Câu Chuyện Của Tôi Trong Ngành Quảng Cáo & Khoa Học Quảng Cáo
CHƯƠNG 4: TÔI GIA NHẬP VÀO NGÀNH QUẢNG CÁO NHƯ THẾ NÀO?
Cuộc nói chuyện đó với ông Bissell dẫn chúng tôi đến những cuộc nói chuyện thường xuyên hơn. Mùa lạnh đến nhanh và công việc của tôi ngày càng vất vả.
“Tôi nghe nói cậu đang làm việc rất chăm chỉ”, một hôm, ông Bissell nói với tôi.
Tôi trả lời: “Cháu nên làm việc chăm chỉ, vì cháu đã có quá nhiều tháng ngày thảnh thơi rồi”.
Ông khăng khăng muốn biết chi tiết, thế là ông biết được rằng tôi rời văn phòng lúc hai giờ sáng và quay lại vào lúc tám giờ. Giống như tất cả những người thành công mà tôi từng biết, ông làm việc điên cuồng. Ông luôn làm việc gấp ba lần người bình thường. Vì vậy, thời gian làm việc của tôi khiến ông quan tâm và ông giục tôi vào làm trong khối văn phòng của ông.
Trong những giai đoạn đầu tiên của sự nghiệp, không ai có thể đánh giá chúng ta theo các kết quả. Những người nông cạn đánh giá chúng ta theo sự ưa thích, nhưng họ không phải là những người chúng ta nên gắn bó. Những người đích thực đánh giá chúng ta bằng tình yêu đối với công việc, điều cơ bản làm nên thành công của họ. Họ tuyển chúng ta để làm việc và khả năng làm việc của chúng ta quan trọng hơn tất thảy.
Tôi bắt đầu làm việc ở Công ty Máy quét Thảm Bissell vào tháng Hai ở vị trí trợ lý kế toán với mức lương 40 đô-la một tháng. Đến tháng 11, tôi đã được tăng lên 75 đô-la. Lúc đó, tôi đã là kế toán trưởng và vị trí của tôi không có cơ hội thăng tiến xa hơn nữa.
Tôi bắt đầu suy nghĩ theo hướng này: Kế toán viên là một sự lãng phí. Trong bất kỳ doanh nghiệp nào cũng vậy, các chi phí càng thấp càng tốt. Tôi không thể có giá trị cao hơn bất kỳ ai có khả năng làm công việc mà tôi đã làm. Những người hưởng lương cao là những người bán hàng vì họ mang về các đơn hàng, hoặc những người làm việc trong nhà máy vì họ giảm được các chi phí. Họ tạo ra lợi nhuận và có quyền yêu cầu được nhận một phần hợp lý trong số lợi nhuận đó. Tôi đã nhìn ra được sự khác biệt giữa tạo ra lợi nhuận và chi phí của một doanh nghiệp, do đó, tôi quyết tâm thoát khỏi tầng lớp ghi nợ.
Đúng lúc đó, ông Charles B. Judd, quản lý của chúng tôi, mang đến phòng kế toán một cuốn sách mỏng do John E. Powers viết. Khi đó, Powers là một lão làng trong ngành quảng cáo. Quảng cáo thời đó mới chỉ đang ở trong giai đoạn sơ sinh. Ông là người viết quảng cáo cho John Wanamaker ở Philadelphia, và ở đó, ông đã tạo ra một khái niệm mới về quảng cáo. Ông nói thật, nhưng theo một cách vừa trần trụi vừa thú vị. Wanamaker trả ông 12.000 đô-la một năm, một mức lương rất cao vào thời đó. Ông đã trở thành hình mẫu và tấm gương cho tất cả những ai có tham vọng trong ngành quảng cáo. Và ở một vài khía cạnh nào đó thì ngày nay vẫn vậy. Các nguyên tắc mà John Powers đề ra vẫn là những điều căn bản của quảng cáo.
John Powers đã rời khỏi Wanamaker để phát triển sự nghiệp riêng. Quản lý phía Đông của công ty Bissell, Thomas W. Williams, là một trong những người hâm mộ ông cuồng nhiệt nhất. Thông qua ông, tôi đã được nghe rất nhiều về Powers, cũng như cách quảng cáo hấp dẫn của ông.
Tôi còn nhớ một sự việc xảy ra ở Pittsburgh. Một công ty quần áo đang trên bờ vực phá sản. Họ mời Powers đến và ông ngay lập tức cân nhắc tình hình. Ông nói: “Chỉ có duy nhất một đường thoát thôi. Đó là hãy nói thật. Hãy nói với mọi người rằng các ông đang phá sản và cách duy nhất để các ông sống sót là ngay lập tức phải bán được một lượng hàng lớn”.
Những người bán quần áo nói rằng thông báo như vậy chẳng khác nào mời chủ nợ đến tận cửa. Nhưng Powers nói: “Không quan trọng. Hoặc nói thật hoặc tôi không làm nữa.”
Ngày hôm sau, họ cho đăng quảng cáo đại ý rằng: “Chúng tôi đang phá sản. Chúng tôi nợ 125.000 đô-la, nhiều hơn mức chúng tôi có thể trả. Thông báo này sẽ kéo các chủ nợ vào tận nhà chúng tôi. Nhưng nếu ngày mai các bạn đến mua, chúng tôi sẽ có tiền trả họ. Nếu không, chúng tôi sẽ tiêu đời. Đây là những mức giá có thể giúp chúng tôi vượt qua tình cảnh này”.
Vào thời điểm đó, sự thật là một điều hiếm có trong ngành quảng cáo đến mức thông báo này đã tạo ra một cơn sốt. Hàng nghìn người kéo đến mua và cửa hàng đã được cứu.
Một lần khác, ông được đề nghị quảng cáo những chiếc áo mưa ế.
“Chúng có vấn đề gì?”, Powers hỏi.
Người mua trả lời: “Chỉ giữa anh và tôi thôi nhé, chúng bị hỏng. Tất nhiên, đó không phải là điều để nói trong quảng cáo, nhưng đó là sự thật”.
Ngày hôm sau xuất hiện một quảng cáo như sau: “Chúng tôi có 1.200 cái áo mưa hỏng. Chúng gần như vô giá trị, nhưng vẫn xứng đáng với giá mà chúng tôi đưa ra. Hãy đến và xem. Nếu bạn thấy giá cả hợp lý, hãy mua chúng”.
Người thuê quảng cáo tức tốc đến gặp Powers với tâm thế sẵn sàng đánh nhau. “Anh có ý gì khi quảng cáo rằng áo mưa của chúng tôi bị hỏng?”, ông kêu gào, “Làm sao chúng tôi còn mong bán được chúng nữa?”
“Thì ông bảo tôi như thế”, Powers nói, “Tôi chỉ đơn giản là nói với mọi người sự thật thôi”. Trước khi người thuê quảng cáo có cơ hội bình tĩnh lại thì số áo mưa đã được bán hết.
Chính lúc đó, khi đang ở đỉnh cao sự nghiệp, ông đưa một cuốn sách mỏng cho Công ty Máy quét Thảm Bissell, theo yêu cầu của Williams. Nó được viết trên giấy gói thịt. Một trong những quan điểm của Powers là cách cư xử không bao giờ được phép che mờ vấn đề. Tôi vẫn nhớ rõ câu đầu tiên “Một chiếc máy quét thảm, nếu bạn mua được một chiếc tốt, bạn có thể dùng mà không cần diêm”.
Tuy vậy, ông không biết gì về những chiếc máy quét thảm. Ông không biết gì về các vấn đề của chúng tôi. Ông không nghiên cứu về tình hình kinh doanh của chúng tôi cũng như mong muốn của phụ nữ về một chiếc máy quét thảm.
Tôi đã nói với Judd: “Cái đó không thể giúp bán được máy quét thảm đâu. Không một từ nào trong cuốn sách đó thuyết phục được phụ nữ đến mua hàng. Hãy để tôi thử. Trong ba ngày, tôi sẽ đưa ông một quyển sách cạnh tranh với nó, dựa trên hiểu biết về các vấn đề của chúng ta”.
Judd cười, nhưng ưng thuận. Trong hai đêm tiếp theo, tôi thức trắng. Vào ngày thứ ba, tôi trình một cuốn sách mỏng khiến tất cả mọi người quyết định chống lại Powers. Ông ta kiện để đòi trả phí, nhưng dựa vào cuốn sách của tôi, họ đã đấu lại và thắng kiện.
Khi đó, công ty máy quét thảm này mới đang ở giai đoạn trứng nước. Người dùng ít và doanh số nhỏ. Dựa vào sức mạnh đến từ cuốn sách mỏng của mình, tôi xin phép được thử làm tăng nhu cầu. Mùa Giáng sinh đang đến gần. Vào những đêm dạo bước trên phố, tôi đã nghĩ ra ý tưởng biến chiếc máy quét thảm thành một món quà Giáng sinh. Nó chưa bao giờ được bán ra theo cách như vậy. Tôi liền thiết kế một giá trưng bày và vẽ các tấm thiệp “Nữ hoàng Quà Giáng Sinh” rồi đến gặp quản lý để xin phép ông cho gửi thư chào hàng.
Ông cười nhạo tôi. Giống như mọi giám đốc của chúng tôi, ông cũng từng là một nhân viên bán hàng. Ông nói: “Anh thử ra đường bán máy quét thảm đi. Đến chỗ nào thì anh cũng chỉ thấy chúng phủ đầy bụi thôi, còn các đại lý thì sẵn sàng biếu không. Cách duy nhất để bán một chiếc mới là dùng súng, kéo một người vào trong góc và bắt anh ta ký vào một đơn hàng. Nếu anh nói có thể bán cho những người như vậy bằng thư, thì tôi chỉ có thể cười mà thôi”.
Tuy nhiên, cuốn sách mà tôi viết đã nhận được sự tôn trọng của ông. Ông đồng ý cho tôi gửi thử vài nghìn lá thư. Vậy nên, tôi đã viết và nói với các đại lý về các giá trưng bày cùng các tấm thiệp của chúng tôi. Tôi cung cấp miễn phí cả hai thứ đó cho Giáng sinh, nhưng không phải như một món quà, mà như một phần thưởng. Dù là lúc đó hay sau này, tôi đều không nài kéo người ta mua. Việc đó là vô ích. Tôi chỉ đơn giản là cung cấp dịch vụ. Tôi yêu cầu các đại lý phải ký hợp đồng mới được trưng bày các máy quét thảm trên giá cùng các tấm thiệp mà tôi cung cấp. Điều này khiến các đại lý mới là những người phải nài kéo tôi.
Tôi gửi đi khoảng 5.000 lá thư. Chúng mang lại cho tôi 1.000 đơn hàng, gần như là những đơn hàng đầu tiên mà chúng tôi nhận được qua thư. Chính nhờ nghĩ ra một ý tưởng mới mà tôi đã thoát khỏi tầng lớp chi tiền để gia nhập tầng lớp những người kiếm tiền.
Ngay cả khi đó, tôi vẫn không có dũng khí. Tôi không dám tham gia kinh doanh khi chưa có một mỏ neo đón gió. Lại một lần nữa, điều này là do mẹ tôi. Vì vậy, tôi đã quyết định dành ban ngày cho những cuộc phiêu lưu mới này và ban đêm cho việc viết sách. Do đó, tôi tiếp tục được trong một thời gian dài. Hiếm khi tôi rời văn phòng trước nửa đêm mà thường là hai giờ sáng.
Hồi bé, tôi đã nghiên cứu về rừng. Tôi thu thập mẫu của mọi loại gỗ xung quanh và trao đổi với những cậu bé khác. Vì vậy, tôi đã tích lũy được rất nhiều mẩu gỗ thú vị. Sở thích nhỏ này đã trực tiếp dẫn tôi đến bước bán hàng tiếp theo.
Tôi nghĩ ra ý tưởng dùng những loại gỗ thú vị để làm máy quét thảm Bissell. Nếu ý tưởng Giáng sinh của tôi đã kích động sự chế nhạo thì ý tưởng này tạo ra sự thương cảm. Tôi đề nghị họ làm ra những chiếc máy quét thảm Bissell bằng 12 loại gỗ đặc biệt, mỗi chiếc máy sẽ được làm từ một loại gỗ. Tôi muốn họ dùng từ màu sáng của gỗ vân xoăn cho đến màu tối của gỗ óc chó, cùng tất cả các màu trong khoảng đó.
Điều này làm dấy lên sự phản đối mạnh mẽ. Như tôi đã nói, tất cả các giám đốc trong công ty đều từng là nhân viên bán hàng. Một người là nhà phát minh ra một số thiết bị mới và là một người có thế lực, cần phải hỏi xin ý kiến. Ông nói: “Tại sao không nói về hoạt động của cái chổi, những thiết bị đổ rác, cùng những thứ tuyệt vời mà tôi đã sáng tạo ra?”
“Tôi đang nói chuyện với phụ nữ”, tôi trả lời, “Họ không phải là thợ cơ khí. Tôi muốn nói về những thứ mà họ hiểu và coi trọng”.
Cuối cùng, họ cho phép tôi làm điều đó như một sự nhượng bộ. Bởi tôi đã làm được một việc bất khả thi đối với họ là bán máy quét qua thư, nên họ gần như không thể từ chối cho tôi một quyền hạn hợp lý. Họ đồng ý làm 250.000 máy quét theo ý của tôi.
Trong khi họ làm máy quét, tôi sắp xếp các kế hoạch của mình.
Tôi viết thư cho các đại lý như sau: “Máy quét thảm Bissell hiện được làm từ 12 loại gỗ tốt nhất thế giới. Chúng đi kèm với các giá trưng bày miễn phí cùng những cuốn sách nhỏ, giống như cuốn sách được gửi kèm ở đây, để mô tả những nét nổi bật của 12 loại gỗ này. Chúng sẽ không bao giờ được cung cấp lại nữa. Chúng tôi cung cấp chúng với điều kiện ông/bà phải ký vào hợp đồng được gửi kèm. Ông/bà phải trưng bày chúng trên các giá cùng với các tấm thiệp của chúng tôi cho đến khi chúng được bán. Ông/bà phải để các cuốn sách nhỏ của chúng tôi vào mọi gói hàng mà ông/bà bán được trong ba tuần”. Tôi cung cấp một đặc quyền, không phải một lời dụ dỗ. Tôi đang làm một việc tốt, không phải đang bán hàng. Vì vậy, các đại lý đã trả lời lại theo cách giúp chúng tôi bán được 250.000 máy quét trong ba tuần.
Chúng ta hãy dừng ở đây một lát. Đây là khởi đầu của tôi trong ngành quảng cáo. Đây là thành công đầu tiên của tôi. Giống như mọi điều khác tôi đã làm, nó dựa trên việc làm hài lòng mọi người. Nó bán, không chỉ cho các đại lý, mà còn cho người tiêu dùng. Nó mở rộng công dụng của máy quét thảm và đem lại cho máy quét thảm Bissell sự độc quyền mà họ vẫn còn duy trì được cho đến ngày nay.
Những người khác sẽ vẫn nói rằng: “Tôi không có cơ hội như vậy. Vị trí của tôi không được như thế”. Tất nhiên là nó không được như thế, nhưng rất có thể nó có một nghìn lợi thế khác. Không ai, dù ở bất kỳ cấp nào, lại có thứ khó bán hơn những máy quét thảm vào thời đó. Tôi không quan tâm nó là gì. Quảng cáo theo cách bình thường là bất khả thi. Một chiếc máy quét thảm sẽ dùng được trong 10 năm. Lợi nhuận là khoảng 1 đô-la. Không có cách bình thường nào có thể quảng cáo một mặt hàng kiểu như vậy mà lại sinh lời.
Không thanh niên nào, dù ở trong lĩnh vực gì, lại có ít cơ hội hơn tôi. Bất kỳ ai, dù làm trong một ngân hàng, một công ty lốp hay một cửa hàng tạp phẩm, cũng đều có cơ hội tốt hơn tôi rất nhiều. Khác biệt duy nhất nằm ở cách nghĩ. Tôi cảm thấy công việc thư ký là một chi phí và các chi phí luôn nên được tối thiểu hóa. Tôi cố gắng gia nhập tầng lớp những người mang về lợi nhuận, nơi mà những giới hạn như trên không tồn tại.
Thành công của tôi với 12 loại gỗ đã tạo cho tôi uy tín lớn. Tôi liền tìm kiếm những ý tưởng độc đáo khác. Tôi đến Chicago và nhìn thấy một chiếc xe Pullman làm bằng gỗ màu đỏ son. Đó là một loại gỗ đỏ rất đẹp. Tôi đến nhà máy Pullman và hỏi về nó. Họ nói với tôi rằng loại gỗ đó xuất xứ từ Ấn Độ, rằng tất cả các cánh rừng đều thuộc sở hữu của chính phủ Anh, và gỗ đều do tù nhân cưa, sau đó người ta dùng voi chở tới sông Ganges. Gỗ đỏ son nặng hơn nước, nên họ đặt những khúc gỗ thường vào hai bên các khúc gỗ đỏ son để nó nổi được và trôi trên sông.
Việc này đem lại cho tôi ý tưởng về một bức tranh thú vị. Các khu rừng của chính phủ, tù nhân, voi và sông Ganges. Trên đường về nhà, tôi hình dung ra bức tranh hấp dẫn đó.
Tuy nhiên, sáng hôm sau, tôi phải quay trở lại với thực tế ở Grand Rapids. Những người tuyển dụng tôi không có một khái niệm gì về các khu rừng của chính phủ, các vương công, voi… Họ đã hoàn thiện một thiết bị đổ rác mới.
Vì vậy, tôi đã cãi nhau với họ rất gay gắt và rất lâu. Tôi đề nghị họ đặt một lô gỗ màu đỏ son. Họ cười. Một lần nữa họ nói rằng, những người dùng máy quét thảm sẽ không mua gỗ, rằng họ muốn nói về hoạt động của chổi, các thiết bị đổ rác hiệu quả, các bàn chải lông cứng, v.v… Thật ngu ngốc! Chắc họ cũng nghĩ có thể thảo luận lý thuyết của Einstein với một người Eskimo cũng không biết chừng.
Mặc dù vậy, những thành công của tôi đã giúp tôi ít nhiều được nể trọng, và cuối cùng, tôi cũng buộc được họ đặt cho tôi một lô hàng mà tôi muốn. Trong khi chờ đợi, tôi chuẩn bị cho chiến dịch của mình. Tôi in phần đầu các lá thư bằng màu đỏ son. Tôi dùng phong bì màu đỏ son và ghi địa chỉ bằng mực trắng. Tôi in hai triệu cuốn sách nhỏ có bìa màu đỏ son và khuôn mặt của một vị vương công ở phía trước. Cuốn sách này sẽ kể một câu chuyện nhằm gợi sự tò mò, kéo những người phụ nữ đến xem loại gỗ này. Không yếu tố kích thích hành động nào so được với sự tò mò. Các bức tranh sẽ phô ra những cánh rừng, những người tù, voi, sông Ganges và xe Pullman. Một trăm nghìn lá thư đã được in để mời chào loại gỗ này cho các đại lý.
Sau vài tuần, gỗ đã đến, dưới dạng những khúc được cắt nham nhở. Một vài giờ sau, ông Johnson, quản lý nhà máy, đến gặp tôi khóc lóc. “Chúng tôi đã cố cưa khúc gỗ đỏ son đó”, ông nói, “và cái cưa vỡ vụn. Gỗ cứng như sắt. Không cắt được. Phải vứt cả lô hàng đi thôi”.
Tôi nói: “Phấn chấn lên. Ai chả có vấn đề cần giải quyết. Họ chả từng bảo tôi sẽ không bán được máy quét thảm qua thư đấy thôi, nhưng tôi vẫn làm được. Giờ đến ông đấy, là một chuyên gia trong nhà máy, ông không thể chấp nhận thất bại được”.
Ông đã cắt được gỗ bằng cách cưa ngang thớ. Nhưng ông lại đến gặp tôi đem theo một lời phàn nàn mới. Ông không đóng được đinh vào gỗ, nên ông không biết làm sao để dùng nó chế tạo máy quét thảm được cả.
Tôi nói: “Ông Johnson, ông làm tôi bực đấy. Nếu ông đến đây, ngồi vào bàn của tôi và tìm cách bán những chiếc máy quét thảm đó thì tôi sẽ đi chế tạo chúng cho ông. Hãy khoan lỗ cho những cái đinh của ông đi”.
Song, giông tố vẫn tiếp tục ập tới. Việc sản xuất gần như đứng yên. Chi phí làm máy quét thảm tăng cao. Vì vậy, tôi phải chấp nhận rằng, cứ mỗi 12 chiếc thì chỉ có ba chiếc được làm bằng gỗ màu đỏ son, còn những chiếc còn lại đều là gỗ thường.
Tôi đã sẵn sàng gửi thư. Chúng không mời chào các đại lý mua máy quét thảm mà cung cấp đặc quyền mua. Cứ mỗi tá, sẽ có ba chiếc máy quét thảm được làm bằng gỗ màu đỏ son nếu các đơn hàng được gửi đi ngay lập tức. Các đại lý có thể bán chúng với bất kỳ giá nào họ thích. Nhưng họ sẽ không bao giờ có được cơ hội thứ hai để sở hữu những máy quét thảm Bissell làm bằng gỗ đỏ son nữa. Điều kiện duy nhất là đại lý phải ký vào hợp đồng được gửi kèm. Họ phải trưng bày các máy quét thảm cho đến khi bán được, phải trưng bày các tấm thiệp chúng tôi gửi đến và phải để các cuốn sách màu đỏ son của chúng tôi vào mọi gói hàng ra khỏi cửa hàng trong ba tuần. Vì vậy, lại một lần nữa, tôi đặt đại lý vào vị trí phải nài kéo chúng tôi.
Phản ứng thu được rất đáng kinh ngạc. Trong sáu tuần, Công ty Máy quét thảm Bissell đã kiếm được nhiều tiền hơn bất cứ năm nào trước đây. Số lượng đại lý mua máy quét thảm đã tăng chóng mặt. Và họ đã nhân lên rất nhiều lần sự ưa chuộng của phụ nữ đối với một thiết bị mà khi đó được sử dụng rất giới hạn.
Sau đó, tôi đã bỏ việc kế toán và dành thời gian cho bán hàng. Với những lá thư chỉ có giá 1 xu, tôi bán được nhiều máy quét thảm hơn 14 nhân viên bán hàng trên phố cộng lại. Cùng lúc đó, các nhân viên bán hàng của chúng tôi cũng tăng được doanh số nhờ có thêm các tính năng mới để nói đến. Rồi các máy quét thảm Bissell đạt được vị trí mà họ nắm giữ ngày nay. Họ kiểm soát khoảng 95% thị phần. Việc quảng cáo được hoàn tất bởi đại lý. Nhu cầu ngày càng tăng cho đến khi công ty Bissell trở thành công ty giàu nhất ở Grand Rapids.
Công việc của tôi là mỗi năm nghĩ ra ba kịch bản bán hàng. Tất cả chúng đều liên quan đến giai đoạn hoàn thiện và gỗ. Ví dụ, tôi tìm thấy một người có bằng sáng chế phương pháp sơn véc-ni. Màu nước được sơn vào mặt trong. Nó xuyên qua lớp véc-ni ở bất cứ chỗ nào mà các thớ gỗ lộ ra phía trên, tạo nên một hiệu ứng đẹp và lạ mắt. Tôi đặt tên cho loại gỗ đó và gửi kèm các mẫu trong thư của tôi.
Một lần nữa, tôi cung cấp cho các đại lý cứ mỗi tá có ba máy quét thảm được mạ vàng, y như chúng tôi đã trưng bày tại Hội chợ Thế giới ở Chicago. Rồi tôi đặt hàng nghìn mẫu trưng bày ở Hội chợ Thế giới tại các tủ trưng bày trên cả nước.
Mặc dù vậy, trong hai hoặc ba năm, tôi phát hiện ra mình cạn ý tưởng. Có những giới hạn rõ ràng đối với các biến thể đầy thú vị trong cách hoàn thiện máy quét thảm. Ngày càng khó tìm ra các ý tưởng mới, vì vậy tôi bắt đầu tìm kiếm các lĩnh vực rộng hơn.
Đúng lúc đó, Lord & Thomas ở Chicago lần đầu tiên đề nghị với tôi một vị trí. Carl Greig, người chuyên nghĩ ra kịch bản cho họ, đã rời đi để gia nhập Inter Ocean nhằm giúp gia tăng lượng phát hành. Lord & Thomas, sau khi xem các kịch bản bán máy quét thảm của tôi, đã đề nghị tôi nhận công việc đó. Mức lương cao hơn nhiều so với mức tôi nhận ở Grand Rapids, vì vậy, tôi đã báo với cấp trên ở Bissell rằng tôi sẽ nhận nó. Họ liền tiến hành một cuộc họp các giám đốc. Trước kia, mỗi người họ đều là đối thủ nhiệt thành của tôi. Tất cả họ đều từng đấu tranh kịch liệt với tôi trong mọi kịch bản được đề xuất. Họ không ngừng chế nhạo ý tưởng nói về các loại gỗ được dùng để làm máy quét thảm của tôi. Mặc dù vậy, họ đã đồng ý tuyệt đối về việc đáp ứng các đề nghị như của Lord & Thomas, nên tôi đã ở lại.
Tuy nhiên, tôi đã biết từ lúc đó rằng, đây chỉ là một quyết định tạm thời. Tôi nghe thấy tiếng gọi đến một lĩnh vực rộng lớn hơn và lời mời ở Chicago đã kích thích những tham vọng của tôi. Rất nhanh sau đó, tôi nhận được một đề nghị khác hấp dẫn hơn và đã từ chức.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.