Cái Ghế Trống
CHƯƠNG 43
Anh đã giết Billy, đúng không?” Rhyme hỏi Jim Bell.
Nhưng gã cảnh sát trưởng im lặng.
Nhà hình sự học tiếp tục: “Hiện trường vụ án chẳng được bảo vệ trong một tiếng rưỡi đồng hồ. Và, tất nhiên, Mason là sĩ quan cảnh sát đầu tiên có mặt tại đó. Tuy nhiên, anh đến đó trước anh ta. Anh không nhận được điện thoại từ Billy thông báo rằng Mary Beth đã chết và anh bắt đầu lo lắng, vì thế anh lái xe đến Bến tàu kênh Nước đen và phát hiện ra cô gái đã biến mất, còn Billy thì bị thương. Billy nói với anh việc Garrett đang đưa cô gái đi. Rồi anh xỏ găng tay cao su vào, cầm chiếc xẻng lên và giết chết thằng bé.”
Rốt cuộc, cơn giận dữ của gã cảnh sát trưởng cũng bùng ra qua lớp mặt nạ. “Tại sao anh đã nghi ngờ tôi?”
“Ban đầu, tôi quả có nghĩ tới Mason – chỉ ba chúng ta và Ben biết về ngôi nhà gỗ. Tôi đồ là anh ta đã gọi điện cho Culbeau và bảo hắn đến đó. Nhưng tôi hỏi Lucy và hóa ra Mason đã gọi điện cho cô ấy và bảo cô ấy đến đó – chỉ để đảm bảo rằng Amelia và Garrett sẽ không trốn thoát lần nữa. Rồi tôi phải suy nghĩ và tôi nhận ra lúc ở chỗ cối xay Mason đã cố gắng bắn Garrett. Bất cứ kẻ nào can dự vào cái âm mưu kia đều sẽ muốn hắn sống sót – giống như anh – để hắn còn dẫn anh đến chỗ Mary Beth. Tôi kiểm tra tình hình tài chính của Mason và được biết rằng anh ta sở hữu một ngôi nhà rẻ tiền và đang nợ nần đầm đìa với các tài khoản MasterCard và Visa. Không có kẻ nào đang đút lót anh ta. Không giống như anh và em rể anh, Bell ạ. Anh có ngôi nhà trị giá bốn trăm ngàn đô la và vô khối tiền mặt trong ngân hàng. Steve Farr thì có ngôi nhà trị giá ba trăm chín mươi ngàn và chiếc thuyền trị giá một trăm tám mươi ngàn. Chúng tôi đang xin lệnh của tòa án để được dòm vào cái két sắt của anh. Đang tự hỏi liệu chúng tôi sẽ tìm thấy bao nhiêu tiền.”
Rhyme tiếp tục: “Tôi hơi tò mò về lý do tại sao Mason lại hăng hái với việc tóm cổ Garrett đến thế nhưng anh ta có lý do xác đáng. Anh ta bảo tôi rằng anh ta khá tức tối khi anh nhận ghế cảnh sát trưởng – anh ta không thực sự hiểu tại sao vì anh ta có thành tích tốt hơn và thâm niên cao hơn. Anh ta nghĩ nếu tóm cổ được Thằng Bọ, Ban Giám đốc chắc chắn sẽ giao ghế cảnh sát trưởng cho anh ta khi nhiệm kỳ của anh kết thúc.”
“Toàn bộ cái trò diễn kịch khốn kiếp của anh…” Bell lẩm bẩm. “Tôi cứ nghĩ anh chỉ tin tưởng vào các bằng chứng.”
Rhyme hiếm khi đấu khẩu với con mồi của mình. Tuy nhiên, anh vẫn bảo Bell: “Tôi những muốn sử dụng bằng chứng hơn. Nhưng đôi khi cũng phải ứng biến. Tôi không hẳn là kẻ hay tự ái như tất cả mọi người đều nghĩ đâu.”
Chiếc xe lăn Storm Arrow không phù hợp với phòng giam Amelia Sachs.
“Không có lối vào cho người què quặt à?” Rhyme càu nhàu. “Đấy là một sự vi phạm Luật người khuyết tật.”
Sachs nghĩ anh đang sử dụng những lời lẽ hung hãn vì cô, anh muốn để cho cô thấy các tâm trạng quen thuộc. Nhưng cô không nói gì.
Do vấn đề chiếc xe lăn, Mason Germain gợi ý dùng phòng thẩm vấn. Sachs lê bước vào, đeo cả còng tay và còng chân. Viên cảnh sát đã khăng khăng yêu cầu việc ấy (cô, suy cho cùng, từng thu xếp một cuộc chạy trốn chính từ nơi này).
Ông luật sư từ New York đã tới. Ông ta tên là Solomon Geberth, đầu bạc. Là thành viên của luật sư đoàn New York, Massachusett và Washington DC, ông ta được tòa án Bắc Carolina chấp thuận cho cãi riêng cho trường hợp của Sachs. Thật lạ lùng, với khuôn mặt điển trai, lịch lãm và cử chỉ tác phong thậm chí còn lịch lãm hơn, ông ta dường như giống một vị luật sư miền Nam tao nhã bước ra từ tiểu thuyết của John Grisham hơn hẳn một chú chó bull(39) của luật sư đoàn Manhattan. Mái tóc cắt tỉa gọn gàng của ông ta xịt keo bóng loáng và bộ com lê Ý phẳng lỳ ngay cả với cái độ ẩm đáng kinh ngạc của Tanner’s Corner.
(39) Chó bull: giống chó đầu to, cổ ngắn, mập, khỏe, can đảm.
Lincoln Rhyme ngồi giữa Sachs và luật sư của cô. Cô đặt bàn tay lên tay vịn chiếc xe lăn.
“Họ đã giới thiệu một công tố viên đặc biệt từ Raleigh,” Geberth trình bày. “Vì vụ tay cảnh sát trưởng với tay điều tra viên kia, tôi nghĩ họ không hoàn toàn tin tưởng McGuire. Dù sao thì ông ta cũng đã xem xét các chứng cứ và đã quyết định bãi bỏ mọi lời buộc tội Garrett.”
Vẻ mặt Sachs xao động trước tin tức này. “Ông ta đã bác bỏ?”
Geberth nói: “Garrett thừa nhận việc đánh Billy, và tưởng mình đã giết chết nó. Nhưng Lincoln đoán đúng. Kẻ giết chết thằng bé kia là Bell, và thậm chí nếu họ buộc cậu ta tội tấn công người khác thì hành động của Garrett rõ ràng cũng là hành động tự vệ. Viên cảnh sát kia, Ed Schaeffer ấy? Cái chết của ông ta được kết luận là tai nạn.”
“Việc bắt cóc Lydia Johansson thì sao?”
“Khi cô ta nhận ra rằng Garrett chưa bao giờ có ý định làm hại mình, cô ta quyết định rút đơn kiện. Mary Beth cũng vậy. Mẹ cô này lại không muốn, tuy nhiên các vị nên biết chuyện cô gái đã tranh cãi với mẹ. Cuộc tranh cãi đó khá kịch liệt, tôi phải công nhận như thế.”
“Thế là cậu ta được tự do? Garrett ấy?” Sachs hỏi, ánh mắt cắm xuống sàn.
“Họ sẽ thả cậu ta ra sau ít phút nữa,” Geberth bảo cô. Rồi ông ta nói: “Được rồi, vấn đề là như thế này, Amelia: ông ủy viên công tố giữ quan điểm rằng, dù Garrett hóa ra không phải kẻ tội phạm nghiêm trọng, thì cô cũng đã mắc tội giúp đỡ một tù nhân bị bắt dựa trên căn cứ thỏa đáng chạy trốn và đã giết chết một sĩ quan cảnh sát trong lúc mắc tội này. Ông ủy viên công tố sẽ đòi buộc tội giết người cấp độ một, đồng thời sẽ thêm hai điểm buộc tội khác nữa: cũng đều là giết người – cố sát và ngộ sát – điểm này lại bao gồm làm chết người do bất cẩn và làm chết người do sơ suất trong khi thi hành nhiệm vụ.”
“Cấp độ một?” Rhyme quát lên. “Đó là sự việc không hề có dự tính trước, là một tai nạn! Hãy vì Chúa.”
“Đây chính là điều tôi sẽ cố gắng chứng minh tại tòa,” Geberth nói. “Rằng viên cảnh sát kia, cái người đã bất ngờ vồ lấy cô, là một phần nguyên nhân khiến cô nổ súng. Nhưng tôi đảm bảo họ sẽ buộc cô tội làm chết người do bất cẩn. Thực tế thì chắc chăn sẽ như vậy.”
“Cơ hội được trắng án ra sao?” Rhyme hỏi.
“Ít lắm. Nhiều nhất là mười, mười lăm phần trăm. Tôi xin lỗi, nhưng tôi bắt buộc phải khuyên cô chấp nhận một thỏa thuận điều đình nhận tội.”
Sachs có cảm giác bị tống một quả đấm vào ngực. Cô nhắm mắt lại và khi thở ra cứ như thể linh hồn cô đã rời khỏi thể xác cô vậy.
“Lạy Chúa,” Rhyme lẩm bẩm.
Sachs nghĩ tới Nick, bạn trai cũ của cô. Cô nhớ, khi bị bắt vì tội cướp xe tải và nhận lại quả, anh ta đã từ chối một thỏa thuận điều đình nhận tội, liều đứng trước một bồi thẩm đoàn. Anh ta bảo cô: “Việc này giống như câu cha em hay nói ấy, Aimees – khi mình hành động người ta không thể tóm được mình. Được ăn cả ngã về không.”
Bồi thẩm đoàn mất mười tám phút để kết tội Nick. Anh ta vẫn đang ngồi tù ở New York.
Sachs nhìn cái ông Geberth mặt mũi nhẵn nhụi. Cô hỏi: “Nếu có thương lượng, ủy viên công tố sẽ đòi buộc tội gì?”
“Ông ta chưa cho ý kiến. Nhưng có thể là tội cố sát – nếu cô chịu ngồi tù. Theo tôi, tám đến mười năm. Tuy nhiên, tôi phải nói với cô rằng ở Bắc Carolina này sẽ là ngồi tù. Ở đây không có khu an dưỡng đâu.”
Rhyme làu bàu: “Đấu với mười lăm phần trăm cơ hội trắng án.”
Geberth nói: “Đúng vậy.” Rồi ông luật sư thêm: “Cô phải hiểu rằng không có điều kỳ diệu nào ở đây đâu, Amelia. Nếu chúng ta ra tòa, công tố viên sẽ chứng minh cô là một nhân viên thực thi pháp luật chuyên nghiệp, một xạ thủ vô địch, và bồi thẩm đoàn sẽ khó có thể chấp nhận việc nổ súng là chẳng may.”
Luật lệ bình thường không áp dụng đối với bất cứ ai ở phía bắc sông Paquo. Cả chúng tôi lẫn bọn họ. Anh có thể thấy chính anh nhả đạn tnrớc khi anh đọc cho người ta biết về các quyền của người ta và điều đó hoàn toàn không vấn đề gì cả.
Ông luật sư nói: “Nếu điều này xảy ra, họ có thể buộc cô tội giết người cấp độ một và cô sẽ lĩnh án hai mươi năm.”
“Hoặc tử hình,” Sachs lẩm bẩm.
“Phải, đây là một khả năng. Tôi không thể nói với cô là không có khả năng đó.”
Vì lẽ nào đấy, cái hình ảnh xuất hiện trong tâm trí Sachs vào khoảnh khắc này là hình ảnh gia đình chim ưng làm tổ bên ngoài ô cửa sổ ngôi nhà của Lincoln Rhyme ở Manhattan: con trống, con mái, và con con. Cô nói: “Nếu tôi xin nhận tội ngộ sát, tôi sẽ phải ngồi tù bao lâu?”
“Chắc sáu, bảy năm. Không có chuyện cam kết để được tha đâu.”
Anh và em, Rhyme.
Sachs hít sâu vào. “Tôi sẽ xin nhận tội.”
“Sachs…” Rhyme cất lời.
Nhưng cô nhắc lại với Geberth: “Tôi sẽ xin nhận tội.”
Ông luật sư đứng lên. Ông ta gật đầu. “Tôi sẽ gọi cho ủy viên công tố ngay bây giờ, xem liệu ông ta có chấp thuận không. Có tin tức gì, tôi sẽ thông báo ngay.” Gật đầu chào Rhyme, ông luật sư đi ra.
Mason liếc nhìn gương mặt Sachs. Anh ta đứng lên và bước về phía cửa, đôi giày cao cổ dậm cồm cộp. “Tôi sẽ để hai người nói chuyện vài phút. Tôi không phải khám xét anh chứ, Lincoln?”
Rhyme mỉm cười mệt mỏi: “Tôi chẳng có vũ khí gì, Mason.”
Cánh cửa đóng sập lại.
“Thật là một mớ bòng bong, Lincoln,” Sachs nói.
“Ừm, Sachs. Đừng gọi tên riêng.”
“Tại sao không?” Sachs hoài nghi hỏi, gần như là thì thầm. “Xui xẻo à?”
“Có thể.”
“Anh đâu thuộc loại mê tín dị đoan. Hay ít nhất thì anh vẫn luôn luôn bảo em như thế.”
“Không mê tín lắm. Nhưng đây là một chốn đáng sợ.”
Tanner’s Corner… Thị trấn vắng bóng trẻ.
“Anh đáng lẽ phải nghe em,” Rhyme nói. “Em đã xác định đúng về Garrett. Anh đã sai lầm. Anh chỉ nhìn vào các chứng cứ và hoàn toàn sai lầm.”
“Nhưng em cũng không biết rằng em đúng. Em không biết gì cả. Em chỉ có linh cảm và em hành động thôi.”
Rhyme nói: Bất kể chuyện gì xảy ra, Sachs, anh sẽ không đi đâu cả.” Anh hất đầu chỉ xuống chiếc Storm Arrow và bật cười. “Anh không đi đâu xa lắm được thậm chí nếu anh có muốn đi. Còn em, em sẽ đi, một ngày nào đó. Anh sẽ ở đây đợi em ra tù.”
“Lời lẽ thôi, Rhyme,” Sachs nói. “Chỉ là lời lẽ thôi… Cha em cũng bảo ông sẽ không đi đâu cả. Một tuần sau thì căn bệnh ung thư đưa ông đi.”
“Anh quá bướng bỉnh trước cái chết.”
Nhưng anh không quá bướng bỉnh để tình trạng cơ thể được khá hơn, Sachs nghĩ, để gặp một ai đó khác, để đi tiếp và bỏ lại em đằng sau.
Cánh cửa thông sang phòng thẩm vấn mở ra. Garrett đứng ở ngưỡng cửa, Mason đứng đằng sau cậu ta. Hai bàn tay cậu thiếu niên, không còn bị còng nữa, giơ ra phía trước, khum lại.
“Này,” Garrett nói thay lời chào. “Xem tôi tìm thấy cái gì này. Nó ở trong phòng giam của tôi.” Cậu ta mở hai bàn tay và một con côn trùng nhỏ bay ra. “Đó là một con bướm sư tử. Nó thích tìm hút mật hoa nữ lang. Người ta không hay thấy chúng bên trong nhà đâu. Khá thú vị.”
Sachs mỉm cười yếu ớt, nhận niềm thích thú từ cặp mắt đầy ánh nhiệt tình của cậu thiếu niên. “Garrett, có một việc tôi muốn cậu biết.”
Cậu ta bước đến gần hơn, nhìn xuống cô.
“Cậu nhớ những gì cậu đã nói trong ngôi nhà lưu động chứ? Khi cậu nói chuyện với bố cậu ngồi trên chiếc ghế trống?”
Garrett do dự gật đầu.
“Cậu đã nói cậu cảm thấy đau khổ biết bao khi ông không muốn cậu lên xe buổi tối hôm ấy.”
“Tôi nhớ.”
“Nhưng cậu biết tại sao ông không muốn cậu… Ông đã cố gắng cứu tính mạng cậu. Ông biết trong xe có thuốc độc và cả nhà sắp chết. Nếu cậu lên xe với cả nhà cậu cũng sẽ chết. Và ông không muốn điều đó.”
“Tôi nghĩ là tôi biết,” Garrett nói với giọng thiếu chắc chắn và Amelia Sachs đồ rằng viết lại quá khứ của người ta là một việc không có mấy hy vọng.
“Hãy luôn luôn nhớ như thế.”
“Tôi sẽ nhớ.”
Sachs nhìn con bướm đêm bé tí, màu be, đang bay xung quanh phòng thẩm vấn. “Cậu có để lại con vật nào trong phòng giam cho tôi không? Để bầu bạn?”
“Có, tôi có để lại. Một đôi bọ rùa – tên thật của chúng là bọ hung đốm. Một con rầy và một con ruồi giả ong. Cách chúng bay hay lắm. Cô có thể quan sát chúng hàng tiếng đồng hồ liền.” Garrett ngừng lại. “Nói chung, tôi xin lỗi vì đã nói dối cô. Vấn đề là, nếu không thì tôi không bao giờ thoát ra được và không thể nào cứu Mary Beth được.”
“Không sao đâu, Garrett.”
Cậu ta nhìn Mason. “Bây giờ tôi có thể đi chứ?”
“Cậu có thể.”
Garrett bước ra phía cửa, quay lại và nói với Sachs: “Tôi sẽ tới, nói chung, sẽ thường xuyên tới thăm cô. Nếu được.”
“Tôi sẽ rất vui.”
Garrett bước ra ngoài, và qua cánh cửa mở Sachs có thể trông thấy cậu ta bước tới một chiếc SUV. Đó là xe của Lucy Kerr. Sachs trông thấy Lucy xuống xe, mở cửa cho cậu ta – giống như một bà mẹ đón đứa con trai sau buổi tập đá bóng. Cánh cửa nhà giam đóng lại, cắt đứt cái khung cảnh gia đình này.
Và chẳng mấy chốc cô đã ở trong nỗi cô độc này.
***
Ra khỏi Tanner’s Corner, nơi con đường vẫn còn hai làn đường 112 có một khúc ngoặt, gần sông Paquenoke. Ngay bên lề đường, mọc um tùm những đám lau, lách, chàm, và những khóm mao hương cao khoe hoa đỏ rực rỡ như màu cờ.
Đám cây cỏ này tạo thành góc vườn yên tĩnh, chỗ đỗ xe ưa thích của các cảnh sát quận Paquenoke. Họ nhấm nháp trà đá và nghe đài trong lúc chờ đợi khẩu súng bắn tốc độ ghi nhận một tốc độ năm mươi tư dặm một giờ hoặc hơn thế. Rồi họ phóng xe trên quốc lộ đuổi theo, bất ngờ tóm lấy tay tài xế chạy quá tốc độ cho phép và bổ sung thêm chừng trăm đô la vào kho bạc quận.
Hôm nay, Chủ nhật, khi chiếc SUV Lexus đi qua đoạn đường này, đồng hồ trên khẩu súng bắn tốc độ của Lucy chỉ một tốc độ cho phép, bốn mươi tư dặm một giờ. Nhưng cô vẫn vào số chiếc xe công vụ, bật cái đèn xoay xanh đỏ trên nóc xe và lao đuổi theo chiếc SUV.
Cô tiến đến gần chiếc Lexus, quan sát nó kỹ lưỡng. Đã từ lâu, cô biết cách kiểm tra gương chiếu hậu của chiếc xe cô định yêu cầu dừng lại. Cứ nhìn vào mắt người lái xe là đã có thể cảm thấy được khá chắc chắn loại tội trạng khác mà họ đang phạm phải, nếu quả là như vậy, ngoài tội chạy quá tốc độ cho phép hoặc để đèn hậu bị vỡ. Ma túy, đánh cắp vũ khí, uống rượu. Có thể cảm thấy được mức độ nguy hiểm của việc yêu cầu dừng xe. Bây giờ cô đang trông thấy ánh mắt người đàn ông lướt qua tấm gương, liếc nhìn cô không một chút tội lỗi hay lo lắng.
Ánh mắt an toàn…
Nó khiến cơn giận dữ trong Lucy sôi sục hơn và cô phải hít thở mạnh để kiềm chế.
Chiêc ô tô to lớn trờ lên lề đường đầy bụi và Lucy tiến đến đỗ đằng sau. Theo như quy định thì Lucy yêu cầu dừng xe là để kiểm tra giấy tờ, nhưng cô chẳng bận tâm tới những thứ đó. Không quy định nào của Cơ quan Quản lý Xe gắn máy khiến cô quan tâm. Cô mở cửa xe bằng hai bàn tay run run và bước ra ngoài.
Ánh mắt người đàn ông bây giờ đưa sang tấm gương bên thành xe, tiếp tục lạnh lùng quan sát cô. Nó thể hiện đôi chút ngạc nhiên, chú ý, vì cô đang không mặc đồng phục – chỉ quần bò và sơ mi lao động – tuy cô có đeo súng bên hông. Một cảnh sát đang không trong giờ làm nhiệm vụ yêu cầu dừng một chiếc xe không chạy quá tốc độ cho phép nghĩa là thế nào.
Henry Davett kéo kính cửa sổ xe xuống.
Lucy Kerr nhìn vào bên trong, cái nhìn vượt qua Davett. Ngồi ở ghế hành khách phía trước là một phụ nữ ngoài năm mươi tuổi. Mái tóc vàng xịt keo khô se cho thấy bà ta chắc chăm đi gội đầu ngoài tiệm. Cổ tay, tai và ngực bà ta lóng lánh kim cương. Một cô con gái tuổi thiếu niên ngồi đằng sau, lật xem các hộp đựng đĩa CD, thầm thưởng thức thứ âm nhạc mà cha cô không bao giờ nghe vào ngày Chủ nhật – ngày nghỉ ngơi và thờ phụng đức Chúa.
“Sĩ quan Kerr,” Davett nói. “Có vấn đề gì thế?”
Nhưng Lucy có thể trông thấy trong ánh mắt ông ta, bây giờ thì không còn là qua gương nữa, rằng ông ta biết chính xác vấn đề là gì.
Và họ vẫn giữ vẻ vô tội, bình tĩnh, như khi Davett trông thấy ánh đèn xanh đỏ xoay trên nóc chiếc Crown Victoria của cô.
Cô không kiềm chế được cơn giận dữ và quát lên: “Xuống xe đi, Davett.”
“Anh yêu, anh đã làm chuyện gì?”
“Có cảnh sát, việc này là sao?” Davett thở dài hỏi.
“Xuống xe. Mau.” Lucy cho tay vào bên trong, bật khóa cửa xe.
“Cô ta có thể làm thế ư, anh yêu? Cô ta có thể…”
“Im đi, Edna.”
“Được rồi, tôi xin lỗi.”
Lucy giật mạnh cửa xe. Davett tháo dây an toàn và bước ra lề đường đầy bụi.
Một chiếc xe rờ moóc phóng qua, làm trùm bụi lên khắp người họ. Davett khó chịu nhìn những hạt đất sét Carolina xám xịt đậu xuống chiếc áo vét màu xanh da trời. “Gia đình tôi và tôi bị muộn giờ ăn trưa rồi. Tôi không nghĩ…”
Lucy tóm cánh tay ông ta, lôi ông ta ra khỏi lề đường, đứng vào bên đám lúa trời và cỏ nến mọc cao. Một dòng suối nhỏ, là một nhánh của sông Paquenoke, chảy bên cạnh đường.
Davett cường điệu nhắc lại: “Việc này là sao?”
“Tôi đã biết tất cả.”
“Thế à, sĩ quan Kerr? Cô đã biết tất cả à? Là những gì vậy?”
“Chất độc đó, những vụ án mạng, con kênh đào…”
Davett nhẹ nhàng nói: “Tôi chưa bao giờ có một chút quan hệ trực tiếp nào với Jim Bell hay bất cứ ai ở Tanner’s Corner. Nếu có những thằng ngu rồ dại nào đấy trong số nhân viên của tôi đi thuê những thằng ngu rồ dại khác làm những việc phi pháp, thì đó cũng đâu phải lỗi của tôi chứ. Và nếu điều đó đã xảy ra, tôi sẽ hợp tác với nhà chức trách trăm phần trăm.”
Không bối rối trước câu đáp trả khéo léo của Davett, Lucy nói giọng đe dọa: “Ông sẽ chìm cùng với Bell và thằng em rể hắn.”
“Tất nhiên tôi sẽ không sao cả. Không có gì liên hệ tôi với bất cứ tội ác nào. Không nhân chứng. Không tài khoản, không chuyển tiền, không bằng chứng về bất cứ việc làm sai trái nào. Tôi là nhà sản xuất các sản phẩm hóa dầu – chất tẩy, nhựa đường, và một số loại thuốc diệt côn trùng.”
“Thuốc diệt côn trùng bất hợp pháp.”
“Sai,” Davett gay gắt đáp. “Cơ quan Bảo vệ Môi trường vẫn cho phép sử dụng toxaphene tại Mỹ trong một số trường hợp. Và nó hoàn toàn không bất hợp pháp tại hầu hết các nước Thế giới thứ Ba. Hãy chịu khó đọc, cô cảnh sát: nếu không có thuốc diệt côn trùng, bệnh sốt xuất huyết, bệnh viêm não, nạn đói… sẽ giết chết hàng trăm nghìn người mỗi năm và…”
“… và khiến những người tiếp xúc với nó mắc chứng ung thư, mất khả năng sinh sản, bị tổn thương gan, và…”
Davett nhún vai. “Hãy cho tôi thấy các nghiên cứu đi, cảnh sát Kerr. Hãy cho tôi thấy các nghiên cứu chứng minh điều ấy.”
“Nếu nó vô hại đến thế thì tại sao ông phải thôi vận chuyển bằng xe tải? Tại sao ông phải chuyển sang vận chuyển bằng xà lan?”
“Tôi không thể đưa nó đến cảng bằng bất cứ cách nào khác – vì có những quận và thị trấn thích a dua a tòng đã cấm vận chuyển một số loại hóa chất mà họ không biết thông tin thực sự về chúng. Và tôi không lấy đâu ra thời gian để thuê đám vận động hành lang tác động thay đổi luật.”
“Chà, tôi cuộc rằng Cơ quan Bảo vệ Môi trường sẽ quan tâm tới việc ông đang làm ở đây.”
“Ồ, xin mời,” Davett khinh khỉnh nói. “Cơ quan Bảo vệ Môi trường ấy à? Hãy bảo họ đến. Tôi sẽ cho cô số điện thoại của họ. Nếu họ có đến thăm nhà máy nhé, thì họ cũng sẽ tìm thấy toxaphene ở mức độ cho phép khắp xung quanh Tanner’s Corner này.”
“Có thể ở mức độ cho phép nếu xét riêng nước, riêng không khí, riêng các sản vật địa phương… Nhưng nếu tất cả những thứ đó kết hợp lại với nhau? Nếu một đứa trẻ uống một cốc nước lấy từ cái giếng cha mẹ nó đào, rồi chơi trên cỏ, rồi ăn một trái táo hái từ một vườn quả địa phương, rồi…”
Davett nhún vai. “Luật pháp quy định rõ ràng, cảnh sát Kerr. Nếu cô không thích chúng, hãy viết thư gửi ông nghị bà nghị của cô.”
Cô tóm ve áo Davett, gầm lên: “Ông không hiểu. Ông sắp sửa phải vào tù.”
Davett giật áo ra, thì thầm hằn học: “Không, cô mới không hiểu, cô sĩ quan. Cô rất không hiểu. Tôi rất, rất hiểu việc tôi làm. Tôi không phạm phải lỗi lầm nào cả.” Ông ta liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Bây giờ tôi phải đi.”
Davett bước trở về chỗ chiếc SUV, vuốt vuốt mái tóc đang thưa dần. Mồ hôi khiến nó thẫm màu và ẹp xuống.
Ông ta trèo vào xe, đóng sầm cánh cửa lại.
Lucy bước tới phía người lái khi ông ta bắt đầu nổ máy. “Hẵng khoan,” cô nói.
Davett liếc nhìn Lucy. Nhưng người nữ cảnh sát phớt lờ ông ta. Ánh mắt cô đang hướng vào những hành khách của ông ta. “Tôi muốn mẹ con bà trông thấy cái việc mà Henry đã làm.” Hai bàn tay khỏe mạnh giật bung vạt áo sơ mi. Người phụ nữ trong xe há hốc mồm nhìn các vết sẹo màu hồng ở vị trí trước đây là bộ ngực cô.
“Ôi, xin hãy thôi đi.” Davett lẩm bẩm, đưa ánh mắt qua chỗ khác.
“Cha…” cô con gái sững sờ thì thào. Bà mẹ cứ nhìn chằm chằm, không thốt lên lời nào được.
Lucy nói: “Ông bảo ông không phạm phải lỗi lầm nào ư, Davett? Ông sai rồi. Ông đã gây ra việc này.”
Gã đàn ông gài số xe, đánh xi nhan xin rẽ, kiểm tra gương quan sát điểm mù, rồi từ từ cho xe ra quốc lộ.
Lucy đứng đó hồi lâu, nhìn chiếc Lexus đi xa dần. Cô lục túi quần lôi ra kim băng cài lại áo. Cô đứng dựa vào xe mình hồi lâu, cố gắng không khóc, rồi tình cờ cô nhìn xuống, để ý thấy ở vệ đường một bông hoa nhỏ có màu đỏ hơi hung hung. Cô nheo mắt. Nó là một bông lan hài hồng, thuộc họ phong lan. Những bông hoa trông giống những chiếc hài tí hon. Đây là loài hiếm gặp ở quận Paquenoke và cô chưa bao giờ thấy cây lan hài nào dễ thương như cây này. Sau năm phút, bằng cần gạt tuyết trên kính chắn gió, cái cây đã được cô đánh lên và được đặt an toàn vào cái cốc cao của chuỗi cửa hiệu 7-Eleven(40) thứ bia mang hương vị rễ cây phải hy sinh cho vẻ đẹp khu vườn của Lucy Kerr.
(40) 7-Eleven có nghĩa là 7-Mười một – một hệ thống cửa hiệu đa quốc gia, ban đầu mở cửa từ bảy giờ sáng đến mười một giờ đêm.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.