Cái Ghế Trống
CHƯƠNG 32
Linconln Rhyme lẩm bẩm: “Tôi không tin.”
Anh vừa nói chuyện với Lucy Kerr đang đầy giận dữ và biết rằng Sachs đã bắn mấy phát vào một cảnh sát dưới gầm cầu Hobeth.
“Tôi không tin,” Rhyme thì thầm nhắc lại với Thom.
Anh chàng phụ tá là bậc thầy trong việc đương đầu với những cơ thể không còn lành lặn và những tâm hồn không còn lành lặnxuất phát từ những cơ thể bệnh tật. Nhưng đây là một vấn đề khác, khó khăn hơn, và anh ta chẳng thể làm được gì hơn ngoài việc đưa ra ý kiến: “Đây là một sự nhầm lẫn. Đây ắt phải là một sự nhầm lẫn. Amelia không bao giờ hành động như thế.”
“Cô ấy không bao giờ,” Rhyme lẩm bẩm. Lần này, sự phủ nhận được đưa ra với Ben. “Không đời nào. Ngay cả là để dọa họ.” Anh tự nhủ rằng Sachs không bao giờ đi bắn vào một đồng nghiệp, ngay cả chỉ để dọa họ. Tuy nhiên, anh cũng nghĩ tới những gì mà người ta khi tuyệt vọng có thể làm. Những sự liều lĩnh điên rồ mà người ta sẵn sàng chấp nhận. (Ôi, Sachs, tại sao em lại hấp tấp và bướng bỉnh đến thế? Tại sao em lại phải giống anh đến thế?)
Bell đang ở trong văn phòng phía bên kia hành lang. Anh có thể nghe thấy những lời âu yếm anh ta nói vào điện thoại. Anh đồ là vợ và gia đình viên cảnh sát trưởng vốn không quen với chuyện anh ta về muộn buổi tối, việc thực thi pháp luật tại một thị trấn như Tanner’s Corner có lẽ chẳng đòi hỏi nhiều thời gian như vụ Garrett Hanlon này.
Ben Kerr ngồi bên cạnh một chiếc kính hiển vi, hai cánh tay hộ pháp khoanh trước ngực. Anh ta nhìn chằm chằm tấm bản đồ. Khác với viên cảnh sát trưởng, anh ta chẳng hề gọi điện về nhà, và Rhyme băn khoăn tự hỏi liệu anh ta có vợ hay bạn gái không, hay phải chăng toàn bộ cuộc đời của anh chàng bẽn lẽn này chỉ dành cho khoa học và các bí ẩn dưới đáy đại dương.
Viên cảnh sát trưởng cúp máy. Anh ta quay vào la-bô. “Anh có thêm ý kiến gì không, Lincoln?”
Rhyme hất đầu chỉ bảng chứng cứ.
TÌM THẤY TẠI HIỆN TRƯỜNG GIÁN TIẾP – CỐI XAY
Sơn nâu dây trên quần
Cây gọng vó
Đất sét
Rêu nước
Nước trái cây
Sợi giấy
Viên chua làm mồi câu
Đường
Camphene
Chất cồn
Dầu hỏa
Men nở
Rhyme lặp lại những gì họ đã biết về ngôi nhà nơi đang giam giữ Mary Beth. “Có một cái vũng Carolina trên đường đến chỗ đó hoặc gần chỗ đó. Phân nửa các đoạn đánh dấu ở mấy cuốn sách về côn trùng của hắn liên quan tới sự ngụy trang và màu sơn nâu dây trên quần hắn là màu vỏ cây, bởi vậy chỗ đó có lẽ là trong rừng hoặc bên cạnh rừng. Những cái đèn đốt bằng camphene xuất hiện từ thế kỉ XIX, nên chỗ đó phải được xây dựng lâu rồi, có lẽ là vào thời Victoria. Nhưng những dấu vết khác không hữu ích mấy. Men nở là từ cối xay. Sợi giấy thì từ bất cứ chỗ nào cũng được. Còn nước trái cây và đường? Từ đồ ăn và đồ uống Garrett sử dụng. Tôi hoàn toàn chẳng thể nào…”
Điện thoại reo.
Ngón đeo nhẫn bên trái của Rhyme động trên bộ phận điều khiển điện tử và anh nhận cuộc gọi.
“A lô,” anh nói vào loa ngoài.
“Lincoln à.”
Anh nhận ra cái giọng nhẹ nhàng, mệt mỏi của Mel Cooper.
“Anh có thông tin gì, Mel? Tôi cần chút tin tức tốt lành.”
“Tôi hy vọng là tin tức tốt. Chiếc chìa khóa các anh tìm thấy ấy. Chúng tôi đã tra cứu các tài liệu gốc và cơ sở dữ liệu suốt đêm. Cuối cùng cũng lần ra được xuất xứ của nó.”
“Là thế nào?”
“Là chìa khóa một cái nhà lưu động do công ty nhà lưu động McPherson Deluxe đóng. Loại nhà này được đóng từ năm 1946 đến đầu thập niên 1970. Công ty đó đã ngừng hoạt động, nhưng theo tài liệu hướng dẫn thì số seri trên chiếc chìa khóa các anh tìm thấy phù hợp với một cái nhà được đóng năm 1969.”
“Có mô tả gì không?”
“Tài liệu hướng dẫn không thấy in ảnh.”
“Khỉ gió. Hãy nói tôi nghe xem, liệu người ta có sống trong một cái nhà lưu động đỗ tại bãi đỗ không? Hay người ta lái nó đi lung tung, giống như lái những chiếc Winnebago?”
“Tôi cho rằng người ta sống trong đó. Chúng có kích thước tám nhân hai mươi. Không phải loại lái đi chỗ này chỗ khác được. Dù sao thì chúng cũng không có động cơ. Khi di chuyển, người ta phải kéo chúng.”
“Cảm ơn, Mel. Ngủ một chút đi.”
Rhyme cúp máy. “Anh nghĩ thế nào, Jim? Có bãi đỗ nhà lưu động nào xung quanh đây không?”
Viên cảnh sát trưởng xem chừng ngờ vực. “Có mấy bãi đỗ dọc theo đường 17 và đường 158. Nhưng chúng thậm chí không ở gần địa điểm mà Garrett và Amelia đang nhắm đến. Lại đông đúc nữa. Khó lòng ẩn trốn được ở một chỗ như thế. Tôi nên cử ai đó đi kiểm tra chăng?”
“Cách đây bao xa?”
“Bảy, tám mươi dặm.”
“Không, Garrett có lẽ đã phát hiện được một cái nhà lưu động bị bỏ hoang ở chỗ nào đấy trong rừng và chiếm lấy nó.” Rhyme liếc nhìn tấm bản đồ. Anh nghĩ: Và nó đỗ ở chỗ nào đấy giữa một trăm dặm vuông hoang vu.
Anh cũng băn khoăn tự hỏi: Gã trai đã tháo tay khỏi còng chưa? Hắn có lấy được khẩu súng của Sachs chưa? Ngay lúc này đây liệu cô có đang ngủ, không cảnh giác đề phòng, liệu Garrett có đang đợi tới lúc cô thiếp đi chẳng còn biết gì. Gã ngồi dậy, bò đến gần cô với một tảng đá hoặc một tổ ong bắp cày…
Nỗi sốt ruột chạy dọc cơ thể Rhyme. Anh ngả đầu ra phía sau, nghe thấy một khớp xương kêu đánh cắc. Anh cứng người, lo sợ tình trạng co rút nhức nhối thi thoảng cứ tra tấn các bắp thịt vẫn còn liên hệ với những tế bào thần kinh chưa chết. Có vẻ hoàn toàn bất công khi chính cái chấn thương khiến cho phần lớn cơ thể người ta tê liệt đồng thời lại khiến các vùng vẫn còn cảm giác phải chịu đau đớn kinh khủng.
Lần này sự đau đớn không xuất hiện, nhưng Thom để ý thấy vẻ hốt hoảng trên gương mặt sếp mình.
Anh chàng phụ tá nói: “Lincoln, cẩn thận đấy… Tôi sẽ đo huyết áp cho anh và anh sẽ đi nằm. Không tranh luận gì cả.”
“Được rồi, Thom, được rồi. Chỉ có điều chúng ta phải gọi một cú điện thoại trước đã.”
“Hãy nhìn xem mấy giờ rồi… Bây giờ thì ai còn thức nữa?”
“Vấn đề không phải là ai còn thức,” Rhyme mệt mỏi nói. “Vấn đề là ai sẽ thức dậy.”
***
Nửa đêm. Trong đầm lầy.
Tiếng côn trùng. Những bóng dơi chao liệng. Một, hai con cú. Ánh trăng bàng bạc như băng.
Lucy và mấy đồng nghiệp đi bộ bốn dặm đến đường 30, nơi chiếc xe cắm trại đợi họ. Bell đã tác động và “trưng dụng” được chiếc xe từ Công ty Fred Fisher Winnebagos. Steve Farr lái nó tới đây đợi đội tìm kiếm, để họ có chỗ nghĩ qua đêm.
Họ bước vào lòng xe chật chội. Jesse, Trey và Ned ăn ngấu nghiến bánh sandwich kẹp thịt bò nướng do Farr mang tới. Lucy uống một chai nước, không ăn. Farr và Bell – quý hóa làm sao – cũng đã chuẩn bị những bộ đồng phục sạch sẽ cho mấy người.
Cô gọi và bảo Bell rằng đội tìm kếm đã lần theo dấu vết hai kẻ kia tới một ngôi nhà nghỉ kiến trúc theo kiểu chữ A trước đó đã bị đột nhập. “Xem chừng bọn họ đã ngồi xem tivi, anh có thể tin như thế.”
Nhưng trời tối quá rồi không lần theo dấu vết được nữa và đội tìm kiếm quyết định đợi đến bình minh sẽ tiếp tục.
Lucy cầm lên bộ quần áo sạch, bước vào buồng tắm. Trong cái buồng tắm đứng bé tí, cô vặn nhỏ dòng nước cho chảy dọc xuống thân mình. Hai bàn tay cô vò tóc, rồi xoa mặt, cổ, và lần nào cũng vậy, xoa bộ ngực phẳng một cách ngập ngừng, cảm nhận những đường gờ lên của cái sẹo, rồi hai bàn tay trở nên dứt khoát hơn khi di chuyển xuống bụng và đùi.
Lucy băn khoăn không biết tại sao cô có sự ác cảm như thế đối với việc sử dụng silicon hay phẫu thuật tái tạo, mà theo lời bác sĩ giải thích thì là lấy mỡ ở đùi hoặc mông để làm lại ngực. Thậm chí có thể làm lại được cả núm vú – hay xăm hình.
Vì, cô tự nhủ, đó là của giả. Vì đó chẳng phải của thật.
Và, thế thì, tại sao lại phải mất công chứ?
Nhưng rồi, Lucy nghĩ, hãy nhìn cái người tên là Lincoln Rhyme đó. Anh ta chỉ là một kẻ tàn tật. Chân tay anh ta là của giả – là một chiếc xe lăn và một anh chàng phụ tá. Tuy nhiên, nghĩ đến anh ta cô lại nghĩ đến Amelia Sachs và nỗi tức giận lại thiêu đốt cô. Cô gạt những ý nghĩ ấy sang bên, lau khô người và mặc chiếc áo phông vào, lơ đãng nghĩ tới ngăn kéo đựng áo lót ở cái tủ gương trang điểm trong phòng dành cho khách trong ngôi nhà của cô – nhớ ra rằng cô định vứt chúng đi suốt hai năm qua. Nhưng, vì lý do nào đấy, cô chưa làm. Tiếp theo, cô mặc bộ đồng phục. Cô bước ra khỏi buồng tắm. Jesse đang gác điện thoại.
“Có thông tin gì không?”
“Không,” anh ta nói. “Họ vẫn đang nghiên cứu các chứng cứ, Jim và ông Rhyme.”
Lucy lắc đầu từ chối suất ăn Jesse đưa cho cô, rồi ngồi xuống bên bàn, rút khẩu súng lục công vụ ra khỏi bao. “Steve?” cô gọi.
Anh chàng trẻ tuổi tóc cắt cua ngẩng lên khỏi tờ báo đang đọc, nhướn một bên lông mày.
“Cậu có mang theo thứ tôi yêu cầu không?”
“Ồ, có.” Farr lục khoang đựng đồ dưới bảng đồng hồ và đưa cho Lucy hộp đạn Remington sơn hai màu vàng – xanh. Cô tháo những viên đạn đầu tròn ra khỏi khẩu súng lục và ổ nạp nhanh, thay thế những viên đạn mới – loại đầu lõm, có sức sát thương mạnh hơn, gây tổn hại lớn hơn nhiều đối với các mô mềm khi xuyên vào cơ thể.
Jesse Corn chăm chú quan sát cô, tuy nhiên một lát sau mới nói, và cô biết rằng anh ta sẽ nói “Amelia không nguy hiểm đâu.” Anh ta nói thấp giọng, chỉ để cho cô nghe.
Lucy đặt khẩu súng xuống, nhìn vào mắt Jesse. “Jesse, tất cả mọi người đều bảo Mary Beth đang ở ngoài biển nhưng hóa ra cô ấy lại ở hướng ngược lại. Tất cả mọi người đều bảo Garrett chỉ là một thằng nhãi ngốc nghếch nhưng hắn lại khôn ngoan như cáo và gạt được chúng ta dăm bảy lần rồi. Chúng ta chẳng biết bất cứ điều gì khác nữa. Có thể Garrett đang có cả kho vũ khí ở chỗ nào đó và có kế hoạch này nọ để tiêu diệt chúng ta khi chúng ta sa vào bẫy của hắn.”
“Nhưng Amelia đi cùng hắn. Cô ấy sẽ ngăn chặn việc như thế xảy ra.”
“Amelia là kẻ phản bội đáng chết và chúng ta không thể tin tưởng cô ta một chút nào. Nghe này, Jesse, tôi đã trông thấy vẻ mặt anh khi anh nhận ra cô ta không ở phía chiếc thuyền. Anh đã nhẹ cả người. Tôi biết anh nghĩ rằng mình thích cô ta và hy vọng được cô ta đáp lại… Không, không, để tôi nói nốt. Nhưng cô ta đã cứu một tên giết người ra khỏi nhà giam. Và nếu anh đã ở ngoài sông chứ không phải Ned, Amelia cũng sẽ bắn anh ngay như thế thôi.”
Jesse định phản đối, tuy nhiên ánh mắt lạnh lẽo của Lucy khiến anh ta im lặng.
“Thật dễ dàng si mê một người như thế.” Lucy tiếp tục. “Cô ta xinh đẹp và từ một nơi khác đến, một nơi sôi động đầy sức hấp dẫn… Nhưng cô ta không hiểu cuộc sống ở đây. Và cô ta không hiểu Garrett. Anh biết hắn – đó là một thằng nhãi bệnh hoạn và nếu ngay lúc này hắn chưa chơi trò giết người thì chỉ là chuyện may rủi thôi.”
“Tôi biết rằng Garrett nguy hiểm. Tôi không tranh luận việc ấy. Tôi đang nghĩ tới Amelia.”
“Chà, tôi thì tôi nghĩ tới chúng ta và tất cả những người khác ở Bến tàu kênh Nước đen mà thằng nhãi có thể đang lên kế hoạch giết hại vào ngày mai hoặc tuần sau hoặc năm sau nếu hắn thoát khỏi tay chúng ta. Đó là việc hắn hoàn toàn có thể làm. Nhờ cô ta đấy. Bây giờ, tôi cần biết tôi có tin tưởng được anh không. Nếu không, anh có thể trở về nhà và chúng tôi sẽ bảo Jim cử người khác tới thay thế anh.”
Jesse liếc nhìn hộp đạn, rồi lại nhìn Lucy. “Chị có thể, Lucy. Chị có thể tin tưởng tôi.”
“Tốt. Anh nên nghiêm túc về điều này. Vì ngay khi trời sáng tôi sẽ tiếp tục lần theo dấu vết bọn họ và đưa cả hai quay về. Tôi hy vọng trong tình trạng còn sống nhưng, tôi nói để anh biết, cho tới lúc này thì cũng không nhất thiết phải vậy.”
***
Mary Beth McConnell ngồi một mình trong ngôi nhà gỗ, kiệt sức nhưng chẳng dám ngủ.
Cô nghe thấy tiếng động ở khắp nơi.
Cô đã rời khỏi chiếc đi văng. Cô sợ nếu cô cứ ngồi đấy thì cô sẽ nằm dài ra mà ngủ thiếp đi mất, rồi thức dậy thấy nhà truyền giáo và gã Tom đang chằm chằm nhìn cô qua cửa sổ, chuẩn bị đột nhập vào. Vì thế cô ngồi trên một chiếc ghế trong phòng ăn, mặt ghế cứng như đá.
Những tiếng động…
Mary Beth không biết mấy giờ rồi. Cô thậm chí chẳng dám ấn cái nút bật sáng mặt đồng hồ đeo tay – vì nỗi sợ hãi điên rồ rằng ánh sáng lóe lên sẽ như ra hiệu cho hai kẻ tấn công cô.
Kiệt sức. Quá mệt mỏi thậm chí không buồn băn khoăn tự hỏi thêm lần nữa tại sao chuyện này lại xảy ra với cô, liệu cô có thể đã làm được gì để ngăn chặn nó.
Làm ơn mắc oán…
Mary Beth đăm đăm nhìn ra bãi cỏ phía trước ngôi nhà gỗ, bây giờ hoàn toàn là một màu đen. Ô cửa sổ tựa như cái khung đóng lấy số phận cô: nó sẽ cho thấy ai đang tiến đến gần qua bãi cỏ? Những kẻ sát hại cô hay những người giải cứu cô?
Cô lắng nghe.
Âm thanh đó là gì: một cái cành cây nứt vỏ? Hay tiếng quẹt diêm?
Cái đốm sáng trong rừng kia là gì: một con đom đóm, hay một ánh lửa trại?
Cái bóng di động kia: một con hươu bỏ chạy vì ngửi thấy mùi linh miêu hay nhà truyền giáo và gã đồng đảng đang ngồi bên đống lửa uống bia, đánh chén, rồi mò mẫm xuyên rừng đến chỗ cô, tiếp tục thỏa mãn nhu cầu cơ thể chúng?
Mary Beth McConnell không tài nào nói chắc được. Đêm hôm nay, mới nhiều làm sao, cô toàn cảm thấy các cái mơ hồ.
Mày phát hiện được di tích của những người tới định cư đã chết từ ngày xửa ngày xưa nhưng mày lại băn khoăn không biết liệu giả thuyết mày đưa ra có hoàn toàn sai lầm không.
Cha mày qua đời vì chứng ung thư – một cái chết kéo dài, uổng phí, mà bác sĩ nói là chẳng tránh khỏi, nhưng mày lại nghĩ: Biết đâu có thể tránh khỏi.
Hai gã đàn ông đang ở ngoài kia, trong rừng, lên kế hoạch cưỡng đoạt và sát hại mày.
Nhưng có thể chẳng phải vậy.
Có thể bọn chúng đã từ bỏ ý định. Có thể bọn chúng đã bất tỉnh vì rượu lậu. Hay bọn chúng đã sợ hãi trước ý nghĩ về những hậu quả, đi đến kết luận rằng các mụ vợ mập mạp hoặc đôi bàn tay chai sạn thì an toàn hơn, hoặc dễ dàng hơn, việc bọn chúng định làm với Mary Beth.
Dang tay dang chân ra ở chỗ này…
Một tiếng nổ đanh vang khắp đêm tối. Mary Beth bật dậy. Một tiếng súng. Có vẻ như nó vang lên từ chỗ lúc trước cô đã trông thấy ánh lửa. Lát sau, tiếng súng thứ hai. Gần hơn.
Sợ hãi hít thở nặng nhọc, nắm chặt cây chùy. Không thể nhìn qua ô cửa sổ đen ngòm, cũng không thể không nhìn ra. Khiếp sợ sẽ trông thấy bộ mặt xanh xao của gã Tom từ từ xuất hiện trong khung cửa, nhăn nhở cười. Bọn tao sẽ quay lại.
Gió nổi lên, thổi rạp cây cối, bụi rậm, cỏ.
Mary Beth cho rằng cô nghe thấy tiếng cười của một người đàn ông, tiếng cười nhanh chóng tan biến trong gió hun hút như tiếng gọi của một trong những linh hồn Manitou thuộc bộ lạc Weapeneoc.
Cô cho rằng cô nghe thấy tiếng một gã đàn ông gào lên: “Mày hãy sẵn sàng đi, sẵn sàng đi…”
Nhưng có thể chẳng phải.
***
“Mày nghe thấy tiếng súng chứ?” Rich Culbeau hỏi Harris Tomel.
Ba gã ngồi xung quanh đống lửa đang lụi dần. Ba gã mang tâm trạng lo lắng và chưa say như trong một chuyến săn bình thường, chưa say như chính ba gã đang mong muốn. Đơn giản là món rượu lậu không có tác dụng.
“Súng lục,” Tomel nhận xét. “Đạn cỡ lớn. Mười milimet hoặc súng cỡ.44,.45 tự động.”
“Vớ vẩn,” Culbeau nói. “Mày không thể bảo đấy là súng tự động hay không tự động được.”
“Có thể chứ,” Tomel giảng giải. “Súng ổ quay thì tiếng nổ to hơn – vì khoảng cách giữa ổ đạn và nòng súng. Tất nhiên.”
“Vớ vẩn,” Culbeau nhắc lại. “Cách đây bao xa?”
“Không khí nhiều hơi ẩm. Ban đêm… Tao cho rằng cách đây bốn, năm dặm,” Tomel thở dài. “Tao muốn chuyện này kết thúc. Tao chán ngấy rồi.”
“Tao hiểu,” Culbeau nói. “Ở Tanner’s Corner thì dễ dàng hơn. Bây giờ tình hình đang trở nên phức tạp.”
“Đám côn trùng chết tiệt,” Tomel đập một con muỗi.
“Mày nghĩ ai bắn gì vào cái giờ khuya khoắt này? Phải gần một giờ rồi.”
“Gấu trúc lục thùng rác, gấu đen mò vào lều, hay một thằng nào đấy mần vợ người.”
Culbeau gật đầu. “Nhìn kìa – Sean đã ngủ. Thằng đó ngủ được mọi lúc, mọi nơi.” Gã đá những cục than hồng cho nguội bớt.
“Nó đang dùng thứ thuốc chết tiệt.”
“Thế à? Tao không biết.”
“Đó là lý do tại sao nó ngủ mọi lúc, mọi nơi. Nó đang cư xử một cách kỳ cục, mày có nghĩ vậy không?” Tomel hỏi, liếc nhìn gã thanh niên gầy nhẳng y như gã là một con rắn biết “kéo gỗ.”
“Khi chẳng hiểu nổi nó thì thấy nó dễ ưa hơn. Bây giờ nó đứng đắn quá, nó làm tao sợ phát khiếp. Cứ giương khẩu súng đó lên như giương cái con b. nó không bằng.”
“Về việc ấy mày nói đúng,” Tomel lẩm bẩm, rồi nhìn chằm chằm vào cánh rừng âm u mất mấy phút. Gã thở dài, bảo: “Tao sẽ bị ăn tươi nuốt sống ở đây mất. Và đưa tao chai rượu bên cạnh mày kia.”
***
Amelia Sachs mở mắt khi nghe thấy tiếng súng nổ.
Cô nhìn vào phòng ngủ của ngôi nhà lưu động, nơi Garrett đang nằm ngủ trên tấm nệm. Gã không nghe thấy gì.
Một tiếng súng nổ nữa.
Tại sao lại có ai bắn gì vào cái giờ khuya khoắt này? Sachs băn khoăn tự hỏi.
Tiếng súng nổ khiến Sachs nhớ tới sự việc xảy ra trên sông – Lucy và mấy người cảnh sát kia nã đạn vào chiếc thuyền mà họ nghĩ có cô và Garrett phía dưới. Cô hình dung lại từng cột nước vọt lên không trung sau mỗi tiếng súng nổ kinh hoàng.
Cô thận trọng lắng nghe nhưng không nghe thấy thêm tiếng súng nổ nào nữa. Không có gì ngoài tiếng gió thổi. Và tiếng ve sầu, tất nhiên.
Cuộc đời của chúng hết sức kỳ lạ… Ấu trùng đào đất chui xuống và ở dưới ấy, nói chung, hai mưoi năm, trước khi nở…
Tất cả ngần ấy năm trong lòng đất, ẩn trốn, trước khi bò ra làm con ve sầu trưởng thành.
Nhưng chẳng mấy chốc tâm trí Sachs lại bị xâm chiếm bởi những ý nghĩ xuất hiện trước khi có tiếng súng nổ.
Amelia Sachs trước đó đang nghĩ ngợi về chiếc ghế trống.
Không phải kỹ thuật trị liệu của Tiến sĩ Penny. Hay những gì Garrett đã nói với cô về cha gã và cái buổi tối kinh khủng cách đây năm năm. Không, cô đang nghĩ ngợi về một chiếc ghế khác – chiếc xe lăn Storm Arrow màu đỏ của Lincoln Rhyme.
Suy cho cùng thì đó là việc họ sẽ làm dưới Bắc California này. Rhyme đang đánh liều mọi thứ, tính mạng, phần sức khỏe còn lại, cuộc sống của anh với Sachs, cốt để anh có thể tiến gần hơn đến chỗ rời khỏi được chiếc ghế đó. Bỏ nó lại sau lưng anh, trống không.
Và, nằm đây, trong ngôi nhà lưu động bẩn thỉu này, làm một kẻ đã phạm tội, đơn độc trong cuộc đấu tay đôi do chính cô tạo ra, rút cục Amelia Sachs cũng tự thừa nhận cái điều gây cho cô xiết bao lo lắng trước việc Rhyme kiên quyết bước lên bàn mổ. Tất nhiên, cô lo lắng rằng anh có thể chẳng qua nổi cuộc phẫu thuật. Hoặc nó sẽ khiến tình trạng anh tồi tệ hơn. Hoặc nó sẽ hoàn toàn vô ích và anh sẽ rơi vào nỗi tuyệt vọng.
Nhưng những điều ấy không phải sự sợ hãi chủ yếu của Sachs. Chúng không phải lý do khiến cô đã làm mọi việc có thể để ngăn cản cuộc phẫu thuật. Không, không – điều khiến cô sợ hãi nhất chính là khả năng cuộc phẫu thuật sẽ thành công.
Ôi, Rhyme, anh không hiểu sao? Em đâu muốn anh thay đổi. Em yêu anh như anh bây giờ. Nếu anh cũng giống bao người khác, chuyện gì sẽ xảy ra với chúng ta.
Anh nói: “Sẽ luôn luôn là anh và em, Sachs ạ.” Nhưng cái anh và em đó dựa trên con người chúng ta bây giờ. Em với những móng tay dây máu và niềm ham thích được xê dịch, xê dịch, xê dịch… Anh với đầu óc mẫn tiệp bao giờ cũng phóng đi nhanh hơn và xa hơn em có thể trong chiếc Camaro đã được sơn đi sơn lại của em.
Cái đầu óc ấy của anh giữ em chặt hơn bất cứ người tình nồng nhiệt nhất nào.
Và nếu anh lại trở nên bình thường? Khi anh lại sử dụng được tay chân của chính mình, Rhyme, thì hà cớ gì anh còn mong muốn có em nữa? Hà cớ gì anh còn cần em? Em sẽ chỉ là một cảnh sát tuần tra, một cảnh sát khu vực với chút tài khám nghiệm hiện trường. Anh sẽ gặp một người khác trong số những người phụ nữ bội bạc từng làm cuộc đời anh trật bánh – một người vợ ích kỷ khác, một người tình có hôn thú khác – và anh sẽ dần rời xa em theo cái cách chồng Lucy Kerr đã rời xa cô ấy sau khi cô ấy tiến hành phẫu thuật.
Em mong muốn anh hãy cứ như bây giờ…
Thực tế, Sachs phải rùng mình trước sự ích kỉ khủng khiếp của suy nghĩ này. Tuy nhiên cô chẳng thể phủ nhận nó.
Hãy cứ ở lại chiếc ghế của anh, Rhyme! Em không muốn nó bị bỏ trống… Em muốn có một cuộc sống với anh, một cuộc sống như nó vẫn luôn luôn thế từ trước tới giờ. Em muốn có những đứa con với anh, những đứa con sẽ lớn lên để biết về anh đúng như anh bây giờ.
Amelia Sachs thấy mình đang đăm đăm nhìn lên cái trần nhà màu đen. Cô nhắm mắt lại. Nhưng mãi một tiếng đồng hồ sau, tiếng gió thổi cùng với tiếng ve sầu kêu – những cái màng ở ngực chúng phát ra âm thanh giống tiếng vĩ cầm đơn điệu – cuối cùng mới ru cô ngủ thiếp đi được.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.