Gió Vĩnh Cửu

CHƯƠNG 8 – SỰ XÂM LƯỢC



Chúng tôi đến hòn đảo trôi này đã một tuần lễ; đúng hơn là mới một tuần lễ trôi qua thôi, nhưng nhờ những ấn tượng phong phú mà chúng tôi tưởng như đã sống ở đây từ lâu. Côxchia rất thích chiếc “ phao “ của chúng tôi, những con cá voi, những con đenphin, những buổi tắm ban sáng, những lúc báo động đột ngột. Cậu ta mê công việc của mình: nghiên cứu hàm lượng kim loại hiếm trong tế bào của các động vật dưới biển. Cậu ta không còn nói thêm một tiếng nào về cái việc phải chuồn ngay khỏi đây, về những luật lệ và thái độ lãnh đạm của cư dân trên đảo. Không, rõ ràng là cậu ta kiêu hãnh vì đã nhanh chóng nắm được “ Qui tắc biển “. Điều này cũng giống như đối với tôi. Tôi và cậu ta đều không tìm thấy một chổ nào khác trên trái đất lại có thể thích hợp với chúng tôi trong mọi quan hệ như vậy.
Lúc có mặt Paven Mêphôđiêvích, Côxchia nói rằng cậu ta có cảm giác như rơi vào một hành tinh khác, mà hòn đảo của chúng tôi chẳng qua chỉ là một con tàu đang bay đi đâu đó và cậu ta ngước nhìn lên bầu trời.
Ông giáo lau tay:
– Một sự so sánh đúng đắn lạ lùng đấy anh bạn ạ. Nhiều khi tôi cũng có cái cảm giác tương tự. Xung quanh ta có biết bao nhiêu điều còn chưa nhận thức được! biết bao nhiêu điều bí ẩn!
Ông giáo vỗ vào lưng Côxchia. Hẳn rằng ông thích anh bạn tính khí có phần thất thường của tôi. Với tôi, ông có đôi chút giữ gìn, có thể nói là thận trọng. Tuy vậy, đã đôi lần tôi bắt gặp ánh mắt hài lòng của ông khi đọc những ghi chép thí nghiệm của tôi.
Sau bữa cơm chiều mỗi người trên đảo thường tiêu khiển ở hàng hiên lớn nhô ra trên mặt đại dương. Chúng tôi cả thẩy có bốn người: Pêchia Xamôilốp, Kỳ, Côxchia và tôi để tỏ ra lịch sự đã ghé vào câu lạc bộ của địa phương, rồi vội vã đi đến bến để có thể lướt tàu quanh đảo có các đenphin hộ tống. Gió rít bên tai. Vết lửa xanh trải ra đằng lái. Thân những con đenphin cũng phát sáng khi chúng xuyên qua sóng, rút ngắn đường vươn lên trước. Chúng mới sung sướng làm sao, khi bơi về vũng biến trước tiên, làm kỹ thuật của con người phải hổ thẹn.
Chiều hôm qua Côxchia làm ra vẻ nghiêm túc, cố giấu nụ cười trang trọng nói:
– Các cậu về phòng mình một lát đi. Mình đánh hỏng mất gần hai trăm mét phim, thế mà đã ghi được một cái gì đó cho đời sau. Chẳng mấy chốc mình sẽ có thể cạnh tranh với Côrinhtơn và ông cụ của mình.
Không một ai trong chúng tôi muốn sử dụng thời gian thoải mái nhất trong ngày của mình vào bốn bức tường, mà lại là xem phim nghiệp dư. Chúng tôi nói rằng muốn phóng tàu lướt trên mặt đại dương, nhưng Côxchia nói:
– Nào, các cậu không mất quá mười phút đâu. Sau đó chúng ta sẽ cùng nhau quấy ngầu đại dương lên.
Trong phòng đã chuẩn bị sẵn sàng để chiếu phim. Chiếc máy “ Píchmây “ đen sẫm đứng trên giá ba chân, hướng ống kính vào màn ảnh lớn. Chúng tôi ngồi lên thảm và chẳng mãy chốc quên hẳn chuyện dạo chơi trên tàu. Côxchia đúng là một người quay phim có tài. Cậu ta quay hình ảnh đảo ở các góc độ khác nhau: đạt nhất là những cảnh quay từ trên đèn biển và trực thăng.
cuốn phim quay bắt đầu là cảnh mặt trời mọc. Từ mặt biển tím xám nhô lên một chiếc đĩa tròn đỏ rực. Cậu ta lấy đâu được cái ánh sáng nhẹ nhàng và duyên dáng như vậy? Một cảm giác kỳ lạ tràn ngập trong chúng tôi, như đứng trước bức tranh của một họa sĩ đã có biết bao nhiêu lần quan sát để tạo nên một lần duy nhất. Đó là nhiệm vụ và cũng là câu đố vĩnh cửu của nghệ thuật.
Tôi chưa từng được trông thấy đại dương, mặt trời và đàn cá voi như vậy. Những
con cá khổng lồ được chăn ở một bình nguyên rải rác màu xanh sữa. Nhưng thích thú nhất vẫn là những bài giảng của Paven Mêphôđiêvích. Thầy giáo đứng trên một chiếc bực nhô lên trên mặt nước nói qua máy dò âm dưới nước. Phía dưới tập trung gần hai trăm con đenphin. Chúng ở dưới nước với các tư thế khác nhau tỏ vẻ thích thú lắng nghe giảng viên. Có lẽ máy truyền đạt từ của con người đã làm cho các đenphin có một cảm giác chắc chắn là con người đang nói tiếng nói của chúng, nhưng sai ngôn ngữ, sai trọng âm. Đôi khi vang lên tiếng ồn ào chói tai. tiếng tặc lưỡi và tiếng huýt sáo trong giảng đường biểu lộ một sự khoái trá hay không hài lòng. Nhưng sau đó lại là sự chăm chú im lặng. Phía bên phải giảng viên, trên màn ảnh chiếu phim ban ngày, đang chiếu bộ phim tài liệu về sinh hoạt của một thành phố hiện đại.
– Mình đã mất nhiều thì giờ vì những tấm ảnh này, – Côxchia nói. – Ông cụ hai lần ngắt bài giảng và dọa sẽ nhờ các đenphin nhận chìm máy quay phim của mình. Cậu có hình dung được vị trí của mình không? Lênh đênh trên một chiếc thuyền phao giữa đàn cá; mà theo ánh mắt của chúng, thì chúng sẵn sàng làm theo yêu cầu của ông cụ.. Mình sợ ông cụ tước mất của các cậu cái thú được xem bộ phim này, mình đã hứa là chỉ chiếu trong phạm vi hẹp và sẽ không đưa một tấm ảnh nào vào phim thời sự quốc tế cả. Chăng hiểu vì sao mà ông cụ sợ phổ biến. Đây lại là một câu đố về con người bí ẩn đó…
Phim và câu chuyện của Côxchia bị Lagơrănggiơ – nhà phỏng sinh học, người trực chính trên đảo, ngắt quãng. Anh ta hiện ra trên màn ảnh vô tuyến truyền hình, má hồng, tươi cười. Anh xin lỗi vì bắt buộc phải làm phiền chúng tôi trong giờ rỗi rãi. Sau đó làm bộ nghiêm nghị tuyên bố rằng có chuyện trục trặc trên đường dây tải điện đến máy bốc rỡ.
Tôi và Côxchia liếc nhìn nhau. Điều đó không giấu nổi cặp mắt tinh ranh của Lagơrănggiơ. Anh ta nheo mắt, thở dài thông cảm, gật đầu và biến mất.
– Anh chàng Lagơrănggiơ này là một con người kỳ lạ, – Côxchia nói. – Tại sao hắn lại nói với chúng ta về việc này? nếu là việc chung của mọi người thì tại sao những “ hộp Panđôra “ lại im lặng? Có lẽ chỉ là chuyện vớ vẩn. Năm phút nữa người máy thợ điện chữa xong chỗ hỏng, còn chúng mình lại tiếp tục xem phim. Bây giờ sẽ là những công trình tuyệt tác dưới mặt nước.
Pêchia Xamôilốp thích thú quan sát chúng tôi, rồi hỏi:
– thế các anh đã chú ý làm quen với những nhiệm vụ của mình chưa?
Chúng tôi lại nhìn nhau:
– Hình như đã, – Côxchia nói.
– Chưa hẳn. Lagơranggiơ đúng. Hãy đi, đi nhanh lên. Các tàu ướp lạnh phải ra khơi đúng lúc nếu không thì các nhà máy sẽ phải ngừng việc.
Trên đường đi cậu ta giải thích cho chúng tôi biết là cả ba chúng tôi ở trong đội sửa chữa những hư hỏng. Trên đảo hiện giờ chưa có người máy phục vụ có khả năng loại trừ những chuyện trục trặc trên lưới điện.
– Nói chung, cho đến nay vẫn còn chưa thấy cần thiết có những người máy phục vụ chuyên về việc này. ở đây mọi việc đều đáng tin cậy được. Đi theo tôi.
Cậu ta kéo chúng tôi đi vào một con đường nhở mờ mờ tối; đom đóm chập chờn đe dọa. Thoang thoảng hương lan.
Pêchia rẽ sang con đường nhỏ lờ mờ tối. Chúng tôi lạc vào một rừng dừa.
Mọi cái ở đây đều trật tự: dây cáp phát quang như vậy là vẫn còn nguyên vẹn.
Bây giờ tôi mới thấy có một dải lân tinh mờ sáng trải ra trên cổ. Quanh mình có cái gì đó sột soạt, lao xao. Côxchia bấm đèn pin. Trên bãi có những con cua mai vàng rực với những chiếc càng màu da cam to xụ đang bò loàng quàng; đôi mắt hạt cườm hấp háy nhô lên như những chiếc ăng ten của những người từ vũ trụ bay về. Những kẻ mới đến đó đang xột xoạt xén những thân cỏ non.
– lần đầu tiên mình trông thấy những con cua cạn như vậy. – Pêchia Xamôilốp nói. – Thông thường những con ở đại dương bò lên thì xinh xắn, còn những con này thì… Đôi mắt chúng thật lạ lùng.
Một quả dừa rơi xuống gần đấy, lại một quả nữa tiếp theo.
Côxchia nói:
– Những tên ăn cắp dừa. Chúng ta chạy mau không thì…
Như để khẳng định mối nguy hiểm cho cậu ta, một quả dừa rơi ngay xuống khoảng giữa hai chúng tôi.
Khi chúng tôi đã may mắn chạy thoát khỏi vùng nguy hiểm, Pêchia nói:
– Một loại cua mới. Chúng từ đâu đến nhỉ? Sinh sôi nảy nở quá nhiều. Có lẽ ban ngày chúng trú trong hang. Các cậu trông! Chúng đang chén dừa! Không, chúng hoàn toàn không giống những con ăn cắp dừa của chúng ta.
Côxchia mỉm cười lưu ý:
– Chúng như những con dao pha. Ăn cả dừa lẫn dứa.
Pêchia chiếu đèn pin vào một con cua lớn đang gặm ruột quả dừa tươi.
– Loại mới! – Pêchia nói giọng run run. – Các cậu hãy nhìn hình dáng cái mai của chúng. Mình thấy loài cua ở quanh vùng đá ngầm giống loài cua này.
Côxchia trầm ngâm nói:
– Mọi con cua đều giống nhau, đặc biệt là về đêm.
– Và nhà tự nhiên học cũng nói thế! Cậu nghe thấy không? – Pêchia hướng về tôi. – đến trẻ con cũng thấy đây là một loại mới hoàn toàn.
– Cho là thế đi nữa. – Côxchia nói, – thì có đáng để mà băn khoăn hay không? Mình không định tranh luận, ừ thì là một loài mới.
Pêchia hơi tự ái:
– Trong lời lẽ của cậu có ý khinh bỉ người khác. Cậu cho là mình nói chuyện vớ vẩn. Nên nhớ rằng lớp giáp xác mình đã nghiên cứu lâu và nghiêm túc.
Côxchia bất chợt nổi khùng:
– Còn mình thì mặc xác cái loài tiết túc hay giáp xác của cậu, cả sứa và cả mực.
Pêchia nín thinh, thở phì phò không tìm được lời nào đối đáp.
Thật là lạ, nhưng tôi thấy háo hức một cách ác ý. Tôi sung sướng được thấy họ cãi nhau và khẽ bật cười một cách vô duyên chờ xem sự việc sẽ ra sao.
Côxchia nhận ngay ra tiếng cười của tôi là ngu ngốc không đúng chỗ. Tôi đang định văng tục, thì bỗng nhiên ánh sáng trên dây cáp tắt ngẵm. Và chúng tôi dừng lại. Không hiểu tại sao chúng tôi đều thấy sửng sốt tuy rằng đang chờ đợi việc này từ nãy đến giờ. Tôi thấy sượng sùng trước bạn bè vì những ý nghĩ không tốt vừa rồi.
– ừ, – Côxchia nói, – hôm nay thật là lạ. Pêchia, cậu bỏ qua cho mình. Đúng là những con cua đó có một cái gì khang khác. Không biết đặt chân vào đâu với cái loại “ trời đánh “ này.
Không hiểu sao chúng tôi thậy vui nhộn khác thường. Đáng lẽ phải đi chữa chỗ hỏng thì chúng tôi lại nắm tay nhau cười rộ và nhảy cẫng lên. Dưới chân lép bép những mai cua bị đè bẹp và điều đó làm chúng tôi thích thú điên dại..
Lại một lần nữa chúng tôi thấy xấu hổ.
Pêchia mãi mới trấn tĩnh được, cậu ta nói:
– Phải nâng viên gạch này lên và xem tại sao. – Cậu ta gõ đế giày vào lớp men bên ngoài ống góp.
– Cần gọi người máy phục vụ. – Côxchia đề xuất ý kiến. – Ivơ cậu chạy đi gọi Pênhêlôpa. Để cô ta làm.
Tôi không hiểu chúng tôi còn đứng đây bao nhiêu lâu nữa, dựa dẫm xem ai sẽ nâng viên gạch đó lên nếu như không có một con cua quắp vào ngón chân Côxchia. Cậu ta kêu lên, nhảy lò cò một chân. Sau đó cúi xuống và nắm lấy cái quai của viên gạch kéo lên ném về một phía.
Trong ống góp lúc nhúc những cua. Một con màu đỏ xẫm, đứng yên, càng quắp vào cách điện gây chập mạch. Côxchia hét lên ra lệnh cho tôi và Pêchia. Chúng tôi đành phải ngoan ngoãn nhảy xuống cái hồ nông, nắm chân và mai những con cua ném đi.
Côxchia nhìn chúng tôi hồi lâu rồi nói:
– Thật là công cốc. Các cậu vứt đi hai con, chúng bò đến bốn. Chúng đến ồng góp từ cả hai phía. Phải dùng cách khác. Thôi leo lên. ừ mà gỡ chỗ chập mạch ra.
Một điều lạ, đến bây giờ vẫn chưa ai trong chúng tôi ném con cua mai đỏ xẫm ấy đi. Tôi vất vả mới gỡ được càng nó ra khỏi lớp cách điện bằng chãt dẻo. Ngay lúc đó ánh trăng nhân tạo trên các bến bừng sáng. Pêchia ra công bóp nhựa cách điện dùng trong ống nhựa mém vào chỗ hỏng. Còn tôi thì đá những con cua ra khỏi chỗ cậu ta.
– Tất cả đi lên! – Côxchia ra lệnh. – Cách điện đã cứng lại. Nhưng mình không dám chắc là nó không có thể hỏng ở chỗ khác. Tiến lên phía trước.
Côxchia đi nhanh về vũng biển. Cậu ta dừng lại kêu lên gì đó rồi vừa vẫy tay vừa chạy nhón gót. Tôi chạy theo cậu ta và đã hiểu tại sao cậu ta phải chạy nhón gót: khắp mặt đường lỗm ngỗm cua bò lóc nhóc thành đàn đông nghịt. Cố gắng để khỏi giẫm lên chúng, tôi vừa nhảy vừa tìm chỗ trống. Vậy mà mỗi bước nhảy lại nghe thấy lép bép dưới chân.
Bốn vừng trăng vàng nhạt từ tháp đèn biển chiếu sáng các tàu ướp lạnh tạo thành một cảnh tranh tối tranh sáng. Chúng tôi chạy theo con đường ngắn nhất qua cánh rừng tre đang tỏa bóng lấp loáng trong điệu nhảy cuồng loạn. tưởng chừng như chúng tôi rơi vào con đường xoáy không có lối ra. Mười mét cuối cùng tôi vừa chạy vừa phải giơ tay ra phía trước lách qua những cành tre: đường mòn đã biến mất từ lâu. Đâu đó ở đằng sau Pêchia Xamôilốp đang thở hổn hển.
cuối cùng ba đứa chúng tôi cũng đến được bến, mồ hôi vã như tắm. Một đêm trăng lặng lẽ. Làn gió hanh nặng nề quay những chiếc cánh quạt của máy quay gió. Những chiếc cánh quạt mờ mờ trong đêm tối phát ra một điệu nhạc êm êm. Thông thường vào lúc này vũng biển có sinh hoạt đặc biệt của mình. Những đenphin con đùa giỡn, chơi những trò chơi ồn ào chẳng sợ làm phiền con người và những công trình vụng về của họ nổi trên mặt vũng biển. Những cá lớn tụ tập trên ban công, lớn tiếng trao đổi tin tức, Kharita kể những câu chuyện thần thoại trẻ con. Những đội tuần tra tập trung ở giữa vũng biển lấy đà như điên lao ra cửa vũng. Những đenphin từ các trạm xa vui vẻ bơi về. Nói cho đúng, vào giờ này vũng biển hoàn toàn thuộc về các sinh vật cao đẳng dưới biển. Hôm nay trong vũng im ắng lạ thường; hình như tất cả đã rời bỏ nơi đây vĩnh viễn.
Côxchia gọi Prôtây. Giờ này Prôtây phải có mặt ở phiên trực để bắt đầu trông coi các cá voi từ tảng sáng. không thấy Prôtây đáp lại. Một sự việc không sao hiểu nổi: đenphin thường trực biến mất. Nó bao giờ cũng ở trong vũng biến; chỉ một tiếng gọi, là lao vào bờ.
Mọi người im lặng một phút. Nghe ngóng, cố gắng tìm hiểu xem có chuyện gì đã xảy ra.
Côxchia tỳ vào lan can, ngó xuống nước hỏi:
– Dù sao thì các cậu hãy giải thích cho mình thế là thế nào? Tại sao các cậu lại nghĩ ra cái chuyện nhảy múa trên các con cua? Tại sao lại chạy như điên ra bờ vũng biển, lại còn chạy qua rừng tre? Mình có cảm giác như là cuộc sống phụ thuộc vào sự việc đó. Trong lúc lách người giữa các thân cây mình bị xước má rất ghê. Mình biết là cũng chóng khỏi thôi.
Tôi trả lời:
– cái gì đó giống như loạn thần kinh hàng loạt.
– Loạn thần kinh hàng loạt, – bất chợt Côxchia đồng ý. Cậu ta vốn vẫn hay tìm cách phản đồi những dẫn chứng xác đáng của tôi. – Cậu thử nghĩ xem chẳng hiểu tại sao mình cũng đã định nhảy xuống nước. Có thể do tác động của cái vì sao đó chăng?
Khác với Côxchia tôi thường sẵn sàng đồng tình với cậu ta nếu như trong lời nói cậu ta có được một chút ý nghĩ lành mạnh. Nhưng lần này ý nghĩ của câu ta vô lý quá chừng, nên tôi ra sức công kích cậu ta.
Đáng lẽ che đỡ sự công kích của tôi ( việc này cậu ta biết cách ) thì cậu ta lại lặng thinh nhìn lên cẩu dùng để nhảy xuống nước. Pêchia cũng vậy.
– Các cậu thấy cái gì ở đấy? – tôi hỏi và sững sờ cả người. tôi thấy lạnh cả sống lưng đang ướt đẫm. Khắp cẩu phủ kín những cua. Chúng bò khắp đường đi, bò từ dưới nước thành vòng xoáy lên tận đỉnh chòi. Từ trên đó chúng rơi xuống nước. Chúng bò trên cầu thang, cột chống, lấy càng quắp vào xà ngang treo lơ lửng. Cái chòi như sinh động hẳn lên. Bãi tắm sau chòi đặc những cua. Từng hàng vô tận những cua bò khỏi mặt nước và đội ngũ dày đặc đó tiến theo sườn dọc lên trên đảo. Những chiếc mai ướt mờ mờ, lấp lánh dưới ánh trăng.
Chúng tôi nhìn đám diễu hành thầm lặng đó như những người bị mất hồn, không còn biết quyết định như thế nào, và có thể làm gì chúng.
Côxchia lên tiếng trước, phá tan sự im lặng:
– Minh muốn biết dự định của chúng.
– Những cuộc di cư của cua từ dưới nước lên cạn là việc thường. Nhưng mình không hiểu nó say mê gì loại đá ba-dan và cái đảo trôi này, – Pêchia trả lời.
– Bây giờ thì chờ đấy các cậu ạ, – Côxchia reo lên vui vẻ. – Đội chống sự cố của chúng ta tha hồ mà có việc làm! Những chiếc “ hộp Panđôra “ sẽ nói bây giờ.
Bất thình lình các mặt trăng tắt ngẫm, chỉ còn một dãy đèn sáng trên tàu ướp lạnh và trên con đường chính.
– Minh đã bảo mà! – Côxchia nắm lấy vai tôi. – Nghe này!
Từ chiếc hộp đeo ở cổ tôi vang lên giọng nói của Lagơrănggiơ, kêu gọi mọi người dân trên đảo đến họp đại hội.
Sau mười phút hội nghị chúng tôi lại đến vườn dứa. Nhiệm vụ đặt ra cho chúng tôi là bảo vệ dây cáp điện và dọn sạch cua khỏi vùng gần đó. Việc đầu tiên dĩ nhiên là chúng tôi tìm ra những chỗ hư hỏng mới: bây giờ thì cách điện bị gặm trơ ở ba chỗ.
Những mặt trăng và các đèn chiếu phòng sự cố lại bừng sáng rực rỡ làm lóa mắt. Những con cua mau chóng biến xuống dưới đất. Lagơrănggiơ đã quên rằng chúng tôi phải xứ lý giống vật ăn đêm, phải tạo “ hoàng hôn “ để cua bò ra khỏi hang; chúng sẽ đi phá hoại cây cối và mọi cái mà chúng có thể quắp được.
Pênhêlôpa là một cô trợ lý không thể thiếu được. Cô nhẹ nhàng vác những hộp nặng đến ba trăm cân mang đến nhà máy sản xuất dầu mỡ. Sau khi xem chúng tôi làm việc cô mau chóng biết cách bắt cua và lôi chúng từ trong hang ra khéo hơn cả chúng tôi: cô chẳng việc gì mà phải sợ những cái càng nâu da cam.
Trong khi làm việc chúng tôi không còn thấy bị kích động và mệt mỏi nữa. Rõ ràng rằng trong chúng tôi đã nãy sinh ra tính miễn dịch đối với mọi tác động khó hiểu. Hướng hoạt động của một tập thể lớn con người và điệu nhạc phấn khởi đang vang lên đã ảnh hưởng đến tâm trạng chúng tôi. Tâm trạng sảng khoái lại trở về với chúng tôi và những khó chịu trước bị quên đi. Chúng tôi làm việc như vậy gần ba giờ liền cho đến khi bất ngờ nhận thấy Pênhêlôpa ở nhà máy sản xuất dầu mỡ không quay lại nữa.
Côxchia tỏ ra rộng lòng muốn đi tìm “ cô gái bằng sắt “, nhưng tôi và Pêchia Xamôilốp phản đối cái dự định rõ ràng là muốn trốn việc.
– Được, – Côxchia đồng ý một cách ngờ vực, – thế thì hai cậu đi đi để mình ở lại với những quân giặc đang tan rã, nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn này cũng được.
Bây giờ tôi mới hiểu là mình bị mắc lừa. Nhưng cũng chẳng có việc gì để làm. Pêchia không biết sơ đồ điều khiển Pênhêlôpa, còn tôi, được Côxchia gửi lời chúc mừng thành công, thì đi tìm.
Những người máy phục vụ chuyển động trên đường lớn dẫn đến khu công nghiệp liên hợp. Dòng bên trái mang hàng, dòng bên phải đi không. Trong lúc tranh tối tranh sáng, cái tư thế đó gây nên một cảm giác hết sức ảm đạm. ở đây những đường nét giống con người do những nhà chế tạo đã tạo cho người máy là đập vào mắt hơn cả.
Trong buổi tối kỳ lạ đó, mọi cảm giác đều căng thẳng, ngay cả cái cảm giác quen thuộc cũng có những đặc điểm không bình thường. Tôi ngạc nhiên nhận thấy những người máy đi với những cự ly đều nhau như những người lính bị bó chặt trong cái giáp chống phóng xạ. Thật hệt như một cảnh mà tôi đã được xem trong bộ phim tại liệu lịch sử. Đi theo kiểu nhà binh chẳng có gì là đáng sợ. Nhịp độ và cự ly đặt ra ( để khi rỡ hàng tránh không chen lấn lên nhau ). Tôi cố tìm trong dòng người máy người đẹp Pênhêlôpa của chúng tôi.
hầu hết những người máy phục vụ ăn vận trang nhã trong những áo khoác lân ti màu xám với những chữ số lồ lộ sau lưng. Hôm nay Pênhêlôpa “ khoác “ bộ quần màu xanh: dù ở trong đám đông này, chúng tôi cũng có thể tìm ngay ra cô ta.
Hai bên đường đi nghe rõ những giọng nói, lập lòe những ánh đèn pin. Những người máy vác hàng từ các đường nhỏ đi ra hòa vào dòng người chung. Đi đến tận cửa sập của nhà máy sản xuất phân bón tôi cũng không tìm thấy Pênhêlôpa.
Ngoài bờ biển đã không còn cua nữa. Những đenphin làm nhiệm vụ phong toả vào gần đảo đã xuất hiện. Tôi từ bờ biển quay về xưởng sửa chữa, hi vọng tìm một người máy phục vụ dự phòng đã được nạp điện. Bỗng tôi nghe thấy một loạt tiếng huýt trầm đục của Tavi. Đó là lời chào hỏi và mời nghe tin tức lý thú. Tôi cầm máy dò âm dưới nước ở ngay chỗ dốc của bãi biển, đập vào vây nó và hỏi nó vừa đi đâu mất hút có chuyện gì xảy ra trong vũng biển. Cư dân của biển biến đâu cả rồi?
– Vừa có Con mực Vĩ đại đến.
– Ở đâu? ở trong vũng biển hả?
– Gần! rất gần!
– Tất cả đều chạy đi cả à?
– Tất cả đều ở đây, Tất cả đều lo sợ.
– Nó hiện ở đâu?
– Ở đó, bao giờ cũng ở chỗ đó. Nó đi rồi. rất đáng sợ.
Một tuần lễ trước đây thông báo này chỉ làm tôi cười mỉa, còn hiện giờ thì tôi nghe một cách rất nghiêm túc và đối chiếu với những băn khoăn vừa rồi của chúng tôi. Tôi cho rằng có thể chúng tôi vừa chịu một tác động mạnh nào đó về tâm lý, mặc dù không loại trừ khả năng sai lầm của Tavi: nguyên nhân có thể không do con mực huyền hoặc mà là do đàn cua. Chúng tôi đã biết gì về chúng? Tôi nói lên những điều hoài nghĩ của mình với Tavi và được nghe một tràng dài khó hiểu, hẳn là những lời lẽ mỉa mai bực tức. Nhưng nó cũng chẳng mất thì giờ để dịch lại vì còn dự trữ một thông báo quan trọng nữa chưa kịp chia sẻ với tôi. Chính vì điều đó mà nó đã gọi tôi, còn tôi thì lại chuyển sang những câu chất vấn ngô nghê, đầy hoài nghi của mình. Tavi cố bình tĩnh. Với một nhịp điệu chậm hơn, thông báo rằng dưới đáy biển ngay cạnh đảo xuất hiện một sinh vật kỳ lạ phát sáng.
Tôi mừng rỡ được là người đầu tiên nhận một tin tức đáng kinh ngạc như vậy và hỏi:
– Con mực Vĩ đại?
Lần này Tavi tỏ ra kiên nhẫn. Có lẽ nó định chấm dứt mọi câu hỏi ngớ ngẫn của tôi về cái tiếng “ Vĩ đại “, nên nó giải thích rất lâu bản chất của cái vật bí ẩn đó. Những giải thích dài dòng của nó cho tôi hiểu rằng không một động vật nào sống ở đại dương đã trông thấy Con mực Vĩ đại và chúng chỉ trông thấy nó trước giờ chết mà thôi.
Tôi làm ra bộ ( hoàn toàn vô hiệu quả ) là đã hiểu cái bản chất khó hiểu về Con mực Vĩ đại và yêu cầu tiếp tục kể về sinh vật kỳ lạ mới có ở dưới đáy vũng biển. Có lẽ Tavi đã mệt. Tôi chỉ khai thác được ở nó những tin tức chính về “ loài vật phát sáng “ để đi đến kết luận rằng đó chỉ là một vật thể có màu sắc giống như loài tôm phát sáng.
– Được rồi, nhất định mình sẽ truyền tin về trạm, – tôi nói.
Tavi đã hiểu tôi. Đột nhiên nó rất thản nhiên nói: “ Đi mà xem lấy “.
Tavi đọc được những ý nghĩ của tôi. Trước khi khuấy rối, lôi cuốn mọi người rời khỏi cái công việc cấp bách thì tốt hơn cả là tự mình phải đi xem có mối nguy cơ mới nào đó đang đe doạ hòn đảo hay chỉ là một con vật ở dưới sâu muốn cầu khẩn ở chúng ta một việc thật cần thiết.
– Nhưng không phải là con mực đấy chứ? – tôi hỏi.
– Không! không!.. Đó là… Đó là… Cũng như anh. – Tavi kiên nhẫn trả lời.
Chẳng nên mất thì giờ để gạn hỏi vì Tavi có quan điểm riêng của mình về nhiều sự
việc. Đôi khi nó còn đưa ra những so sánh hoàn toàn khó tin.
Cách đó mươi bước chân là thùng chứa những trang bị phòng trường hợp bất trắc. Tôi chạy lại, đeo mặt nạ, đeo gia trọng, cầm đèn pin và lao xuống vũng biến.
Tavi từ từ dẫn tôi xuống độ sâu. Tôi vịn một tay vào vây nó, tay kia cầm sẵn đèn pin. Lượng ánh sáng xuyên qua đường hầm sâu thẳm đi vào lớp đen dày đặc. Thỉnh thoảng có những con cá lọt vào đó, chúng lồng lộn nhưng không đủ sức thoát khỏi cái giới hạn huyền diệu; thấp thoáng có những con cua cũng bị rơi vào. Đuổi theo chúng tôi là một đoàn đenphin, chúng chào chúng tôi bằng những tiếng tộp tộp rất to. Dưới nước rất ồn ào, nghe rõ tiếng rung của các máy móc trong lòng đảo, tiếng gõ, tiếng bước chân của những người máy phục vụ, giọng nói của các đenphin, tiếng lắp bắp đặc biệt của những con mực nhỏ bé phát ra từ một nơi nào đó trong bóng tối, còn hàng trăm thứ tiếng khác hoà thành một nền âm thanh độc đáo của đại dương…
xuống đến đáy thì Tavi dừng lại. Lớp da mềm mại của nó rung rung trong bàn tay tôi. Tôi chiếu sáng đáy biển. Những con cua vàng bò lúc nhúc giữa những tảng đá và rừng rong biển. Tôi thấy chúng đều bò về một phía. Một sức mạnh khó hiểu, mà chúng tôi quen gọi là bản năng, đã lôi cuốn những con cua chuyển tới một chỗ khác, ở đó có lẽ chúng được tiếp đón tốt hơn. Xét theo hướng đi thì dòng thác màu vàng này di chuyển đến đảo cách đó tám chục dặm. Đối với chúng thực là một khoảng cách vũ trụ.
Bất thình lình ánh sáng tắt. Tôi cố sửa thế nào thì cái đèn pin vẫn không sáng. Tavi thở phì phò và trượt khỏi bàn tay tôi. Tôi không lo ngại vì biết rằng nó sẽ quay lại ngay. Giắt cái đèn pin hỏng đó vào thắt lưng, tôi quan sát. Trong màn đêm trước mặt lấp lánh những “ ánh chớp xanh lơ “, bừng lên một vùng sáng, với những tia lửa nhiều màu.
Một vài lần có những đenphin đến gần tôi, nhưng trong đó không có Tavi. Tôi đã tập nhắm mắt nhận ra nó trong đêm tối, chỉ cần nó đến gần khoảng vài mét. Những con đenphin cho biết cái sinh vật xanh đó ở cách đây không xa. Cuối cùng Tavi bơi đến, đưa vây lại gần. Vài phút sau tôi trông thấy lờ mờ bóng người lom khom dò dẫm dưới đáy biển. Hoảng sợ, vô tình tôi rời tay khỏi vây Tavi. Tôi chưa từng trông thấy một vật tương tự và càng không hiểu cái sinh vật màu xanh này có khả năng làm gì, Hơn nữa tôi lại không đem theo một thứ vũ khí nào. Tavi đờ ra dưới tay tôi. Nó im lặng.
Sinh vật màu xanh dừng lại, đứng thẳng người, trên trán nó lờ mờ một vành đỏ.
Tôi chợt nhận ra:
– Pênhêlôpa! Tavi ạ! đấy là Pênhêlôpa! – Tôi reo lên trong máy dò âm dưới nước và gõ ngón tay lên lưng anh bạn cá.
– Tôi biết rồi, – Tavi trả lời. – Tất cả đều biết rồi. – Nó kết luận kín đáo và vọt lên trên.
Tavi mau chóng quay lại, mồm ngậm một chiếc móc.
Tôi hỏi nó tại sao không nói ngay rằng dưới đáy biển có một người máy phục vụ mà lại đánh lừa tôi như vậy.
Nó trả lời bông đùa:
– Như thế vui hơn.
Trên bờ, bên cạnh cẩu trượt, Côxchia và Pêchia Xamôilốp đang đợi tôi.
– Chúc mừng cậu! – Côxchia nói. – Hi vọng rằng cậu tiêu dao thoải mái ở dưới đáy sâu của đại dương. Trong lúc đó thì bọn mình nai lưng ra mà vác những con cua của cậu.
– Nâng lên! – tôi ra lệnh.
– Sẵn sàng!
Pênhêlôpa tỏa sáng bay vọt từ dưới nước lên, lơ lửng trên dây cáp. Nước từ người nó chảy ra như từ một cái thùng rỗ. Bất thình lình trên vũng biển vang lên tiếng nhạc. Pênhêlôpa cất cái giọng cùng cục của nó hát một bài ru. Côxchia đã kịp sửa lại các bộ phận bên trong và đặt khối âm nhạc vào đó từ lúc nào nhỉ?

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.