Cái Ghế Trống
PHẦN 2: CON NAI CÁI LÔNG TRẮNG – CHƯƠNG 13
Bên ngoài cửa sổ là một tổ ong bắp cày lớn.
Mary Beth McConnell đã kiệt sức đăm đăm nhìn nó, tựa đầu vào ô kính bám đầy dầu mỡ của cái nhà tù đang giam giữ cô.
Cái tổ ong – xám xịt, ẩm ướt, đáng kinh tởm – khiến cô tuyệt vọng, hơn bất cứ thứ gì khác xung quanh cái chốn khủng khiếp này.
Hơn cả những chấn song Garrett cẩn thận lắp bên ngoài cửa sổ. Hơn cả cánh cửa gỗ sồi dày với ba ổ khóa to tướng. Hơn cả ký ức về chuyến đi lê lết cùng Thằng Bọ từ Bến tàu kênh Nước đen.
Cái tổ ong bắp cày có hình nón, chóp chúc xuống đất. Nó nằm trên một chạc ba mà Garrett cắm gần cửa sổ. Cái tổ hẳn phải chứa hàng trăm con ong mình vằn đen và vàng bóng loáng cứ chui ra chui vào qua cái lỗ ở dưới đáy tổ.
Sáng hôm nay, khi cô thức giấc thì Garrett đã đi rồi. Sau khi nằm thêm một tiếng đồng hồ trên giường – chuếnh choáng và buồn nôn do cú đập trời giáng vào đầu đêm hôm qua – Mary Beth lẩy bẩy đứng dậy, nhìn qua cửa sổ. Thứ đầu tiên cô trông thấy là cái tổ ong bên ngoài ô cửa sổ phía sau, sát phòng ngủ.
Lũ ong vốn không tự làm tổ ở đó, chính Garrett đem đặt nó bên ngoài cửa sổ. Đầu tiên, Mary Beth không thể nghĩ ra lý do tại sao. Nhưng rồi, với cảm giác tuyệt vọng, cô hiểu rằng: kẻ bắt giữ cô đã để nó ở đó như lá cờ chiến thắng.
Mary Beth McConnell biết về lịch sử. Cô biết về những cuộc chiến tranh, biết về những đạo quân chinh phục những đạo quân khác. Mục đích của các lá cờ bình thường và của các lá cờ hiệu không chỉ để xác định phe này hay phe kia, mà còn để nhắc nhở là kẻ từng bị đánh bại bây giờ nắm trong tay quyền hành.
Và Garrett đã thắng.
Ờ, gã đã thắng trận đánh ấy, nhưng kết quả của cuộc chiến tranh thì chưa được quyết định.
Mary Beth ấn vào vết thương trên đầu. Đó là một cú đập khủng khiếp nơi thái dương và làm trầy mất ít da. Cô tự hỏi liệu nó có bị nhiễm trùng không.
Mary Beth tìm thấy sợi dây thun trong ba lô, cô buộc vồng mái tóc dài màu nâu lên. Mồ hôi chảy xuống cổ, và cô cảm thấy khát ghê gớm. Cô tắc thở vì cái nóng ngột ngạt trong căn phòng đóng kín. Cô nghĩ tới việc cởi chiếc sơ mi vải bò dày cộp ra – sợ có rắn rết hay nhện, cô bao giờ cũng mặc áo dài tay khi đào bới gần các bụi rậm, các đám cỏ cao. Nhưng bây giờ tuy nóng, cô quyết định không cởi chiếc sơ mi. Cô chẳng biết lúc nào thì kẻ bắt giữ cô trở về, bên trong cô chỉ mặc mỗi chiếc áo lót ren màu hồng, mà Garrett Hanlon thì chắc chắn chẳng cần đến bất cứ sự khuyến khích nào trong cái lĩnh vực ấy.
Liếc nhìn tổ ong lần cuối cùng, Mary Beth rời cửa sổ. Rồi cô lại đi xung quanh ngôi nhà ba phòng tồi tàn, mất công vô ích tìm kiếm khe hở nào đó để trốn thoát. Đây là một ngôi nhà kiên cố, xây dựng từ lâu lắm rồi. Tường dày – làm bằng các khúc cây đẽo sơ sài đóng đinh vào những tấm ván nặng. Bên ngoài ô cửa sổ phía trước là bãi cỏ cao trải rộng đến hàng cây to ở cách đó gần trăm thước. Bản thân ngôi nhà cũng nằm trên một khoảng đất đầy cây to. Nhìn qua ô cửa sổ phía sau – ô cửa sổ có tổ ong bắp cày – cô chỉ trông thấy được, qua những thân cây, mặt nước sáng lấp lánh của cái ao mà ngày hôm qua họ đã đi men theo bờ để vào đây.
Chính những căn phòng tuy nhỏ nhưng sạch sẽ một cách đáng ngạc nhiên. Phòng khách bày chiếc đi văng dài sơn hai màu nâu và vàng kim, mấy chiếc ghế dựa cũ kỹ đặt xung quanh chiếc bàn ăn rẻ tiền, chiếc bàn thứ hai xếp cả chục lọ cỡ một lít vốn đựng nước quả bây giờ đậy nắp lưới, nhốt đầy côn trùng mà Garrett sưu tầm được. Căn phòng thứ hai có một tấm nệm và một tủ gương trang điểm. Căn phòng thứ ba không đồ đạc gì trừ vài hộp sơn màu nâu còn phân nửa để trong góc, xem chừng Garrett mới quét sơn phía ngoài ngôi nhà. Màu sơn tối, gây tâm trạng chán nản và Mary Beth không hiểu tại sao gã lại chọn – cho tới lúc cô nhận ra rằng nó đồng màu với vỏ các thân cây mọc xung quanh. Một kiểu ngụy trang. Và cô lại nghĩ cái điều ngày hôm qua cô đã nghĩ – rằng gã trai thận trọng hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều so với trước đây cô tưởng.
Phòng khách xếp hàng đống đồ ăn – đồ ăn vặt và hàng dãy rau quả đóng hộp – nhãn hiệu Farmer John. Từ các nhãn hộp, một ông chủ trang trại lãnh đạm mỉm cười với Mary Beth, hình ảnh này cũng lỗi thời y như hình ảnh của nhãn hiệu Betty Crocker có từ thập niên 1950. Cô tuyệt vọng lục soát khắp ngôi nhà tìm kiếm nước hoặc sô đa – bất cứ thứ gì uống được – nhưng không tìm thấy gì cả. Trong rau quả đóng hộp sẽ có nước ép, nhưng không có cái mở hộp hay bất cứ dụng cụ gì để mở. Cô còn mang theo ba lô, nhưng đã bỏ lại các dụng cụ khảo cổ ở Bến tàu kênh Nước đen. Cô thử đập một hộp vào cạnh bàn cho vỡ ra, nhưng hộp kim loại cứng quá.
Dưới gác có cái hầm chứa mà người ta xuống qua ô cửa trổ trên sàn căn phòng chính của ngôi nhà. Mary Beth liếc nhìn và rùng mình kinh tởm, sởn gai ốc. Đêm hôm qua sau khi Garrett đi ra ngoài một lúc – Mary Beth thu hết can đảm, lần theo những bậc cầu thang ọp ẹp xuống cái tầng hầm trần thấp tè, tìm kiếm một lối thoát khỏi ngôi nhà kinh khủng này. Nhưng không có lối thoát nào cả – chỉ có hàng chục chai lọ, hộp, túi cũ.
Cô không nghe thấy tiếng Garrett trở về và đột ngột, gã nhảy ào xuống cầu thang, lao tới chỗ cô. Cô thét lên và cố gắng chạy trốn, nhưng việc tiếp theo mà cô nhớ là thấy mình nằm trên sàn nhà bẩn thỉu, máu vấy đầy ngực và đông bết lại trong tóc, còn Garrett, cơ thể bốc mùi lâu ngày chưa tắm gội, từ từ đứng dậy, hai cánh tay vòng ôm lấy cô, ánh mắt dán chặt vào ngực cô. Gã bế cô lên và cô cảm thấy cái ấy của gã cứng ngắc áp sát cơ thể cô trong lúc gã chậm rãi đưa cô lên gác, làm ngơ mọi sự phản kháng…
Không! Mary Beth tự nhủ. Đừng nghĩ tới điều đó.
Đừng nghĩ tới cái đau đớn. Hay nỗi sợ hãi.
Và bây giờ Garret đang ở đâu?
Ngày hôm qua, Mary Beth khiếp sợ trong lúc gã cứ lững thững đi xung quanh ngôi nhà như thế nào thì bây giờ cô cũng khiếp sợ gã bỏ quên cô như thế. Hay thiệt mạng vì một tai nạn.
Hay ăn đạn của các cảnh sát đang tìm kiếm cô. Và cô sẽ chết khát ở đây. Mary Beth McConnell nhớ tới dự án mà giáo viên hướng dẫn đề tài tốt nghiệp cho cô và cô tham gia: công trình khai quật do Hội Sử học Bắc Carolina tài trợ được tiến hành đối với một ngôi mộ từ hồi thế kỷ XIX, để thử ADN trên thi thể chôn bên trong ngôi mộ xem liệu đó có phải là thi thể của hậu duệ Hầu tước Francis Drake như một truyền thuyết địa phương vẫn khẳng định không. Khi nhấc nắp quan tài ra, cô kinh hoàng thấy các xương cánh tay tử thi giơ lên, và vẫn còn những vết cào phía bên trong nắp quan tài.
Người đàn ông đã bị chôn sống.
Ngôi nhà này sẽ trở thành chiếc quan tài của cô. Và chẳng một ai…
Gì thế kia? Nhìn qua ô cửa sổ phía trước, Mary Beth cho rằng cô đã trông thấy một bóng người chuyển động ngay ở bìa rừng đằng xa. Qua các bụi rậm và lá cành, cô nghĩ đó có lẽ là một người đàn ông. Vì quần áo và chiếc mũ rộng vành ông ta đang mang thẫm màu, cùng với tư thế tự tin, dáng điệu, cô tự nhủ thầm: ông ta trông giống một nhà truyền giáo nơi hoang dã.
Nhưng khoan nào… Thực sự có ai ở kia ư? Hay đây chỉ là ánh sáng trên những tán cây? Mary Beth chẳng thể khẳng định được.
“Ở đây!” cô kêu lên. Tuy nhiên, cửa sổ bị đóng kín bằng đinh, và thậm chí nếu nó có mở thì cô cũng không chắc ông ta sẽ nghe thấy tiếng kêu yếu ớt phát ra từ cổ họng khô khốc của cô, ở khoảng cách xa ngần này.
Mary Beth vớ lấy cái ba lô, hy vọng cô vẫn mang theo chiếc còi mà bà mẹ mắc chứng hoang tưởng của cô mua cho cô phòng trường hợp cần tự vệ. Mary Beth đã bật cười trước ý tưởng đó – một chiếc còi phòng trường hợp bị cưỡng hiếp ở Tanner’s Corner? – còn bây giờ thì cô đang tuyệt vọng tìm kiếm nó.
Nhưng chiếc còi đâu mất rồi. Có thể Garrett phát hiện ra nó và lấy nó đi khi Mary Beth bất tỉnh trên tấm nệm đẫm máu. Ờ, dù sao cô cũng sẽ kêu cứu – kêu cứu to hết mức có thể, bất chấp cái cổ họng đang khát cháy. Mary Beth vớ lấy một trong những chiếc lọ đựng côn trùng, định ném nó qua kính cửa sổ. Cô đưa nó về phía sau như một cầu thủ ném bóng chuẩn bị ném cú cuối cùng chẳng ai đánh được. Rồi bàn tay cô lại hạ xuống. Không! Nhà truyền giáo đã biến mất. Chỗ ông ta xuất hiện lúc nãy bây giờ chỉ là một thân liễu sẫm màu, cỏ và một cây nguyệt quế, đung đưa trong gió nóng bỏng.
Có thể đó là tất cả những gì Mary Beth vừa nhìn thấy.
Có thể ông ta chưa hề ở đấy.
Đối với Mary Beth McConnell – nóng, khiếp hãi, bị cơn khát hành hạ – cái thực và cái ảo bây giờ hòa trộn vào nhau và mớ truyền thuyết mà cô từng nghiên cứu về vùng nông thôn Bắc Carolina đáng sợ này dường như đều trở nên thực. Có thể nhà truyền giáo ấy chỉ là một trong số các nhân vật tưởng tượng, giống như Nàng tiên vùng Hồ Drummond.
Giống như những hồn ma khác của đầm lầy Sầu Thảm.
Giống như Con Nai Cái Lông Trắng trong truyền thuyết của người Anh điêng – câu chuyện đang trở nên giống đến đáng sợ câu chuyện xảy ra cho chính cô.
***
Đầu đau nhức, mặt mày xây xẩm vì nóng, Mary Beth nằm xuống chiếc đi văng cũ rích, nhắm mắt lại, nhìn những con ong bắp cày bay lượn gần đó, rồi chúng chui vào cái tổ xám xịt, lá cờ chiến thắng của kẻ bắt giữ cô.
Lydia cảm thấy bàn chân cô chạm xuống đến lòng suối và cô đạp để ngoi lên.
Ngạt thở, phì nước trong miệng ra, cô thấy mình đã trôi xuôi theo dòng suối tới một vũng lầy cách cối xay chừng năm mươi feet. Hai bàn tay vẫn bị trói quặt về phía sau, cô đạp mạnh để lấy thăng bằng, nhăn mặt đau đớn. Mắt cá chân cô đã bị trẹo hoặc vỡ do đập vào guồng bánh xe nước khi cô nhảy xuống cửa cống. Tuy nhiên nước chỗ này sâu phải tới sáu hoặc bảy feet và nếu không đạp cô sẽ chết đuối.
Cảm giác đau ở mắt cá chân thật kinh khủng, nhưng Lydia cố gắng hết sức để ngoi lên. Cô nhận ra rằng bằng cách hít không khí đầy phổi và lật ngửa người, cô có thể nổi và giữ được mặt bên trên mặt nước trong lúc dùng bàn chân lành lặn đạp dần dần vào bờ.
Vừa di chuyển chừng năm feet thì cô cảm thấy một cái gì đó lạnh lẽo trườn qua phía sau cổ, quấn xung quanh đầu và tai, hướng tới mặt cô. Rắn! Cô khiếp đảm nhận ra. Vụt hiện lên trong đầu một ca cấp cứu tháng trước – người đàn ông bị rắn chuông nước cắn, cánh tay sưng to gần gấp đôi, anh ta đau đến cuồng loạn. Cô xoay tròn và con rắn cuồn cuộn trườn qua miệng cô. Cô thét lên. Nhưng với hai lá phổi hết không khí và chẳng có gì giữ cho nổi, cô chìm xuống nước, bắt đầu ngạt thở. Cô không còn nhìn thấy con rắn nữa. Nó đâu rồi, đâu rồi? Cô điên cuồng nghĩ. Một phát cắn trúng mặt có thể khiến cô bị mù. Trúng động mạch cảnh hoặc tĩnh mạch cảnh thì cô tiêu đời.
Đâu rồi? Nó ở bên trên cô à? Đang chuẩn bị mổ một phát?
Xin Người, xin Người, xin hãy cứu con, cô nghĩ tới vị thần hộ mệnh.
Và có lẽ là lời cầu xin của Lydia đã thấu tới tai vị thần đó. Vì khi lại ngoi lên khỏi mặt nước, cô chẳng còn nhìn thấy bóng dáng con vật đâu. Cuối cùng thì hai bàn chân đi bít tất dài cũng chạm được đến lòng suối nhớp nhúa – cô bị tuột giày khi lao xuống nước. Cô ngừng một chút, hít thở và cố gắng trấn tĩnh. Cô chậm chạp, nhọc nhằn lê về phía bờ, trèo lên cái dốc dựng đứng đầy bùn lầy, đầy những cành cây trơn trượt, tầng tầng lớp lớp lá mục – nó khiến cô cứ loạng choạng trèo lên hai bước thì lại tụt một bước. Hãy cẩn thận với đất sét Carolina, cô tự nhắc nhở mình, nó sẽ giữ người ta y như cát lầy vậy.
Khi Lydia vừa lảo đảo bò được lên cạn, một phát đạn, ở rất gần, nổ xé không khí.
Lạy Chúa, Garrett có súng! Gã đang bắn!
Lydia lại buông mình xuông nước, lặn cho chìm nghỉm. Cô lặn lâu hết mức có thể nhưng rốt cuộc vẫn phải ngoi lên. Hổn hển, cô ngoi lên khỏi mặt nước đúng lúc con hải ly quật đuôi phát nữa, tạo tiếng nổ to thứ hai. Con vật mất hút về phía cái đập của nó một cái đập lớn, dài tới hai trăm feet. Cô cảm thấy muốn bật cười rũ rượi trước nỗi sợ hãi ảo, nhưng cố gắng kiềm chế.
Rồi Lydia ngã dúi vào đám lau lách, bùn lầy. Cô nằm nghiêng người, hổn hển thở và phì nước khỏi miệng. Năm phút sau cô lấy lại được hơi thở. Cô vặn mình ngồi dậy, nhìn xung quanh.
Không thấy bóng dáng Garrett đâu cả. Lydia dồn hết sức để đứng lên. Cô cố gắng dứt hai bàn tay ra, tuy nhiên, mặc dù bị ướt sũng, băng dính vẫn dính chặt. Từ đây, cô có thể trông thấy cái ống khói cháy dở của cối xay. Cô xác định phương hướng và xác định được hướng phải đi để gặp lối mòn sẽ đưa cô trở về phía nam sông Paquo, trở về nhà. Cô cách nó không xa, cô mới trôi xuôi theo con lạch một đoạn không xa lắm.
Nhưng Lydia chẳng thể nào buộc mình nhúc nhắc được.
Cô cảm thấy tê liệt đi vì sợ hãi và tuyệt vọng.
Rổi cô nghĩ tới chương trình ti vi cô vẫn ưa thích – Bàn tay thiên thần (25) – và khi nghĩ tới chương trình đó, trong cô hiện lên một kỷ niệm khác, kỷ niệm về lần gần đây nhất cô xem. Khi chương trình vừa kết thúc và đến phần quảng cáo, cánh cửa ngôi nhà cô bật mở và bạn trai cô đứng đấy với một két sáu chai bia. Anh ấy hầu như chưa bao giờ bất ngờ đến thăm cô và cô đã sung sướng đến mê mẩn. Họ cùng nhau trải qua hai tiếng đồng hết sức thú vị. Cô đi đến kết luận rằng vị thần hộ mệnh của cô đem đến kỷ niệm ấy đúng lúc này như là dấu hiệu cho thấy luôn luôn có hy vọng khi người ta tuyệt vọng nhất.
(25) Nguyên văn là “Touched by an angle.”
Tâm trí bám chắc lấy cái ý nghĩ đó, Lydia khó khăn vặn mình đứng lên, bắt đầu vượt qua lau lách và cỏ đầm lầy. Cô nghe thấy một âm thanh phát ra từ cổ họng ở gần. Một tiếng gừ gừ yếu ớt. Cô biết xung quanh đây, phía bắc sông Paquo, có những con linh miêu. Có cả gấu và lợn lòi. Nhưng mặc dù chân khập khiễng đau đớn, Lydia vẫn bước về phía lối mòn tự tin như thể cô đang đi tua ở bệnh viện, phát thuốc, nói những câu chuyện phiếm và động viên tinh thần các bệnh nhân của cô.
***
Jesse Corn tìm thấy một cái túi.
“Này! Nhìn này. Tôi tìm thấy cái này. Một cái bao bố.”
Sachs đi xuống một cái vách dốc thoai thoải ở rìa mỏ đá, tới chỗ anh chàng cảnh sát đang đứng chỉ vào vật gì đó nằm trên gờ đá vôi đã bị nổ mìn san bằng. Cô có thể trông thấy vô số khe được khoan vào những khối đá xám xịt để đặt dynamite. Thảo nào mà Rhyme phát hiện ra nhiều nitrate thế, nơi này từng là bãi phá đá lớn.
Sachs bước tới chỗ Jesse. Anh ta đang đứng trước một cái túi vải cũ. “Rhyme, anh nghe thấy em nói không?” Sachs gọi vào điện thoại.
“Báo cáo đi. Nhiễu lắm, nhưng anh nghe được.”
“Bọn em tìm thấy một cái túi ở đây,” Sachs nói với Rhyme. Rồi cô hỏi Jesse: “Các anh gọi nó là gì?”
“Bao bố. Đây là cách người dân ở đây gọi một cái túi vải gai.”
Sachs bảo Rhyme: “Một cái bao bố cũ. Hình như có cái gì đó bên trong.”
Rhyme hỏi: “Garrett để đó à?”
Sachs nhìn xuống. Nơi đáy và vách mỏ đá tiếp giáp nhau. “Đây chắc chắn là các dấu chân của Garrett và Lydia. Hai người đã đi lên mép mỏ đá.”
“Chúng ta hãy đuổi theo,” Jesse nói.
“Chưa.” Sachs đáp lại. “Chúng ta cần kiểm tra cái túi đã.”
“Hãy mô tả nó xem nào” nhà hình sự học ra lệnh.
“Vải gai. Cũ. Dài chừng hai mươi tư inch, rộng chừng ba mươi sáu inch. Không đựng gì nhiều. Miệng túi kín. Không buộc, chỉ xoắn lại.
“Hãy thận trọng mở nó ra xem sao, nhớ đề phòng bẫy.”
Sachs khe khẽ kéo một góc túi xuống, ngó vào bên trong.
“An toàn, Rhyme.”
Lucy và Ned đi xuống lối mòn và cả bốn người đứng xung quanh cái túi y như thể nó là cái xác chết đuối được vớt từ dưới mỏ đá lên.
“Có gì bên trong?”
Sachs xỏ đôi găng cao su, chúng mềm oặt ra dưới tác dộng của ánh nắng mặt trời. Hai bàn tay cô ngay lập tức đổ mồ hôi vì ngứa ngáy và nóng.
“Các vỏ chai nước. Nhãn hiệu Deer Park. Không nhãn giá, không nhãn kiểm kê. Giấy gói hai phong bích quy bơ lạc với phó mát nhãn hiệu Planters. Cũng không nhãn giá. Anh có muốn lấy mã UPC (26) để lần ra nơi gửi hàng không?”
(26) UPC (viết tắt của Usagc Parameter Control): Điều khiển Thông số Sử dụng (thẻ ATM).
“Có thể, nếu chúng ta có một tuần,” Rhyme lẩm bẩm. “Không, không phải mất công. Các chi tiết khác trên cái túi nào,” anh ra lệnh.
“Có một ít chữ in bên trên. Nhưng mờ quá không đọc được. Có ai xác định được là gì không?” Sachs hỏi những người khác.
Chẳng ai đọc được.
“Có ý kiến gì về mục đích sử dụng ban đầu của nó không?” Rhyme hỏi.
Sachs nhặt cái túi lên ngửi. “Mùi mốc. Đã bị vứt đâu đó một thời gian dài. Không thể nói nó từng đựng gì.” Sachs lộn trái cái túi ra và lấy bàn tay đập mạnh. Mấy hạt ngô cũ, nhăn nheo rơi xuống đất.
“Ngô, Rhyme.”
“Trùng họ với tôi,” Jesse bật cười.(27)
(27) “Corn” có nghĩa là “ngô.”
Rhyme hỏi: “Có các trang trại nào xung quanh đây không?”
Sachs nhắc lại câu hỏi cho đội tìm kiếm.
“Trang trại sữa thì có, chứ không phải ngô,” Lucy nói, nhìn Ned và Jesse, hai người này gật đầu.
Jesse nói: “Nhưng người ta cho bò ăn ngô.”
“Chắc chắn thế, Ned nói. “Tôi phỏng đoán rằng nó từ một cửa hiệu bán thức ăn chăn nuôi. Hoặc từ một kho hàng.”
“Anh nghe thấy không, Rhyme?”
“Thức ăn chăn nuôi. Được rồi. Anh sẽ bảo Ben và Jim kiểm tra. Còn gì nữa, Sachs?”
Cô nhìn hai bàn tay mình. Chúng đen nhẻm. Cô lật cái túi lại. “Có vẻ như có muội than trên túi, Rhyme. Nó không bị cháy, nhưng nó đã ở chỗ nào đó từng xảy ra hỏa hoạn.”
“Có gì để xác định là chỗ nào không?”
“Có những vụn than củi, có vẻ vậy. Nên em phỏng đoán về một chỗ nào đó có gỗ.”
“Được rồi,” Rhyme nói. “Sẽ bổ sung chi tiết này vào danh sách chứng cứ.”
Sachs liếc nhìn dấu chân của Garrett và Lydia. “Bọn em lại tiếp tục đuổi theo hai người đây,” Cô bảo Rhyme.
“Anh sẽ gọi khi có thêm thông tin gì.”
Sachs nói với đội tìm kiếm: “Quay lại trên kia thôi” Cảm thấy những cơn đau nhói trong đầu gối, cô đăm đăm nhìn lên mép mỏ đá, lẩm bẩm: “Lúc chúng ta xuống đây thì có vẻ nó chẳng cao đến thế.”
“Ồ, này, đây là một quy luật – núi đồi bao giờ cũng cao gấp đôi khi đi lên so với khi đi xuống,” Jesse Corn, một kho các câu châm ngôn địa phương, vừa nói vừa lịch sự để Sachs bước lên lối mòn hẹp trước mình.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.