Cuối cùng, cậu tới đích. Goldmund bước vào thành phố hằng mong mỏi của mình, cũng qua chiếc cổng bao nhiêu năm trước đây cậu đã từng qua để đi tìm thầy Niklaus. Trên đường, càng gần đến khu nhà tòa giám mục, cậu đã nghe nhiều tin tức mới, biết rằng nạn dịch hạch cũng đã xục ở đây và có lẽ vẫn còn; người ta kể cho cậu hay các cuộc rối loạn và nổi dậy, rằng một khâm sai của nhà vua đã đến lập lại trật tự, thi hành các biện pháp cứu trợ chung, bảo hộ tài sản và cuộc sống của thị dân. Bởi lẽ từ khi bắt đầu nạn dịch, giám mục đã rời bỏ thành phố, đến ở rất xa tại một lâu đài của mình giữa vùng nông thôn. Người khách đi đường không mấy quan tâm đến các tin tức ấy. Miễn là thành phố còn đó, còn xưởng điêu khắc mà cậu muốn trở về làm việc, ngoại dư đối với cậu không quan trọng. Cậu đến nơi thì dịch hạch đã chấm dứt, người ta chờ đón vị giám mục trở lại, vui mừng với việc ngài khâm sai ra đi và vãn hồi cuộc sống yên bình ngày trước.
Gặp lại thành phố, lại trông thấy cảnh vật thân quen, Goldmund cảm thấy trong lòng ngập tràn một làn sóng xúc động mà cho đến nay cậu chưa hề trải qua; và để làm chủ bản thân, cậu ra vẻ trang nghiêm, một bộ mặt không tự nhiên đối với cậu. Ôi! Tất cả ở đây đều nguyên vẹn: Các cổng vào thành phố, bồn nước xinh đẹp, ngôi tháp to bè và thấp của nhà thờ lớn, và nhà thờ Sainte – Marie vẫn mới với kiến trúc nhẹ nhàng, hồi chuông lanh lảnh của Saint-Laurent và sân bãi lớn trước chợ đầy ánh sáng. Tất cả chờ đón cậu! Tốt lành làm sao! Trên đường đi, chẳng đã có lần cậu mơ màng nghĩ là đến nơi, mình sẽ húc phải những sự vật chưa quen biết và đã biến đổi trong một thành phố có phần bị tàn phá và đổ nát, có phần thay hình đổi dạng với những ngôi nhà mới kỳ quặc, trang trí không đẹp mắt. Đi qua các đường phố, cậu ứa nước mắt nhận ra hết ngôi nhà này đến ngôi nhà khác. Chung qui lại dù sao cũng chẳng đáng mong muốn những con người cứ quen ru rú này vẫn ở tại các ngôi nhà xinh xắn và yên ổn của họ, với cuộc sống thị dân khép kín, với cảm giác an bài và vững lòng dưới mái ấm gia đình, trong các phòng và các xưởng, giữa vợ con, các gia nhân và các bà con láng giềng của họ.
Đã xế chiều. Ở phía còn le lói ánh nắng trên đường phố, các ngôi nhà, biển hiệu các quán ăn và các nghiệp đoàn, các cửa ngõ chạm trổ và các chậu hoa tỏa sáng ấm áp; Không có gì khiến người ta nghĩ rằng cũng ở thành phố này, cái chết và nỗi âu lo điên dại đã từng ngự trị. Dòng sông trôi xuôi lấp lánh các sắc màu xanh nhạt dưới các vòm cầu ầm ĩ. Goldmund ngồi tựa bên hàng lan can trong chốc lát. Dưới nước, trong ánh pha lê lục diệp phơn phớt, các đàn cá sẫm màu lượn qua lại như những cái bóng, hoặc hầu như đứng yên đưa mũi cản lại dòng chảy; cũng như trước, trong bóng tối các độ sâu, luôn ánh lên đó đây các phản quang vàng chói và sức lôi cuốn người ta mơ mộng. Có thể đã say sưa ngắm nhìn cũng những dòng sông, cây cầu, các thành phố đẹp đẽ như vậy ở những nơi khác, vậy mà lâu lắm rồi, nay cậu có cảm tưởng chưa bao giờ mình được trông thấy những gì tuyệt vời và gợi cảm đến như thế.
Hai chàng trai nhà hàng thịt dắt một con dê, không ngớt liếc mắt và buông ra các lời chọc ghẹo với một cô đầy tớ gái đứng trên gác đang phơi áo quần. Tất cả đã diễn ra nhanh quá! Cách đây không lâu, nơi đây người ta đốt lửa để phòng dịch, và bọn lao công bỉ ổi ở các bệnh viện tha hồ làm mưa làm gió. Nay thì cuộc sống đã lấy lại nhịp điệu bình thường, người ta cười, người ta đùa cợt, về phần cậu đâu có khác gì? Cậu ngồi tựa nơi đây trong niềm vui trở về, mở rộng lòng mình tràn đầy hàm ân đối với các cư dân này quen sống tĩnh tại, như thể Lene hay nàng công chúa Do Thái chẳng có một ai chết. Mỉm cười và đứng lên, cậu tiếp tục đi, – cho đến khi gần tới phố nơi thầy Niklaus ở, lại bước chân trên nẻo đường những năm trước đây hằng ngày cậu đã đi làm việc, tim cậu thắt lại, càng xúc động. Cậu đi nhanh hơn. Ngay lúc này, cậu muốn trình diện với thầy và được biết nên thế nào. Không thể chờ đợi nữa, cậu thấy không thể lùi lại ngày hôm sau. “Thầy có còn giận mình không? Chắc là thầy già lắm, nhưng chẳng sao miễn thầy vẫn trụ được và còn đây. Mọi sự vẫn tốt lành nếu nhà điêu khắc và xưởng của thầy vẫn còn”. Trong những ý nghĩ hối hả ấy, vào lúc cuối cùng, cậu lo mình có thể đến quá muộn. Đứng trước cánh cửa quá quen thuộc và nắm tay vặn, cậu sợ cửa đóng im ỉm. Có điềm không lành? Trước đây, không khi nào ban ngày cửa đóng thế này. Gõ cửa, cậu chờ, trong lòng xao xuyến.
Cũng u già trước đây đã đón cậu khi cậu đến ngôi nhà này, ra mở cửa. Bà không xấu xí đi nhưng già hơn và quăn quạu hơn. Bà không nhận ra cậu.Với giọng lo âu, cậu hỏi tin tức về thầy. Ngờ vực, bà già nhìn cậu đờ đẫn.
– Thầy ư? Ở đây không có thầy nữa. Ông hãy đi đi. Người ta không để ông vào nhà đâu.
Bà ta muốn đẩy cậu ra. Nắm tay bà, cậu thét to:
– U Margrit, vì lòng kính yêu Chúa, u hãy nói cho tôi biết chứ! Tôi là Goldmund đây. U không nhận ra tôi sao? Tôi phải gặp thầy Niklaus!
Nhìn cậu với đôi mắt viễn thị gần tàn tạ, bà lão đáp lại, tỏ ý không mặn mà tiếp đón, thậm chí có vẻ chống đối:
– Thầy Niklaus không còn nữa. Ông ấy qua đời rồi. Anh hãy xéo đi, tôi không đứng đây lâu đâu.
Nhận thấy bao nhiêu ước mong của mình đã sụp đổ, trong khi bà già theo sau và không ngớt la lối, cậu chạy thẳng qua dãy hành lang mờ tối để đến xưởng. Cửa đóng chặt. Vẫn nghe đuổi theo ở sau lưng những lời rền rĩ và la mắng của bà già, cậu bước lên cầu thang. Trong căn tiền sảnh quen thuộc, trong bóng tối, các pho tượng vẫn đứng đó, do nhà nghệ sĩ đã tập hợp lại. cậu gọi Lisbeth với giọng vang như sấm.
Cửa phòng mở ra, Libeth bước đến. Ngay với cái nhìn đầu tiên nhận ra nàng, lòng cậu se lại. Từ lúc cậu thấy cửa đóng, thật hãi hùng, tất cả trong ngôi nhà này đối với cậu có vẻ hư ảo như trong một giấc mộng đè nặng lên tâm tư, nhưng khi trông thấy Lisbeth thì cậu rùng mình ớn lạnh ở sống lưng. Nàng Lisbeth xinh đẹp và kiêu hãnh đã trở thành một gái già dữ tợn, lưng còng, sắc mặt vàng võ và đau yếu, trong bộ trang phục màu đen tầm thường, mắt nhìn lẩn tránh, thái độ sợ sệt.
– Xin lỗi cô, u Margrit không muốn cho tôi vào. – Cậu nói! – Cô không nhận ra tôi sao? Tôi là Goldmund đây. Ôi! Hãy cho tôi biết, có đúng là ông thân sinh cô đã qua đời?
Qua đôi mắt nàng, cậu biết nàng nhận ra mình, đồng thời cảm nhận cậu đã không để lại nơi đây những kỷ niệm tốt lành.
– A! Ông là Goldmund. – Nàng thốt, trong giọng nói ấy cậu thấy còn hơi hướng của tính cao ngạo trước đây ở nàng. – Ông đến đây chẳng để làm gì nữa, bố tôi chết rồi.
– Còn xưởng điêu khắc? – Cậu không kìm được câu hỏi ấy, bật ra.
– Xưởng ư? Đã đóng cửa. Nếu ông muốn tìm việc, ông nên đi nơi khác.
Cậu cố trấn tĩnh lại.
– Cô Lisbeth, – cậu nói với giọng thân tình – tôi không đi tìm việc. Tôi chỉ muốn đến chào thầy và chào cô. Điều tôi vừa nghe khiến tôi rất đau lòng. Nếu một người học trò vốn biết ơn ông thân sinh của cô có thể giúp cô việc gì đó, mong cô hãy bảo, đối với tôi đó là một niềm vui. Ôi! Cô Lisbeth, thấy cô trong cảnh huống này, đau khổ như thế này, tôi rất xót xa!
Nàng lùi vào trong cửa.
– Cảm ơn, – nàng nói. – Ông không thể giúp gì cho cha tôi đâu, cũng như cho tôi. U Margrit sẽ đưa ông ra.
Giọng nói của nàng đanh, vẻ tức giận, pha chút sợ sệt. Nếu có can đảm, hẳn Lisbeth đã đuổi cậu ra khỏi nhà không thương tiếc.
Cậu bước ra, bà già đẩy cả hai chiếc chốt khóa chặt cửa sau lưng cậu. Cậu nghe tiếng lách cách như thể người ta đóng nắp một chiếc quan tài.
Đi chầm chậm, cậu trở lại chỗ hàng lan can bên bờ sông, ngồi tựa vào chỗ cũ, nhìn xuống dòng nước. Mặt trời đã lặn, một luồng gió lạnh thổi từ dưới sông lên, kè đá nơi cậu ngồi cũng lạnh.
Hàng kè lại rơi vào yên lặng; nước chảy qua các chân cầu ì ầm, dòng sông sâu u tối không còn lóe lên nữa các ánh phản chiếu vàng chói. “Ôi! – cậu tự nhủ – giá như ta rời khỏi hàng lan can và biến mất dưới dòng sông!”
Cái chết lại lởn vởn. Một giờ đồng hồ trôi qua; hoàng hôn buông xuống. Lúc này, cậu có thể khóc. Cau ngồi đó, những giọt nước mắt nóng ấm ứa tràn, rơi xuống bàn tay và đầu gối cậu. Cậu khóc cái chết của thầy, vẻ đẹp mai một của Lisbeth cậu khóc cho Lene, Robert và cô gái Do thái, cậu khóc cho tuổi trẻ của mình đã mất, đã hoài phí.
Đã khuya, cậu ghé vào một quán ăn, nơi trước đây cậu thường chè chén với bè bạn. Bà chủ quán nhận ra cậu. Theo yêu cầu, bà ta dọn cho cậu một suất bánh mì và có lòng mời cậu một cốc vang. Bánh mì cũng như rượu vang, cậu không nuốt trôi. Cậu ngủ qua đêm trên một chiếc ghế dài ở quán ăn. Sáng ra, bà chủ quán đánh thức cậu dậy. Cậu cảm ơn rồi ra đi, vừa đi vừa nhai mẩu bánh mì.
Cậu đi về phía chợ cá, nơi trước đây cậu có thuê một căn phòng làm chỗ tá túc. Gần bồn nước, mấy người bán cá bày hàng tươi sống của họ. Cậu nhìn những con vật xinh đẹp bơi trong các thùng nước. Trước đây cậu thường quan sát như thế, trong tâm tư cậu thường nẩy sinh chút lòng trắc ẩn đối với chúng và đâm ra nổi giận với những người bán cá và khách hàng. Cau nhớ lại trước đây mình đã dạo chơi ở đây, ngắm nhìn và thương tình các chú cá mà cảm thấy buồn. Từ ấy, bao ngày đã trôi qua, biết bao nước cũng đã tuôn chảy trong lòng sông. Cậu rất rầu lòng, cậu vẫn còn nhớ điều đó, nhưng vì đâu mà buồn thì cậu không biết. Cứ thế các cảm giác u sầu đau đớn, thất vọng, vui vẻ diễu qua; chúng nhạt đi tái xám, mất dần chiều sâu và ảnh hưởng, rồi cuối cùng một ngày kia đến, cậu không tìm thấy lại được nữa những gì trước đây ai đã làm cho cậu bao đau khổ. Các nỗi đau cũng vậy, như những chiếc lá lìa cành và héo đi. Nỗi đau hôm nay của cậu cũng sẽ tàn héo sao? Phải chăng có ngày rồi nỗi xót xa của cậu vì thầy đã qua đời, ra đi vẫn tức giận cậu sẽ trở nên vô bổ? Phải chăng không còn một nhà xưởng nào mở cửa nữa cho cậu để cậu có thể tận hưởng ở đó niềm khoái cảm sáng tạo và cất khỏi tâm tư mình gánh nặng về mọi hình ảnh ấy? Đúng, chắc chắn thế, nỗi buồn này, nỗi tuyệt vọng chua chát này rồi cũng qua đi, một ngày nào đó sẽ chỉ còn là ký ức xa xưa đang tan biến, và cậu không nhớ tới nó nữa. Không có gì vững bền, nỗi đau cũng vậy thôi.
Trong khi nhìn cá bơi và mải mê suy nghĩ, cậu nghe có ai kín đáo gọi tên mình.
“Goldmund!” – Tiếng gọi nghe dè dặt. Cậu quay lại, đó là một cô gái mảnh khảnh ốm o, có đôi mắt u buồn xinh đẹp. Cậu không biết cô ta.
– Goldmund! Anh đó ư? – Giọng nói có vẻ ngập ngừng. – Anh trở về thành phố này từ bao giờ? Anh không nhận ra em sao? Em là Marie.
Nhưng cậu vẫn không nhớ ra. Cô ta phải nhắc lại mình là con gái người chủ nhà trước đây cậu đã ở trọ và rằng bữa sớm cậu ra đi, cô đã nấu sữa mời cậu ở gian nhà bếp. Nhắc lại chuyện đó, cô đỏ mặt bẽn lẽn.
Phải rồi, đúng là Marie, cô gái bé nhỏ gầy gò, chân đi cà nhắc, bấy giờ đã quan tâm đến cậu, luôn trìu mến và dè dặt. Cậu liền nhớ lại tất cả: Cô gái chờ đón cậu từ sớm tinh mơ, tỏ ra buồn rầu về việc cậu ra đi; nấu sữa mời cậu ăn, cậu đã trao, và em đã nhận một nụ hôn với lòng ái mộ và ưu tư như trong một lễ cưới. Cậu chỉ nhớ một lần rồi thôi. Hồi ấy em còn là một cô bé. Nay em đã lớn, có đôi mắt đẹp nhưng vẫn đi khập khiễng, và có vẻ gầy. Cậu trao bàn tay cho em, sung sướng vì dù sao trong thành phố cũng còn có một người nhớ đến mình và vẫn giữ lòng thương mến.
Marie kéo cậu đi; cậu chỉ cưỡng lại yếu ớt. Trong căn phòng còn treo ở tường bức họa cậu đã vẽ, còn cả chiếc cốc màu đỏ hồng ngọc để trên bệ gần lò sưởi, cậu phải ở lại ăn sáng; người ta còn mời cậu ở lại chơi vài hôm, vui mừng vì đã gặp lại cậu. Tại đây, cậu được biết tin về những gì đã xảy ra ở nhà thầy. Niklaus không bị nạn dịch hạch mang đi mà chính là nàng Lisbeth xinh đẹp đã mắc bệnh, thậm chí rất nặng, ông thân sinh kiệt sức vì chăm sóc con gái, rồi qua đời trước khi cô lành hẳn bệnh. Nàng thoát khỏi hiểm nghèo nhưng mất đi vẻ đẹp vốn có.
– Xưởng điêu khắc nay bỏ trống – ông chủ nhà cho biết. – Đối với một nghệ sĩ có tài, đã sẵn ở đó một mái nhà tốt lành và khối tiền bạc. Goldmund, nên nghĩ đến chuyện ấy đi! Nàng không đáp lại “không” đâu. Nàng không có sự lựa chọn nào khác.
Cậu cũng biết các sự kiện đã xảy ra thời nạn dịch. Dân chúng đã đốt cháy một bệnh viện và dùng bạo lực chiếm các nhà giàu có để đốt phá rối loạn, đức giám mục chạy trốn. Bấy giờ Hoàng đế đang ngự giá ở những vùng lân cận, đã cử đến một khâm sai, bá tước Heinrich. Con người ấy quả là gan dạ, với một số kỵ sĩ và quân lính ông đã lập lại trật tự trong thành phố. Và người ta mong vị giám mục trở về. Ngài bá tước đã có những đòi hỏi quá ngặt nghèo đối với các thị dân, người ta cũng quá ớn mụ nhân tình của ông ta. Đáng đem mụ Agnés ấy ném vào vạc dầu ở địa ngục. Ôi, chẳng bao lâu nữa họ cũng ra đi thôi. Thay vì đức giám mục tốt bụng, hội đồng thành phố đã chán ngấy tay quan triều và kẻ võ biền ấy, vốn được Hoàng đế ân sủng, luôn tiếp các sứ thần và các đoàn đại biểu không khác gì một vị hoàng tử.
Đến lược vị khách kể lại những gì mình đã trải qua. Buồn rầu, cậu nói:
– Ôi! Đây là những chuyện người ta chẳng nói đâu. Tôi đã lê gót khắp chốn, nơi nào cũng bị nạn dịch, xác chết giăng đầy, người người hốt hoảng, suy sụp vì lo âu. Tôi may mắn còn sống sót. Có lẽ một ngày nào đó người ta sẽ quên hết. Tôi trở về thì thầy tôi đã qua đời. Xin cho tôi ở đây mấy hôm; lại sức, tôi lại lên đường.
Đâu phải vì muốn nghỉ dưỡng sức mà cậu nấn ná. Cậu còn ở vì cậu thất vọng và do dự, vì các kỷ niệm những thời được hạnh phúc làm cho thành phố đối với cậu trở nên thân thiết, và bởi vì tình yêu của em Marie đáng thương khiến cậu thấy tốt lành. Cậu không có gì đền đáp lại, chỉ có chút lòng nhân từ, chút lòng trắc ẩn; thái độ tôn thờ thầm lặng và khiêm nhường của cô gái sưởi ấm lòng cậu. Nhưng còn hơn tất cả điều giữ cậu lại chính là niềm khao khát được trở lại làm nghệ sĩ, cho dù không có xưởng, thậm chí với những phương tiện tạm bợ.
Mấy hôm liền, Goldmund chỉ vẽ không làm gì khác. Marie sắm cho cậu giấy và ngòi bút; cậu ở trong phòng nhiều giờ, trải rộng những tờ giấy khổ lớn, vẽ những khuôn mặt tinh tế, lúc thì phác họa vội, lúc thì nắn nót với bao yêu thương, thể hiện ra trên giấy các hình ảnh tuôn tràn từ tâm khảm mình. Nhiều bận cậu vẽ gương mặt Lene và nụ cười của em đầy hài lòng, tình yêu và tính hung dữ của em sau cái chết của kẻ du thủ du thực. Cậu ghi lại đúng nét mặt ấy trải qua đêm cuối cùng khi em đang lịm đi, sắp trở về nơi cát bụi. Cậu vẽ một bé trai nông dân cậu đã trông thấy nằm chết, nắm chặt hai bàn tay nhỏ nhắn trên ngưỡng cửa nhà bố mẹ nó. Cậu vẽ một chiếc xe chất đầy xác người chết do ba con ngựa gầy tha thưởng kéo, theo sau có mấy người phu tay cầm những chiếc sào dài, liếc nhìn qua các kẽ những chiếc mũ chụp đen chỉ để hở mắt. Nhiều lần, cậu lấy lại hình ảnh Rébecca, người con gái Do Thái dong dỏng cao với đôi mắt rầu rĩ, cái miệng hẹp và tự hào, gương mặt bị các nỗi đau và bất bình tàn phá vẫn lộ vẻ cao ngạo và chua chát, bóng hình trẻ trung và duyên dáng ấy lẽ ra chỉ để dâng hiến cho tình yêu. Cậu cũng tự họa hình ảnh bản thân mình, anh chàng đi lang thang, con người say đắm tình yêu, kẻ trốn chạy đã thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, người vũ công đã tham gia vào các cuộc chè chén trác táng của bọn đàn ông khát thèm sự sống. Nghiêng mình trên tờ giấy, cậu say sưa vẽ lại gương mặt con người sống yên ổn và kiêu kỳ của Lisbeth đúng như cậu đã biết trước đây, bộ mặt nhăn nhó của u già Margrit, diện mạo đáng nể sợ và thân yêu của thầy Niklaus. Nhiều lần, cậu cũng phác họa với những nét bút thanh mảnh và mò mẫm một hình bóng phụ nữ cao lớn, Bà Mẹ của trái Đất, ngồi với hai tay ôm bầu vú và đôi mắt u buồn trên môi thoáng hiện một nụ cười. Trải mình với các cách nhìn, cảm nhận bàn tay mình tạo cho chúng một hình dáng, làm chủ sự thể hiện ấy đối với cậu là một điều tốt lành vô hạn. Trong mấy hôm, cậu vẽ tràn hết các tờ giấy Marie đã đem đến cho cậu. Từ tờ giấy cuối cùng, cậu cắt ra một mảnh với mấy nét bút cậu khắc họa lên đó gương mặt Marie, đôi mắt xinh đẹp của em và khuôn miệng như muốn từ bỏ mọi sự đời. Cậu tặng em bức vẽ ấy.
Vẽ như vậy, cậu giải tỏa và làm vơi nhẹ tâm hồn mình đang trĩu nặng, cho tuôn tràn các tâm tư không sao ngăn lại được, đã căng đến tột độ. Trong khi vẽ, cậu không biết mình đang ở đâu, thế giới của cậu chỉ có chiếc bàn, những tờ giấy trắng, và tối lại, thêm cây đèn. Về sau thức giấc, cậu mới ý thức những gì đã diễn ra gần đây, phát hiện thấy nay một cuộc lữ hành mới lại đặt ra đối với cậu là không thể nào tránh khỏi. Rồi cậu đi lang thang trong thành phố, phân thân kỳ lạ giữa hai cảm giác, gặp lại và vĩnh biệt.
Trong các cuộc ra phố ấy, cậu gặp một người đàn bà, cái nhìn của ả đã tập hợp các tình cảm lạc hướng của cậu chung quanh một trung tâm mới. Một người đàn bà cỡi ngựa, một phụ nữ cao lớn có đôi mắt xanh hơi lạnh lùng và đầy tính hiếu kỳ, các cánh tay chắc và khỏe; trên mặt ả nở rộ tính khoái cảm, thú hưởng lạc, sức mạnh và lòng tự tin, lộ rõ ý muốn săn tìm của lạ trăng hoa. Hơi kiêu kỳ và hãnh diện, ả đi tới trên mình con ngựa nâu. Mặc dù quen thói điều khiển, ả không tỏ ra khép kín hoặc xa cách; dưới đôi mắt hơi lạnh lùng, mũi ả phập phồng, mở ra cho mọi hương vị của trần thế, và cái miệng rộng đầy nhục cảm của ả dường như đạt đến mức độ cao nhất của sự nhận và cho. Ngay lúc trông thấy ả, đôi mắt Goldmund mở to, cậu như bị ám bởi ý muốn đọ sức với người phụ nữ kiêu kỳ này. Chiếm lĩnh ả đối với cậu là một công việc cao cả và nếu có gãy cổ trong khi đến với ả thì theo sự cảm nhận của cậu, không phải là một mục đích đáng coi thường. Ngay lập tức cậu có cảm tưởng con sư tử cái tóc hoe vàng này với sự phong phú về các giác quan và tâm hồn của ả, là một đối tác xứng đáng với cậu, rằng ả sẽ khiến mình cho mọi cuộc xung phong vừa hoang dã vừa âu yếm, và sự từng trải di truyền qua máu đã làm cho ả quen với các cơn si mê.
Ả đi qua trên mình ngựa, cậu đưa mắt trông theo. Giữa những bím tóc hoe vàng sáng màu và cổ áo dạ xanh của ả, cậu nhận thấy cái gáy đầy đặn, khỏe và kiêu sa của ả, tuy nhiên căng tròn với làn da mịn màng như của một đứa trẻ. Cậu đánh giá, đây là người phụ nữ kiều diễm nhất cậu từng thấy. Cái gáy ấy, cậu muốn ôm lấy dưới bàn tay mình, và bứt ra từ đôi mắt ấy điều bí ẩn màu thanh thiên sắc lạnh của chúng. Ả là ai? Một câu hỏi đủ để cho cậu biết về ả. Cậu hiểu ra ngay rang ả ngự ở tòa lâu đài, ả là Agnès, người tình của viên khâm sai. Cậu không ngạc nhiên về điều ấy, ả có thể là hoàng hậu cũng nên. Dừng chân bên một bồn nước, cậu đứng lại nhìn hình ảnh đích thực của mình. Hình ảnh của cậu hòa hợp như anh em với hình ảnh người phụ nữ có bộ tóc hoe vàng, chỉ có điều cậu trông giống hệt một người rừng. Cậu liền đi tìm một hiệu thợ cạo quen biết khéo nói để nhờ anh ta cắt tóc, cạo râu và chải tóc cho ra dáng đẹp đẽ.
Cuộc săn đuổi kéo dài hai ngày. Agnès vừa ra khỏi tòa lâu đài, chàng trai tóc vàng không quen biết đã đứng sẵn bên cổng, chăm chăm vào đôi mắt nàng những cái nhìn ngưỡng mộ. Agnès dong ngựa đi quanh các tường thành, chàng trai không quen biết lấp ló sau các cành liễu. Agnès đến nhà kim hoàn và ra khỏi xưởng thì lại gặp người lạ mặt. Ả nhìn lướt qua với ánh mắt kiêu sa, hai cánh mũi thở phập phồng. Ngày hôm sau, vừa cỡi ngựa đi một chặng đường, ả lại gặp anh chàng đứng đợi sẵn; nàng tỏ ý thách thức bằng một nụ cười. Cậu cũng trông thấy ngài khâm sai, một con người đẹp mã, đầy tự tin, ai nhìn mặt cũng không thể không coi trọng, nhưng ông ta đã có những sợi tóc điểm bạc, trên nét mặt đã mang dấu ấn của những nỗi lo lắng: Goldmund cảm thấy mình có ưu thế hơn.
Hai ngày ròng rã ấy đem lại cho cậu nhiều vui thú. Cậu hớn hở với một sức trẻ mới. Ra mắt với người phụ nữ này và khiêu chiến với ả quả là thú vị. Hy sinh sự tự do của mình cho một sắc nước hương trời như thế thật là tốt đẹp. Đó là một tình cảm tuyệt vời, đáng khích lệ để trao mạng sống của mình theo may rủi cho con súc sắc ấy.
Sáng ngày thứ ba, Agnès cỡi ngựa ra khỏi lâu đài, theo sau chỉ có một tên gia nhân. Đôi mắt ả liền sục tìm người theo đuổi mình, sẵn sàng nghênh chiến nhưng có hơi lo âu. Tốt, chàng trai đã có mặt ở đó. Giao cho tên gia nhân một công việc, ả còn lại một mình, rong ngựa đi qua cổng và vượt cầu. Chỉ một lần, ả quay đầu lại. Ả thấy người lạ mặt vẫn theo dõi mình. Trên đường đến nhà thờ riêng Saint-Guy cho các cuộc hành hương vào giờ này vắng người, dừng lại chờ anh chàng. Cậu để cho ả tha hồ mong ngóng đến nửa tiếng đồng hồ. Lững thững bước tới, cậu không muốn mình có dáng bơ phờ. Tươi tắn, niềm nở, cậu ngậm trong miệng một chiếc đũa con cắm vào một quả mọng cây tầm xuân. Ả xuống ngựa, cột dây cương vào một gốc cây rồi đứng tựa giàn tầm xuân bên một bức tường, nhìn người đã theo đuổi mình bước tới. Cậu dừng chân, ngả mũ chào và nhìn vào đôi mắt ả.
– Tại sao anh chạy theo sau tôi, anh muốn gì ở tôi? – ả hỏi?
– Ôi! Anh rất muốn tặng em một món quà hơn là nhận của em một vật gì đó. Bây giờ đây anh muốn dâng hiến mình cho em, hỡi phu nhân kiều diễm, em muốn làm gì anh thì làm!
– Được rồi, để ta xem thử có thể làm gì với anh. Nhưng nếu anh tưởng có thể hái ở nơi đây một bông hoa nhỏ mà không gặp nguy hiểm thì anh lầm. Ta chỉ có thể yêu những kẻ đàn ông khi cần, dám đem mạng sống của họ gánh chịu rủi ro trong chuyện ấy.
– Em có thể tùy ý sử dụng anh.
Chầm chậm, ả cởi khỏi cổ mình sợi dây chuyền mảnh bằng vàng và trao cho cậu:
– Anh tên chi?
– Goldmund.
– Vậy thì Goldmund, anh chẳng có khuôn miệng vàng, em sẽ nếm xem miệng anh có phải bằng vàng không. Nghe rõ em đây. Tối nay, anh đem chiếc dây chuyền này trình diện ở tòa lâu đài, nói rằng anh đã nhặt được. Đừng để nó rời khỏi tay anh, em muốn đích thân nhận lại. Anh đến như anh đang ở đây, cứ để cho họ coi anh là một kẻ ăn xin. Nếu một trong bọn đầy tớ của em có thô bạo với anh, hãy bình tĩnh. Anh cần phải biết là ở lâu đài chỉ có hai người trong đám gia nhân của em là đáng tin cậy. Bác giám mã Max và người hầu phòng của em, Berta. Anh cần gặp một trong hai người đo và để họ đưa anh đến chỗ em. Còn với mọi kẻ khác, kể cả ngài bá tước, anh hãy ứng xử thận trọng, họ đều là thù địch. Anh đã được báo trước rồi đó: Việc này có thể trả giá bằng mạng sống của anh.
Ả trao bàn tay cho cậu; mỉm cười, cậu bắt lấy, gởi một nụ hôn dịu dàng và sờ vào má ả. Rồi cậu nhặt sợi dây chuyền vàng, đi xuống triền sông, về phía tòa giám mục. Các ruộng nho đều trơ cành, tất cả lá đã bay theo gió. Goldmund khẽ lắc đầu và mỉm cười khi thấy bên dưới kia thành phố trông đẹp và đáng yêu làm sao! Cách đây mấy hôm, cậu buồn ủ rũ, buồn vì ngay cả cảnh khốn cùng và nỗi vất vả cũng chóng qua đi. Nay thì chúng đã qua rồi, bay đi như chiếc lá vàng rơi khỏi thân cây. Đối với cậu. dường như tình yêu không còn có cơ tỏa sáng nữa như cậu đã hớn hở với người phu nữ tươi cười tóc hoe vàng ấy, mà thân hình dong dỏng cao, tràn trề sức sống đã gợi lại với cậu hình ảnh của thân mẫu đúng như trước đây ở tu viện Mariabronn cậu đã gặp trong giấc mơ và vẫn giữ lại trong tim mình. Mới ngày hôm qua cậu chưa tin được là thế gian còn có thể hiện ra dưới mắt mình tươi vui đến thế, rằng một lần nữa trong máu của mình, cậu có thể cảm nhận dòng sông sự sống, niềm vui và tuổi trẻ đang cuồn cuộn chảy tràn bờ. Trải qua những tháng hãi hùng ấy, cai chết đã chừa cậu lại, cậu còn sống, may mắn bao nhiêu!
Tối hôm ấy, cậu đến trước tòa lâu đài. Trong sân nhốn nháo. Người ta tháo yên cương ra khỏi những con ngựa, các sứ giả vừa về tấp nập. Một đám các chức sắc nhà thờ và các linh mục được đưa vào qua cổng chính và bước lên cầu thang trong nhà. Goldmund muốn đi theo họ; người gác cửa giữ cậu lại. Cậu đưa sợi dây chuyền vàng ra và bảo là cậu được lệnh chỉ trao lại tận tay cho phu nhân hoặc cho người hầu phòng. Người ta giao cho một gia nhân gặp bà chủ, cậu phải chờ lâu ở các hành lang. Rồi một phụ nữ nhanh nhẹn, xinh đẹp đi qua trước mặt cậu, hỏi nhỏ: “Ông là Goldmund?” và ra ám hiệu cho cậu đi theo. Chị ta vào khuất trong cửa phòng, một chốc trở ra rồi ra hiệu cho cậu vào.
Cậu bước qua một căn phòng nhỏ treo đầy các áo choàng và các trang phục bốc ra mùi nằng nặng của các loại da lông và thoang thoảng hương thơm; các kiểu mũ của phụ nữ để trên các giá đỡ bằng gỗ, trong một chiếc kệ bày ra đủ loại giày. Cậu chờ ở đó nửa giờ đồng hồ, hít lấy hơi từ các trang phục đưa tay sờ vào các áo lông thú, tò mò mỉm cười với các đồ vật đẹp mắt ấy giăng đầy quanh cậu.
Cuối cùng thì cánh cửa dẫn vào phòng mở ra, lần này không phải người hầu phòng mà đích thân Agnès đến trong bộ áo màu xanh nhạt với tấm lông thú vắt trên cổ. Đi từng bước chầm chậm, ả bước đến với cậu đang đứng chờ, trang nghiêm nhìn cậu trong đôi mắt xanh lạnh lùng.
– Em để anh phải chờ – Ả nói nhỏ – theo em nghĩ thì bây giờ chúng ta được an toàn. Ngài bá tước đang tiếp một đoàn đại biểu nhà thờ, ông ấy ăn tối và còn đàm phán dài dòng với họ; các buổi gặp với các linh mục như vậy kéo dài không dứt. Giờ này là của hai ta. Chúc mừng Goldmund đã đến đây!
Ả nghiêng mình trên người cậu, ghé sát môi mình vào môi của cậu; trĩu nặng ham muốn, họ chào nhau lặng lẽ qua nụ hôn đầu tiên. Chầm chậm, cậu đặt bàn tay lên gáy ả. Cô nàng dẫn cậu qua cánh cửa vào phòng ngủ của mình, trong không gian cao ráo và sáng trưng dưới ánh sáng những ngọn nến. Trên bàn đã bày sẵn bữa ăn. Họ ngồi vào. Với thái độ chăm sóc tinh tế, ả mời cậu ăn bánh mì và bơ cùng một ít thịt, rồi rót rượu vang trắng trong một chiếc cốc đẹp màu xanh nhạt; hai người cùng ăn uống chung đĩa, chung cốc, bàn tay họ không ngơi đùa cợt với nhau.
– Từ đâu anh bay đến đây? – ả hỏi. Con chim tuấn tú của em, anh là một chiến binh, hay một nhà thơ trữ tình, hoặc nữa chỉ là một kẻ lang thang khốn khó?
– Anh là tất cả những gì em muốn. – Cậu đáp, mỉm cười dịu dàng. – Anh dành tất cả cho em. Nếu em muốn thì anh là một nhà thơ trữ tình, và em là cây đàn luých của anh; khi anh đặt các ngón tay lên cổ em và chơi đàn trên em, người ta sẽ nghe các thiên thần ca hát. Lại đây con tim của anh, đâu phải anh đến đây để ăn những chiếc bánh ngon và uống rượu vang trắng của em, anh đến chỉ vì em.
Với một cử chỉ nhẹ nhàng, cậu cởi chiếc khăn choàng lông thú màu trắng khỏi cổ ả, đưa tay mân mê gỡ các áo xuống khỏi cơ thể ả. Bên ngoài, các quan triều và các linh mục đang bàn cãi với nhau, đám gia nhân đi đi lại lại, mảnh trăng lưỡi liềm mỏng hoàn toàn chìm sau rặng cây, đôi tình nhân không hề hay biết. Với họ, thiên đường đã mở ra; họ cuốn hút vào nhau, ôm ghì nhau, họ rơi thăm thẳm trong đêm tối đầy các hương vị, từ đó nhú lên các nụ hoa trắng bí ẩn, từ các bàn tay mân mê và biết cảm nhận họ hái các trái cây bao ham muốn. Chưa bao giờ nhà thơ trữ tình chơi một bản nhạc trên một chiếc đàn luých như thế, phát ra những âm vang thánh thót dưới những ngón tay khỏe và thành thạo như thế.
– Goldmund! – ả thầm thì, hăng say – Ôi! Anh quả là quyến rũ! Với anh với thứ độc dược dịu dàng bằng vàng, em những muốn có một đứa con. Còn hơn nữa, em muốn chết với anh. Anh yêu, hãy uống cạn chiếc cốc là em đi, đốt thiêu em đi, giết chết em đi!
Trong họng ả ư ử nốt nhạc hạnh phúc khi cậu thấy tính chất trong các đồng tử ả tan ra để cho sự mềm yếu thay vào đó. Qua tròng mắt ả truyền lan một rung động dịu nhẹ lịm dần như thể cái rùng mình trắng bạc trên da các con cá đang giẫy chết, một màu vàng tai tái như thể ánh phản chiếu quyến rũ trên dòng sông. Cả niềm hạnh phúc một con người có thể được sống, đối với cậu dường như tập trung nơi ấy.
Ngay sau đó, run rẩy khép mi, nằm thượt, cậu kín đáo ngồi dậy chui vào áo quần lót. Thở ra, cậu thầm thì trong tai ả:
– Kho báu đáng yêu, anh rời em đây. Anh không có ý muốn chết dưới bàn tay ông bá tước ấy. Mấy hôm trước anh vẫn muốn một lần nữa chúng ta cùng được hạnh phúc với nhau. Còn một lần nữa, còn nhiều lần nữa!
Ả vẫn nằm, lặng im cho đến khi cậu mặc xong áo quần. Bấy giờ cậu kéo nhẹ chiếc khăn đắp lên mình ả, rồi hôn lên đôi mắt ả.
– Goldmund – ả bảo – sao anh lại ra đi? Mai lại đến nhé! Nếu có gì nguy hiểm, em sẽ báo trước. Mai lại đến, đến nhé!
Ả kéo chiếc dây rung chuông. Ở cửa buồng gởi áo, người hầu phòng nhận tín hiệu, liền đưa cậu ra khỏi tòa lâu đài. Cậu những muốn cho cô ta một đồng tiền vàng, phút chốc, cậu cảm thấy xấu hổ về sự nghèo túng của mình.
Khoảng nửa đêm, cậu đi qua chợ cá, ngước mắt nhìn về phía ngôi nhà. Đã khuya; chẳng còn ai thức. Cậu buộc phải ngồi qua đêm ở ngoài. Rất ngạc nhiên, cậu thấy cửa nhà vẫn mở. Cậu bước nhẹ vào, không một tiếng động, rồi khép cửa lại sau lưng mình. Cần phải đi qua nhà bếp để lên gác và vào phòng. Đang còn ánh sáng. Marie ngồi bên bàn ở bếp, bên một cây đèn con thắp dầu. Sau hai ba giờ mong ngóng, em vừa ngả đầu ngủ thiếp. Cậu bước vào, em giật mình đứng lên.
– Ôi Marie, em vẫn còn thức! – Cậu nói.
– Em còn thức, không thì anh đã thấy cửa đóng.
– Anh lấy làm tiếc đã để em chờ. Khuya rồi. Đừng ghét anh.
– Goldmund, em không ghét anh đâu, em chỉ hơi buồn thôi.
– Đừng nên buồn. Sao mà buồn?
– Ôi Goldmund! Em ước muốn có được sức khỏe tốt, đẹp và lành mạnh bao nhiêu! Khi ấy anh chẳng phải đi đêm đến các nhà khác, yêu những phụ nữ khác. Vậy anh hãy cũng ở bên em một lần thôi, anh hãy có chút tình với em.
Trong giọng nói dịu dàng của em, không có một ánh hy vọng, không có vị đắng cay, chỉ có sự buồn bã. Cậu đứng bên Marie, lúng túng. Em khiến cậu thấy xót xa, cậu chẳng biết nói sao. Từ từ, cậu đặt một bàn tay lên đầu em, vuốt ve tóc em. Marie đứng yên, cảm nhận qua các ngón tay cậu trong mái tóc mình một rung động, em khóc thút thít và bẽn lẽn nói:
– Goldmund, bây giờ anh lên phòng đi. Em đã nói những điều vô nghĩa lý. Em buồn ngủ lắm rồi. Chúc anh ngủ ngon!