắt em đi qua một vòm cửa thấp, sau đó băng qua một khoảnh sân bẩn, em gặp một người đàn ông vạm vỡ có bộ râu quai nón rậm.

– Có gì mới không? – Người đàn ông này vừa hỏi vừa lúc lắc chùm chìa khóa.

– Không có gì đặc biệt cả. Tôi dẫn đến một tên trộm nhóc con. – Viên cảnh sát trả lời.

– Chính ông đã bị mất cắp à? – Người đàn ông râu quai nón hỏi ông già.

– Vâng, chắc chắn là người ta đã ăn cắp của tôi nhưng tôi không dám chắc chính cậu bé này làm điều đó. Chúng ta không thể dẹp bỏ chuyện đáng buồn này ư? – ông già đáp.
– Không, không được, cần phải đi trình quan tòa. Lát nữa quan tòa sắp rảnh và ngài sẽ vui lòng xét xử kẻ đáng treo cổ này.

Oliver bị lục soát như một tên côn đồ bị tình nghi có mang vũ khí, sau đó, người ta dẫn em vào xà lim rồi chốt khóa cẩn thận. Xà lim giống như một cái hầm. ánh sáng chỉ hơi lọt vào và mặt đất rải rác cặn bã của những tên say rượu và những kẻ gian phi. ông lão sầu não khi nhìn thấy cậu bé bị giam như một kẻ tội phạm.

Không hiểu tại sao gương mặt cậu bé này khiến ta quan tâm? – ông lão nghĩ thầm, – Ta không thể tin rằng cậu bé đã ăn cắp chiếc khăn tay của ta. Có điều gì mờ ám trong chuyện này, mà ta không thấy rõ. Đứa trẻ này khiến ta nghĩ đến ai nhỉ? Ta đã gặp một gương mặt giống như gương mặt này ở đâu nhỉ?

Ông lão mất công lục trong trí nhớ những gương mặt mà ông quen biết, gương mặt của bè bạn, của kẻ thù, gương mặt những người không còn nữa, nhưng ông không thể nhớ ra Oliver giống ai.

Tuy nhiên…

Viên cai ngục vỗ nhẹ lên vai ông lão kéo ông ra khỏi suy tư.

– Đi theo tôi, tôi sẽ dẫn ông vào phòng xử án, nơi ông Fang xét xử.

Ông Fang có chiều cao trung bình, gần như thấp nhỏ và hói đầu. Nét mặt ông khắc nghiệt và chỉ nhìn ông người ta cũng cảm thấy rõ là ông rất khó mủi lòng.

Người ta dẫn Oliver vào và cho em ngồi trên một chiếc ghế gỗ..ạng già lịch sự chào viên thẩm phán:

– Đây là tấm danh thiếp có tên và địa chỉ của tôi. – ông già nói với viên thẩm phán đang đọc báo và tỏ vẻ khó chịu vì bị quấy rầy.

– ông là ai? – ông ta hỏi ông già song ông này chỉ đưa ra tấm danh thiếp.

– Cảnh sát đâu! Người này tên gì? – ông Fang vừa hét to vừa ném sang một bên cả báo và cả tấm danh thiếp.

– Tôi tên là Brownlow. – ông già nói và chẳng hề mất bình tĩnh.

– Cảnh sát đâu! – Viên thẩm phán nói to. -Người này có tội gì?

– Người ta không trách cứ gì ông ta cả. – Viên cảnh sát trả lời. – Không phải ông ấy là thủ phạm. ông ấy bị thằng bé này ăn cắp và luật pháp cần phải trừng trị nó.

– à! ông kiện thằng bé này trước tòa à, ông phải nói cho rõ chứ. – ông Fang vừa nói vừa nhìn ông lão không thiện cảm. – Nào, ông phải tuyên thệ đi!

– Tôi sẽ tuyên thệ. – ông lão nói. – Nhưng trước tiên tôi muốn tuyên bố rằng…

– Không một lời nào hết. Nếu ông không im lặng, tôi kết cho ông tội chửi rủa thẩm phán trong khi thi hành công vụ.
ông Brownlow bất bình nhưng ông kiềm chế khi nghĩ rằng số phận cậu bé đang được xem xét và không nên làm cho viên thẩm phán chống lại em, vì thế, ông tuyên thệ.

Ông Brownlow bắt đầu trình bày những gì ông biết, nhưng ngay từ những lời đầu tiên, ông đã bị viên thẩm phán cắt ngang vì ông ta muốn được nghe viên cảnh sát đã bắt Oliver nói trước. Viên cảnh sát tỏ vẻ rất sợ sệt ngài thẩm phán, nói rằng sau khi bắt đứa trẻ, hắn đã nhanh chóng lục soát em cẩn thận nhưng không tìm thấy gì khả nghi trong túi của em.

– Dẫn những nhân chứng ra đây. – Viên thẩm phán nói.

– Chỉ có ông này đây. – Viên cảnh sát nói. -Mỗi mình ông ta mới biết được điều đó.

– Nào, khiếu nại đi… Có hay không! ông muốn giải thích vụ này không? Nếu ông không đưa ra đủ chứng cứ, tôi buộc phải trừng trị ông về tội thiếu tôn trọng tòa án.

Ông Brownlow kể hết những gì mình biết bất chấp những lúc cắt ngang của viên thẩm phán.

– Tôi đã rất ngạc nhiên, – ông lão nói, – và tôi chỉ đuổi theo đứa trẻ này vì tôi thấy nó chạy trốn. Có lẽ cậu bé không phải là tên ăn cắp. Có lẽ.nó chỉ là đồng bọn của những kẻ ăn cắp thực sự.

Trong trường hợp này, thưa ngài thẩm phán, tốt hơn là không nên để cậu bé phải chịu sự hà khắc của pháp luật. Nó bị thương, cậu bé tội nghiệp và tôi cho rằng nó cần được chăm sóc. Tôi trông nó có vẻ ốm lắm. Nó cần một ông bác sĩ chứ không phải một viên cai ngục.

– Phải, phải, tôi biết loại người này. – ông Fang đáng sợ nói. – Tên du đãng này có nhiều trò quỷ quyệt. Nhưng những trò này không lừa được tôi đâu. Này, mày họ gì?

Oliver cố hết sức trả lời nhưng sự xúc động làm em nghẹn họng và không thốt lên được một tiếng.

– Mày họ gì, tên vô lại! – Viên thẩm phán giận dữ hơn nhắc lại. – Không ai biết họ của tên vô lại này ư? Cảnh sát, buộc nó phải nói!

Viên cảnh sát vừa được gọi đến liền cúi xuống sát bị cáo và hỏi em nhưng ông ta thấy rõ là đứa trẻ không đóng kịch và em thật sự thấy bất ổn.

Ông biết rằng sự im lặng của cậu bé sẽ làm nổ ra cơn giận dữ của viên thẩm phán nên ông trả lời hú họa:

– Nó nói rằng nó tên là Tom White, thưa ngài thẩm phán.

– Nó sống ở đâu?

– ở nơi nào có thể, thưa ngài thẩm phán. Nó không có chỗ trú ngụ cố định.

– Thế còn bố mẹ nó?

– Nó khẳng định rằng nó không hề biết họ.

Nó đã mồ côi từ khi còn bé thơ.

Lúc này, Oliver ngẩng đầu lên nhìn xung quanh, sau đó em khe khẽ hỏi xin cốc nước.

– Nào, tất cả chỉ toàn là những chuyện ngu ngốc và sự nhăn nhó giả bộ. – ông Fang nói. – Tôi biết rõ và tôi không để bị lừa…

– Tôi thấy dường như thằng bé này không phải là một kẻ giả vờ. – Viên cảnh sát nói thêm. – Tôi cho rằng nó bị ốm thật sự.

– Không, không! – ông Fang nói. – Hãy tin tôi, tôi biết phải xử trí thế nào.

– ôi! – ông Brownlow la lên, hãy cẩn thận, cậu bé tái lợt rồi, nó sắp ngã đấy.

– Để mặc nó! – Viên thẩm phán nói một cách phũ phàng. – Nó cứ ngã nếu nó thích.

Cậu bé Oliver tội nghiệp đã đến giới hạn của sự chịu đựng. Em không thể chống chọi lại lâu hơn nữa và em nặng nề ngã lăn ra sàn nhà. Không một ai động đậy và cậu bé nằm đó, sóng soài, bất tỉnh..- Các ông thấy chưa. – Viên thẩm phán nói. -Nó đang đóng kịch đấy! Đừng động vào nó. Nó sẽ tự đứng dậy khi thấy chán đánh lừa chúng ta.

– Thế ngài sẽ làm gì nó ạ? – Viên cảnh sát hỏi nhỏ. – Dù sao cũng cần phải đưa ra một quyết định.

– Quyết định sẽ được đưa ra ngay đây. – ông Fang tuyên bố. – Tôi kết án nó ba tháng tù giam kèm thêm lao động cưỡng bức, rõ ràng như thế rồi.

Bây giờ mọi người hãy để tôi yên và nhanh chóng giải tán khỏi phòng này đi.

Cửa phòng vừa được mở ra và người ta đang chuẩn bị khiêng Oliver vào xà lim thì một người đàn ông xuất hiện và lại gần bàn của ông Fang.

Người mới đến này ăn mặc khá chỉnh tề nhưng không cầu kỳ. Mọi người nhận thấy ông đã phải chạy và khá xúc động. Đó là người bán sách.

– Dừng lại, hãy dừng lại! – ông la to. – Các ngài sắp phạm phải một sự nhầm lẫn. Hãy đợi đã, hãy cho tôi nói!

– Người đàn ông này là ai vậy? Đuổi hắn đi!

Hắn không có quyền xuất hiện ở đây! Tôi đã ra lệnh giải tán khỏi phòng rồi mà!

– Tôi sẽ nói, – người mới đến tuyên bố, – và tôi sẽ không ra khỏi đây khi chưa được làm điều đó. Tôi đến để làm chứng! Mọi người hãy cho tôi tuyên thệ và hãy lắng nghe tôi nói!

Lần này, ông Fang thấy vụ việc có vẻ rất nghiêm túc. ông ta cho người bán sách tuyên thệ rồi hỏi anh cần nói những gì.

– Thế này, – anh bán sách sung sướng tuyên bố vì đã đạt mục đích, – có ba thanh niên trên đường phố. Cậu bé này đứng lại ở vỉa hè đối diện và chính hai đứa kia đã lấy cắp chiếc khăn của ngài đây, tôi đã nhìn thấy chúng.

– Đáng ra anh phải đến đây sớm hơn. – ông Fang nhận xét.

– Tôi phải tìm người thay tôi ở cửa hàng. -Anh bán sách đáp. – Tôi đã đến đây nhanh hết mức có thể. Tất cả mọi người đã lao vào truy đuổi cậu bé.
– Nếu như tôi hiểu rõ điều gì đã xảy ra, – ông Fang nói, – ông này đang đọc sách thì bị mất cắp.

– Vâng, – anh bán sách nói, – ngài đây đang đọc quyển sách mà ngài hãy còn cầm trên tay đấy ạ.

– à, à, – viên thẩm phán đang theo đuổi tiếp ý nghĩ của mình nói thêm, – thế quyển sách này đã được trả tiền chưa?

– Chưa, chưa đâu. – Anh bán sách đáp.

– Quả thực, – ông Brownlow nói, – tôi thật sự không có thời gian trả tiền cho thứ tôi mua..- Thế thì người buộc tội đến lượt mình lại bị buộc tội. – ông Fang nói vẻ đắc thắng. – ông đây phàn nàn đã bị mất chiếc khăn tay nhưng lại không khai báo mình đã lấy đi quyển sách một cách đáng khiển trách. Nếu anh bán sách muốn, anh có thể sẽ khiếu nại ông khách hàng ít nghiêm túc này. Đây quả là một bài học cho các ông! Nào, tôi rút lại lời tuyên án buộc tội đứa trẻ và tất cả mọi người hãy giải tán.

Ông Brownlow muốn nói với viên quan tòa những suy nghĩ về cách xử lý của ông ta, nhưng ông không thể làm được.

– Giải tán! Giải tán! – Viên thẩm phán nhắc lại.

Ông già bị dẫn ra ngoài với gậy, sách… và một sự giận dữ không tả được. Nhưng ông bình tĩnh ngay khi nhận thấy cậu bé Oliver đáng thương vẫn nằm sóng soài trên nền gạch. Cậu bé tội nghiệp nhợt nhạt như xác chết và áo em bị rách toang. Em run rẩy. Cậu bé dường như đang lên một cơn sốt khủng khiếp.

– Cậu bé đáng thương! Cậu bé đáng thương! -ạng Brownlow nói. – Ai đi kiếm cho tôi một chiếc xe nào, nhanh lên!

Một cỗ xe tiến đến. Mọi người cẩn thận đặt Oliver lên một chiếc gối dựa và ông Brownlow ngồi cạnh em.

– ông có muốn tôi đưa ông về không? – Anh bán sách hỏi.

– Rất vui lòng, anh bạn, – ông Brownlow đáp ngay, – mời anh lên xe. Tôi không để quên quyển sách của anh đâu. Nào lên đi! Đừng để mất một phút nào nếu chúng ta muốn cứu cậu bé này.

Cỗ xe dừng lại trước thềm ngôi nhà xinh xắn gần Pentonville trong một phố yên tĩnh. Người ta chuẩn bị một chiếc giường và đặt Oliver nằm xuống.

Oliver Twist đã vào nhà ông Brownlow như vậy đó..


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.