Câu Chuyện Của Tôi Trong Ngành Quảng Cáo & Khoa Học Quảng Cáo

CHƯƠNG 19: MỘT VÀI ĐIỀU RIÊNG TƯ



Vì đây là một bản ghi lại những thành công đến từ nỗ lực của cá nhân tôi và là một động lực đối với những người khác, nên sẽ là bình thường nếu tôi ghi ra một vài điều về cuộc sống cá nhân của mình, các đặc điểm, thói quen, mong muốn của bản thân, vì chúng có liên quan đến những gì tôi đạt được.

Tôi là một người nghiện công việc. Tôi thích công việc như những người khác thích chơi. Đó vừa là nghề nghiệp vừa là thú vui. Khi còn nhỏ, nhu cầu phải tự nuôi sống bản thân đã khiến tôi tránh xa sân chơi sau giờ học. Khi trưởng thành, khao khát học mọi thứ có thể về bán hàng đã khiến tôi tránh xa những khoảng thời gian lãng phí. Trò chơi duy nhất tôi từng học là kinh doanh. Đối với tôi, mọi thứ về nó đều hấp dẫn. Tôi chưa bao giờ chơi bóng chày, golf hay tennis. Tín ngưỡng Tin lành Trưởng nhiệm của người Scotland trong mẹ tôi đã ngăn cấm tôi đi nhảy, chơi bài hay xem kịch. Trong những năm về sau, tôi không bao giờ học cách thích chúng. Dù sở hữu những chiếc ô tô từ khi chúng mới ra đời, nhưng tôi hiếm khi lái.

Công việc từ thiện chủ yếu mà tôi làm là dạy những bé trai, cũng như những người đàn ông, phải yêu công việc. Từ lâu, tôi đã quan tâm đến một hiệp hội chuyên nhận những cậu bé phạm pháp từ các tòa án dành cho trẻ vị thành niên phạm tội và đưa chúng về nông trang làm việc. Việc đó đã cứu được hàng trăm cậu bé. Tôi đi từ nhà, ở vùng nông thôn, đến Chicago, đến nơi là lúc 6 giờ sáng. Trong nhiều năm, tôi đi đến công viên Grant, ở đó có rất nhiều người lang thang đang trải báo để ngủ, và tôi dành một giờ hoặc hơn để cố gắng khiến họ thích làm việc. Tôi là Giám đốc của tổ chức Tình nguyện viên Hoa Kỳ, và tôi đặc biệt quan tâm đến các công việc trong nhà tù. Tôi đã đi cùng Maud Ballington Booth(1) khi cô đến giảng bài tại nhà tù Joliet. Tôi đã hỗ trợ Hope House ở Chicago, một ngôi nhà tạm thời dành cho những tù nhân mà chúng tôi đưa ra ngoài nhờ ân xá. Đóng góp chính của tôi cho nỗ lực đó là một bài giảng vào chiều Chủ nhật về “Niềm vui trong công việc”.

Tôi đã viết các bài báo cho tạp chí để nói rằng cả nam giới lẫn nữ giới đều nên làm việc. Tôi đã khẳng định rằng người chị gái chưa kết hôn của tôi vẫn tiếp tục làm việc giống tôi, vì hạnh phúc của chính bản thân chị. Chị vẫn đang dạy ở các trường cấp ba tại Grand Rapids. Tôi đã gửi một cô con gái của mình đến làm việc ở sân khấu. Cô con gái còn lại đã kết hôn ngay sau khi tốt nghiệp cao đẳng Smith, làm việc trong vai trò người mẹ, sau đó là chủ tịch của hai câu lạc bộ phụ nữ cùng một lúc, và còn là một giảng viên. Vợ tôi làm việc 14 tiếng một ngày. Cô ấy là người làm vườn chính của chúng tôi, và nhờ vậy mà chúng tôi đã có những vườn hoa đẹp nhất ở Michigan. Hàng trăm người ở gần xa đều đến xem vào mỗi mùa hè. Cô ấy chăm sóc một ngôi nhà lớn ở vùng nông thôn lúc nào cũng đầy khách khứa. Chúng tôi phát hiện ra rằng chúng tôi phục vụ ở đây 3.500 bữa ăn sáng vào mỗi dịp hè. Cô ấy còn là nhạc công, dành sáu giờ một ngày để luyện tập. Ở Chicago, cô là một tình nguyện viên nổi tiếng.

Khi những cô con gái của chúng tôi chưa kết hôn, nhà chúng tôi đầy các chàng trai trẻ đang đi nghỉ lễ. Tôi để họ biết rằng tôi không ủng hộ việc họ ăn không ngồi rồi. Những lý lẽ của tôi đã khiến nhiều người trong số đó đi làm vào các dịp nghỉ lễ của trường, từ đó có được những thói quen tốt cho sự nghiệp và tôi nhận lại được sự thỏa mãn khi biết rằng tôi đã giúp nhiều người trong số họ thành công. Họ phát hiện ra rằng việc nhặt các đơn hàng vui hơn việc nhặt bóng, rằng giành được một hợp đồng hay hơn là giành được một chiếc cúp.

Việc tôi giới hạn bản thân trong công việc không phải do tôi thích tiền bạc hay danh tiếng. Tôi thậm chí còn không nghĩ mình muốn thành công. Tiền bạc chẳng có ý nghĩa gì với tôi, ngoại trừ việc bản năng người Scotland trong tôi phản đối sự lãng phí. Tôi thậm chí không muốn để lại nó cho các con của mình. Chúng đã có những gì tốt cho chúng. Tôi muốn chồng của chúng có niềm vui mà tôi có, từ việc tự làm nên thành công, vì vậy tôi không cướp đi của họ bất kỳ sự khích lệ nào.

Tôi đã sống rất lâu trong nghèo khổ, trong tình trạng làm bạn với cái đói. Khi đi làm, tôi đã phải bỏ hai bữa ăn một tuần để trả tiền giặt quần áo. Tôi cũng đã sống trong giàu sang, tiêu đến 140.000 đô-la một năm, nó không tạo ra nhiều sự khác biệt. Tôi hạnh phúc trong điều kiện này cũng không kém gì trong điều kiện kia. Tôi không nghĩ chúng ta có thể trở lại các điều kiện khiêm tốn mà không đau khổ, nhưng tôi chắc chắn rằng con người luôn có thể hạnh phúc trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Người hạnh phúc nhất tôi biết là hàng xóm của tôi, người chưa bao giờ kiếm được quá 125 đô-la một tháng. Từ con số đó, ông tiết kiệm đủ để xây sáu căn nhà nhỏ để cho thuê, sau đó, ông nghỉ hưu dựa vào khoản thu nhập đó. Ông dành mùa hè ở bên hồ của tôi, làm việc trong các khu vườn; mùa đông ông ở Florida. Tôi thường đi xuống ngôi nhà tranh của ông để học bài học về sự hài lòng.

Trước khi người ta đề ra thuế thu nhập, tôi không hề ghi chép thu nhập của mình, tôi không quan tâm chúng là bao nhiêu. Chúng lên hay xuống cũng không ảnh hưởng gì đến tôi. Vợ tôi nhận mọi khoản doanh thu của tôi và thanh toán tất cả hóa đơn. Tôi chưa bao giờ ký một tấm séc nào. Tôi không biết chút gì về số tiền được chi cho ngôi nhà thôn quê của tôi hay chi phí của bất kỳ thứ gì. Việc biết những chi phí đó sẽ khiến tôi không hạnh phúc, vì có một thứ gì đó mà mẹ đã nuôi dưỡng trong tôi. Nhưng biết chung chung rằng những thứ này tốn nhiều tiền cũng không ảnh hưởng gì đến tôi.

Về các chi tiêu cho cá nhân thì tôi rất tiết kiệm. Tôi luôn ăn mặc khá sơ sài. Trước khi vợ tôi phàn nàn thì tôi chỉ mặc quần áo may sẵn. Giờ thì tôi né những thợ may đắt tiền. Hiện tại khi đang viết những điều này, tôi đã không mua một bộ com-lê mới nào được hai năm rồi. Tôi không mua giày quá 6,5 đô-la. Khi ở khách sạn, tôi đặt phòng rẻ nhất.

Tất cả những điều này được kể ra để cho thấy rằng động lực làm việc của tôi không phải là vì tiền, cũng không phải vì danh tiếng hay địa vị. Tôi không quan tâm đến cả hai thứ đó khi tôi ở ngoài này, giữa những cánh rừng, bên cạnh những con người giản dị, nơi tôi xây căn nhà của mình. Tất cả những thứ dường như đặt tôi lên trên những người bạn của tôi dù dưới bất cứ hình thức nào đều là những điều bất lợi. Ở đây, giữa vùng nông thôn, tất cả chúng tôi gặp nhau một cách bình đẳng.

Tôi đã làm việc vì niềm vui và vì nó đã trở thành một thói quen. Sau đó, tôi đi làm vì nhận ra rằng phải có ai đó làm việc cật lực để đưa quảng cáo ra khỏi giai đoạn sơ khai của nó.

Lord & Thomas đề nghị với tôi một vị trí khi tôi 25 tuổi, đang sống ở Grand Rapids. Tôi đi Chicago để thảo luận cơ hội với những người sáng lập công ty. Khi đó, công ty chưa có người viết quảng cáo, chủ yếu là một công ty môi giới, chuyên chào giá cạnh tranh với các công ty quảng cáo khác để có được một khoảng không gian cố định. Những nhà quảng cáo tự làm các quảng cáo của họ và gửi các hình in mạ. Mảng kinh doanh đem lại lợi nhuận là phát triển các kịch bản khiến những nhà quảng cáo chịu chi tiền. Việc làm này được giao cho tôi vì tôi đã chứng minh được bản thân trong vai trò một người nghĩ kịch bản tại công ty máy quét thảm Bissell. Nhà quảng cáo đó không có suy nghĩ về lợi nhuận.

Dù còn trẻ và thiếu kinh nghiệm nhưng tôi có đủ khả năng để nhận ra rằng những ý tưởng quảng cáo như vậy không thể tiến xa. Quá trình rèn luyện đã dạy tôi rằng cần phải có những kết quả có thể theo dõi được. Vì vậy, tôi đã từ chối đề nghị của Lord & Thomas, với mức lương tăng thêm 60%, để tiếp tục tìm cách bán những sản phẩm đem lại lợi nhuận. 16 năm sau, Lord & Thomas, dưới những sự bảo hộ hoàn toàn khác, lại mời tôi về làm việc.

Tôi đã thu được gì sau nhiều năm áp dụng một cách xuất sắc? Tôi đã thu được những kết quả mà những người khác thu được bằng các nghiên cứu y khoa, bằng cách dành cả đời trong phòng thí nghiệm.

Công việc của cả đời tôi là nghiên cứu quảng cáo. Giờ tôi có đặc quyền viết ra các phát hiện của mình cho những người muốn làm theo tôi. Tôi hy vọng rằng bản ghi chép đó sẽ ngăn chặn được nhiều lỗi lầm của những người mới bắt đầu và tiết kiệm được những năm tháng mà tôi đã mất để sửa chữa chúng. Tôi thu được cái mà Thomas A. Edison thu được bằng cách làm việc 20 giờ một ngày – sự thỏa mãn khi biết rằng mình đã khám phá ra một vài nguyên tắc có giá trị lâu dài.

Nhiều người nói rằng quảng cáo đang thay đổi, rằng thời đại đang kêu gọi một thứ gì đó mới mẻ. Chắc chắn nhịp độ cuộc sống ở Mỹ đang thay đổi. Các trào lưu, thị hiếu và mong muốn thay đổi như một chiếc kính vạn hoa. Những phong cách nhất định trong quảng cáo đang thay đổi. Việc đưa vào từng chiến dịch một điểm nhấn khác nhau luôn rất cần thiết. Những kẻ bắt chước không bao giờ thành công, nhưng bản chất con người không thay đổi. Các nguyên tắc được ghi ra trong cuốn sách này trường tồn như dãy núi Alps.

Quảng cáo ngày càng trở nên khó khăn do chi phí tăng cao và cạnh tranh ngày càng gay gắt. Tuy nhiên, mỗi thử thách mới lại làm tăng sự cần thiết phải có khoa học về quảng cáo.

Khi viết điều này, tôi nhìn xuống hồ nước xinh đẹp mà tôi đến lần đầu tiên vào năm 6 tuổi. Cuối hồ nước là một ngôi làng, từng là một thị trấn làm gỗ, ông tôi là mục sư Báp-tít ở đó. Tôi còn nhìn thấy những ngọn đồi mà hồi nhỏ, tôi từng cày cuốc, nó vẫn được bao phủ bởi những vườn nho mà tôi đã thu hoạch. Ở đây, bác tôi có một nông trại trồng cây ăn quả và nó đã trở thành nhà của tôi. Tôi làm việc ở đó mỗi mùa hè và một vài mùa đông cho đến khi tôi đi làm. Nơi đây vẫn còn một vài người bạn chơi với tôi từ nhỏ.

Dưới đó từng có một bến tàu. Từ bến tàu đó, tôi đã từng bê đến 1.800 giỏ đào một ngày. Từ bến tàu đó, vào một đêm, ở tuổi 18, tôi đã đi thuyền, với dòng nước mắt lăn dài trên má, tiến vào thế giới kinh doanh. Sau nhiều năm cực nhọc, tôi đã lại được nhìn thấy ngôi nhà thời thơ ấu này.

Rồi bản năng muốn trở về nhà đã mang tôi quay trở lại. Tôi đã mua một cánh rừng nguyên thủy mà tôi thích từ khi còn bé và đặt tên nó là Pinecrest. Ở đó, tôi xây ngôi nhà của mình và trong 17 năm, tôi đã mở rộng và phát triển nó thành một thiên đường. Các vườn hoa trải dài hơn 800m đến tận hồ nước. Các bãi cỏ luôn sống động với những người bạn vui vẻ, những người thân, và những đứa cháu.

Ở đây tôi làm những việc tôi thích trong một khung cảnh đẹp đẽ. Cách đây hơn 1,6 cây số là một nơi tương phản, để cho thấy tôi đã đạt được gì nhờ nỗ lực. Ở đây vẫn còn một vài người không bao giờ liều lĩnh, để cho thấy suýt chút nữa tôi đã trở thành gì. Đây là quê hương của tôi, là mảnh đất thần thánh của tôi, là nhà của tôi.

Tôi chắc chắn rằng không ai đạt được nhiều hơn tôi – nhiều hạnh phúc thực sự và hài lòng hơn. Tôi thấy điều đó đến từ tình yêu những thứ giản đơn, những con người bình thường, đã khiến tôi thành công trong quảng cáo.

Ở đây, tại những bữa tiệc cuối tuần, tôi gặp nhiều người thành công theo những cách gần nhất với từ này. Tôi không ghen tỵ với họ. Người hạnh phúc nhất là người sống gần với thiên nhiên nhất, một yếu tố cốt lõi để thành công trong quảng cáo. Vì vậy, tôi kết luận rằng nghề nghiệp này, nghề mà tùy thuộc vào tình yêu và hiểu biết về đám đông, cung cấp nhiều phần thưởng còn hơn cả tiền bạc.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.