Việc tuyên chiến xảy ra vào hôm chủ nhật êm ả của một ngày cuối hè, bầu trời nắng ấm, tươi đẹp. Trước khi người ta tuyên bố tin chiến tranh bùng nổ trên đài phát thanh mấy phút, Margaret Oxenford ra khỏi nhà, ngôi nhà gạch đồ sộ, người cô toát mồ hôi vì đội mũ trên đầu và khoác áo măng tô, lòng tức bực vì phải đi nhà thờ. Ngôi nhà thờ độc nhất của giáo xứ nằm ở cuối làng, kéo chuông đều đều để gọi con chiên đến dự lễ.
Margaret rất sợ nhà thờ, nhưng bố cô không chấp nhận việc cô không đi lễ, thậm chí cô đã 19 tuổi và đã đủ khả năng suy nghĩ về tôn giáo. Trước đây một năm, cô đã lấy hết can đảm để nói với bố cô rằng cô không muốn đi nhà thờ, nhưng ông không chịu nghe lời cô. Margaret đã nói:
“Bộ ba không thấy con đạo đức giả khi đến dự lễ ở nhà thờ trong lúc con không tin vào Chúa hay sao?” Bố cô đáp:
“Con đừng có kỳ cục”. Thất bại và tức giận, cô tuyên bố với mẹ cô rằng khi cô đã lớn cô sẽ không bao giờ đặt chân đến nhà thờ. Mẹ cô đáp:
“Chuyện này sẽ phụ thuộc vào chồng con, con yêu à” Với họ, việc bàn cãi thế là chấm dứt, nhưng cứ đến mỗi sáng chủ nhật là Margaret lại thấy tức tối trong lòng.
Chị gái và em trai của cô đã rời khỏi nhà rồi. Elizabeth đã 21 tuổi. Chị ta cao lớn, vụng về và không đẹp lắm. Trước đây, hai chị em thông cảm nhau. Hai người sống bên nhau suốt thời niên thiếu, vì họ không đi học ở trường, mà chỉ học ở nhà, hai người đã được các bà bảo mẫu và các gia sư dạy dỗ rất vu vơ.
Nhưng khi họ khôn lớn, tình hình không còn giống như trước nữa. Khi đến tuổi trưởng thành, Elizabeth đã hấp thụ những giá trị đạo đức cứng ngắt, thủ cựu của cha mẹ:
chị ta rất bảo thủ, rất trung thành với đế chế, không thèm hay biết đến những tư tưởng mới mẻ và khinh ghét những đổi thay trong xã hội. Còn Margaret thì đi theo con đường ngược lại. Cô chủ trương quyền bình đẳng của phụ nữ, theo chủ nghĩa xã hội, say mê nhạc Jazz, tranh lập thể và thơ tự do.
Elizabeth cho rằng Margaret không phục tùng gia đình khi tiếp thu những tư tưởng cấp tiến. Margaret rất tức giận Elizabeth vì thái độ ngu ngốc của bà chị, nhưng cô buồn nhất là hai chị em không còn gần gũi nhau như xưa nữa.
Percy mới 14 tuổi. Cậu ta không có ý kiến gì về những tư tưởng cấp tiến này, nhưng bản tính cậu tinh nghịch và cậu có thiện cảm với tinh thần phản kháng của Margaret. Cả hai đều đau khổ vì bị sống dưới sự độc đoán của bố, nên hai chị em nương tựa nhau để che chở cho nhau, do đó Margaret rất thương em trai.
Bố với mẹ một lát sau mới đi. Bố đeo chiếc cà vạt màu vàng cam và xanh trông thật tồi tệ. Hầu như ông không có ý niệm gì về màu sắc hết, nhưng có lẽ chính mẹ đã mua chiếc cà vạt cho ông. Tóc mẹ màu hung, mắt xanh màu nước biển, làn da trắng tái, và bà chỉ thích các màu như màu vàng cam và màu xanh.
Nhưng bố lại có mái tóc đen đã hoa râm, da mặt đỏ, nên trông chiếc cà vạt như là tấm bảng hiệu trên người ông vậy.
Elizabeth giống bố, mái tóc chị màu nâu và nét mặt thô tháp. Margaret có màu da của mẹ:
chắc cô thích có chiếc khăn quàng bằng xoa như chiếc cà vạt mà mẹ cô đã mua cho bố. Còn Percy thì thay đổi quá nhanh nên không thể nói được cậu ta giống ai.
Họ đi theo một con đường dài đến tận ngôi làng nhỏ nằm phía sau dãy hàng rào. Bố là chủ nhân hầu hết những ngôi nhà cùng đất đai nằm quanh đấy xa đến hàng dặm đường. Ông không làm gì hết mà có được sự giàu có như thế là kết quả của một loạt hôn nhân từ đầu thế kỷ thứ XIX, loạt hôn nhân này đã qui tụ ba gia đình giàu có nhất, có đất đai nằm trong lãnh địa của bá tước, số đất này gộp lại thành một vùng rộng lớn, bền vững, cứ truyền lại từ đời này sang đời khác.
Họ đi vào đường làng, rồi băng qua bãi cỏ đến ngôi nhà thờ xây bằng đá xám. Họ đi vào nhà thờ theo đoàn một như đoàn diễu hành:
bố, mẹ đi trước, Margaret theo sau Elizabeth, và sau cùng là Percy. Giáo dân trong làng làm dấu thánh giá trong khi gia đình Oxenford đi vào lối đi giữa nhà thờ để đến hàng ghế của gia đình. Các chủ nông giàu có đang canh tác trên đất đai của bố, cúi đầu chào rất lễ phép; những người thuộc tầng lớp tiểu tư sản như bác sĩ Rowan, đại tá smythe và ngài Alfred cũng cung kính chào họ. Cứ mỗi lần Margaret thấy tục lệ phong kiến kỳ cục này diễn ra là cô thấy rùng mình, khó chịu. Tất cả – mọi người đều được xem là bình đẳng trước Chúa phải không? Cô muốn la lên:
“Cha tôi không có giá trị gì với quí vị đâu, ông ta là người rất tồi tệ!”. Có lẽ một ngày nào đó cô sẽ có can đảm để nói thế. Nếu cô gây chuyện ở nhà thờ, thì có lẽ không bao giờ cô đến đây nữa. Nhưng cô quá sợ phản ứng của bố.
Ngay khi họ vào đến ghế ngồi, mọi con mắt đều đổ dồn vào họ, Percy nói nho nhỏ, nhưng cũng đủ cho mọi người nghe:
“Cà vạt đẹp lắm, bố à” Margaret phì cười Percy và cô vội ngồi xuống, úp mặt vào hai tay như đang cầu nguyện cho đến khi bình tĩnh trở lại. Sau đó, Margaret cảm thấy đỡ hơn.
Cha xứ thuyết giảng về tình thương của Chúa Jesus. Margaret nghĩ đáng ra ông già ngốc nghếch này nên chọn đề thi thuyết giảng mà mọi người đang quan tâm hơn hết, đó là viễn cảnh một cuộc chiến tranh sắp xảy ra. Ông Thủ tướng đã gởi tối hậu thư cho Hitler, lão Quốc trưởng Đức không trả lời, và bây giờ người ta đang chờ đợi chiến tranh bùng nổ. Nghĩ đến chuyện chiến tranh là Margaret kinh hoàng. Chàng trai cô thương mến đã chết trong trận chiến tranh Tây Ban Nha. Chuyện xảy ra đã hơn một năm rồi, nhưng bây giờ, thỉnh thoảng ban đêm cô vẫn còn khóc. Đối với cô, chiến tranh bùng nổ tức là sẽ có hàng ngàn cô gái phải lâm vào cảnh đau buồn như cô đã gặp. Thế nhưng, con người thứ hai trong cô lại muốn chiến tranh. Suốt mấy năm nay cô thường lên án nước Anh là hèn nhát đối với cuộc chiến tranh ở Tây Ban Nha. Nước cô bình tâm trước những biến cố xảy ra ở đấy, trong khi chính phủ xã hội do dân bầu lên đã bị một nhóm phiêu lưu quốc tế được Hitler và Mussolini trang bị vũ khí lật đổ. Hàng trăm thanh niên có lý tưởng dân chủ khắp châu Âu đổ xô đến Tây Ban Nha để chiến đấu bảo vệ sự dân chủ. Nhưng họ thiếu vũ khí và các chính quyền dân chủ trên thế giới từ chối không chịu cung cấp vũ khí cho họ; cho nên những thanh niên này đã mất mạng và những người như Margaret đã hết sức phẫn nộ, thất vọng và nhục nhã. Nếu bây giờ nước Anh quyết định đứng ở vị thế chống phát xít, thì chắc cô sẽ lại tự hào về đất nước của mình.
Còn một lý do khác nữa khiến cho tim cô rộn rã bồn chồn khi chiến tranh xảy ra, đó là việc có lẽ cô sẽ được chấm dứt cuộc sống tù túng ngột ngạt bên cạnh cha mẹ cô. Cô rất đau khổ khi sống với gia đình, cô cảm thấy như mình bị bó tay, cô tức giận khi thấy cha mẹ đã sống theo lối thủ cựu và thói ăn chơi phi lý của xã hội thượng lưu. Cô muốn thoát khỏi gia đình, sống cuộc sống tự lập, nhưng việc này không thể thực hiện được:
cô còn nhỏ, không có tiền bạc, không có nghề nghiệp gì để nuôi thân. Nhưng cô nôn nóng nghĩ, khi chiến tranh bùng nổ, thế nào mọi việc cũng sẽ thay đổi.
Cô đã đọc sách báo viết về cuộc chiến tranh vừa qua, trong cuộc chiến tranh này, phụ nữ mặc quần đi làm trong các nhà máy. Bây giờ đã có phụ nữ làm việc trong quân đội, trong bãi quân và không quân. Margaret mơ được vào làm việc trong lực lượng Dịch vụ Hậu cần, một ngành nữ quân nhân. Cô có khả năng lái xe mà. Ít phụ nữ biết. Cô đã được người tài xế của bố dạy cho cách lái chiếc Rolls; và Ian, chàng trai chết ở Tây Ban Nha, đã để cho cô lái chiếc xe mô tô của anh ấy. Cô lại còn có thể lái thuyền có gắn động cơ, vì bố có một chiếc du thuyền nhỏ ở Nice. Ngành Dịch vụ Hậu cần rất cần nữ tài xế để lái xe cấp cứu và xe chuyển vận thư tín Cô tưởng tượng ra cảnh mình mặc đồng phục, đội mũ cát két, cưỡi xe mô tô, mang tin tối khẩn đi từ mặt trận này sang mặt trận khác chạy hết tốc lực, với tấm ảnh của Ian trên ngực trong túi áo sơ mi ka ki. Cô tin chắc, nếu người ta cho cô cơ hội, cô sẽ đủ can đảm để hoàn thành nhiệm vụ.
Sau đó, họ biết trong khi nhà thờ đang làm lễ thì chiến tranh đã được công bố. Thậm chí còn có cuộc báo động trên không vào lúc 11 giờ 28, trong khi ông cha xứ đang thuyết giáo, nhưng sự báo động không đến được làng, và dù sao thì đó chỉ là cuộc báo động giả. Vì vậy gia đình Oxenford đi bộ từ nhà thờ về nhà mà không hay biết gì về cuộc chiến tranh với Đức đã xảy ra.
Percy muốn xách súng đi săn thỏ. Tất cả mọi người đều biết bắn, đây là trò giải trí của gia đình, hầu như là một ám ảnh. Nhưng đương nhiên là bố không bằng lòng cho phép Percy đi săn, vì không ai được đi săn vào ngày chủ nhật.
Percy thất vọng, nhưng cậu vâng lời bố. Mặc dù có tính nghịch ngợm, nhưng cậu chưa trưởng thành, nên chưa đủ can đảm để công khai chống lại bố.
Margaret rất thích tính tinh nghịch của em trai. Cậu ta là tía nắng duy nhất rọi vào cuộc đời buồn bã của cô. Cô thường ân hận, trách mình là không có khả năng châm chọc bố như Percy, và cười nhạo sau lưng ông, nhưng cô quá giận nên không cười cợt được như cậu em.
Về đến nhà, họ rất sửng sốt khi thấy chị giúp việc để chân trần mà đi tưới hoa ở tiền sảnh. Bố không biết chị ta, ông liền hỏi:
– Chị là ai thế?
Mẹ trả lời, giọng Mỹ dịu dàng:
– Chị ấy là Jenkins, mới bắt đầu làm việc tuần này.
Chị giúp việc cúi đầu cung kính.
– Thế giày dép của chị ta đâu? – Bố hỏi.
Trên mặt chị ta hiện ra vẻ khinh khỉnh, chị nhìn Percy, ánh mắt lên án.
– Thưa ngài, chuyện này đều do ngài tiểu chủ Isley mà ra. – Tước vị của Percy là bá tước Isley. – Cậu ấy nói với tôi rằng phụ nữ giúp việc trong nhà phải đi chân trần vào chủ nhật để tỏ lòng kính Chúa.
Mẹ thở dài, còn bố thì càu nhàu chán nản. Margaret không thể nào nín cười được. Đây là trò bỡn cợt để cười đùa của Percy:
sáng tạo ra luật lệ buồn cười cho gia nhân mới. Cậu ta có thể nói những chuyện vô nghĩa mà vẫn giữ nét mặt tỉnh bơ, còn gia đình thì đã nổi tiếng có những hành động kỳ quặc, cho nên người ta nghe nói gì cũng đều tin hết.
Percy thường làm cho Margaret cười, nhưng lần này cô bất bình khi thấy chị gia nhân bất hạnh để chân trần mà đi trong tiền sảnh, và cô thấy chị ta có vẻ ngượng ngập, lúng túng.
– Chị đi mang giày vào. – Mẹ nói.
Và Margaret nói thêm:
– Chị đừng tin ngài Isley.
Họ cất mũ khi vào trong phòng khách nhỏ.
– Đùa như thế bậy lắm đấy nhé. – Margaret nói nhỏ bên tai Percy, vừa kéo tóc cậu ta. Percy khoan khoái, cậu ta tính nào tật nấy. Có lần cậu báo cho cha xứ rằng bố đã chết vì bệnh tim trong đêm, và cả làng đều đến phúng viếng, khi ấy mới biết là tin đó không thiệt.
Bố mở đài vô tuyến ra nghe, bấy giờ mọi người mới biết tin:
Nước Anh tuyên chiến với nước Đức.
Margaret cảm thấy lòng tràn ngập vui sướng, như khi người ta có cái gì kích thích, khiến họ lái xe chạy thật nhanh hay là leo lên tận ngọn cây. Người ta không còn đặt vấn đề:
sẽ có những tấm thảm kịch, sẽ có cảnh tang tóc buồn phiền và đau khổ, nhưng bây giờ tất cả đều không thể tránh được nữa, những rào cản đều đã được dẹp bỏ và chỉ còn lại vấn đề duy nhất là chiến đấu chống lại quân thù. Nghĩ đến chuyện này tim cô đập thình thịch. Tất cả đều sẽ thay đổi hết. Người ta sẽ bỏ hết những qui ước xã hội cũ rích, phụ nữ sẽ tham gia chiến đấu, rào cản giai cấp sẽ biến mất, tất cả mọi người đều sẽ cùng làm việc với nhau. Cô cảm thấy đang được hít thở bầu không khí tự do. Rồi mọi người sẽ ra mặt trận chống lại bọn phát xít, bọn người đã sát hại Ian thân yêu của cô và giết hàng ngàn thanh niên quả cảm khác. Margaret không phải là người hiếu chiến, nhưng mỗi khi nghĩ đến chuyện chống lại bọn Quốc xã đức, là cô lại cảm thấy ý chí phục hận bùng lên mãnh liệt trong lòng. Ý chí phục hận này rất mới mẻ, rất quyết 1iệt và hấp dẫn.
Bố tức giận vô cùng. Người ông sưng huyết, mặt đỏ gay mỗi khi giận dữ và mọi người đều nghĩ, thế nào ông cũng la lối om sòm. Thật vậy, khi nghe tin này, ông hét lớn:
– Lão Chamberlain mắc dịch. Lão khốn nạn này thật đáng nguyền rủa!
– Kìa Algemon, tôi van ông:
– Mẹ nói, giọng đầy trách móc, nghe thật bất thường.
Bố là một trong những người sáng lập ra Liên minh Phát xít Anh quốc. Ông là người rất tương phản:
không còn trẻ nữa, nhưng mảnh khảnh, rất đẹp và rất cáu kỉnh. Ông được lòng nhiều người và được họ trung thành. Ông có viết một tác phẩm gây nhiều tranh luận với nhan đề:
Dân lai:
mối đe dọa làm ô nhiễm chủng tộc, cuốn sách nêu vấn đề nguồn văn minh của con người xuống dốc kể từ khi dân da trắng pha giống với người Do thái, người Á châu, người phương Đông và thậm chí với người da đen. ông đã liên lạc với Adolf Hitler, người mà ông cho là một chỉnh khách vĩ đại từ khi có Napoleon. Cứ mỗi cuối tuần, nhà ông đã biến thành hội trường đón tiếp long trọng những chính trị gia, các chính khách ngoại quốc và thỉnh thoảng cả nhà vua nữa – đây là điếu thật khó quên.
Họ bàn cãi đến tận khuya, người đầu bếp không ngừng mang rượu cô nhắc dưới hầm rượu lên cho quan khách, con tôi tớ trong nhà thì ngáp ngắn ngáp dài trước cửa. Trong thời gian kinh tế suy thoái, bố cứ đợi tổ quốc mời ông ra giúp nước, trao cho ông chức thủ tướng để ông tái thiết quốc gia; nhưng không bao giờ có chuyện đó. Những cuộc tiếp tân cuối tuần hiếm dần và khách tham dự cũng ít đi; những vị khách sáng giá tìm cách rút lui khỏi những cuộc hội họp của Liên minh Phát xít Anh quốc; và bố trở thành con người thất bại, đau đớn. Ông không được lòng mọi người và không ai tin ông nữa. Phong độ đẹp đẽ không con nữa vì sự hận thù, vì buồn phiền và vì uống rượu. Sự thông minh của ông chỉ là vẻ hào nhoáng bên ngoài:
Margaret đã đọc cuốn sách của ông, cô kinh ngạc nhận thấy ông không chỉ sai lầm thôi, mà còn ngu ngốc nữa.
Mấy năm vừa qua, hy vọng duy nhất của ông là thực hiện cho kỳ được ước mơ Anh quốc và Đức quốc liên minh với nhau để chống lại Liên bang Xô Viết.
Ông viết bài gởi đến các tạp chí và viết thư cho các nhật báo để bảo vệ luận thuyết này, cho nên càng lúc ông càng ít có cơ hội để người ta mời ông đến phát biểu ở các buổi hội họp chính trị và trong các buổi sinh hoạt tập thể ở các trường đại học. Ông khăng khăng bảo vệ ý kiến của mình trong khi những biến cố xảy ra ở Âu châu đã biến quan điểm chính trị của ông thành điều phi thực, viển vông. Việc tuyên bố chiến tranh giữa Anh và Đức đã làm tiêu tan hết hy vọng của ông, và trong cảnh dao động tinh thần này của ông, bỗng Margaret cảm thấy hơi thương hại bố.
– Nước Anh và nước Đức sẽ tàn sát lẫn nhau, và sẽ để cho Cộng sản vô thần thống trị châu Âu cho mà xem – Ông nói.
Nghe nói đến chuyện vô thần, bỗng Margaret nhớ đến việc cô bị bắt buộc phải đi nhà thờ, cô bèn nói:
– Vô thần đối với con chẳng sao hết, vì con vô thần.
– Con không vô thần đâu, – Mẹ nói. – Con thuộc giáo hội Anh quốc.
Margaret không sao khỏi bật cười Elizabeth rơm rớm nước mắt, chị nói lớn:
– Tại sao em cười được nhỉ? Chuyện thật bi đát!
El1zabeth rất khâm phục những ngươi theo Đức Quốc xã. Chị ta nói tiếng Đức – hai chị em nói được tiếng Đức là nhờ bà gia sư là người Đức, bà này dạy cho hai cô lâu hơn những người khác. :
Chị đã sang Berlin nhiều lần và đã được dùng bữa với Quốc trưởng hai lần. Margaret không tin những người Quốc xã là xu thời chỉ thích được giới quí tộc Anh tán thưởng.
Margaret quay qua phía Elizabeth, cô nói:
– Đã đến lúc chúng ta chống lại bọn súc sinh ấy rồi đấy!
– Họ không phải là đồ súc sinh, – Elizabeth tức giận cãi lại. – Họ là dân tộc Aryen kiêu hãnh, khỏe mạnh và thuần chủng, việc nước ta đánh nhau với họ quả là điều bi đát. Bố đã nói đúng:
dân da trắng sẽ tuyệt diệt, thế giới sẽ rơi vào tay bọn lai và bọn Do thái.
Margaret không còn kiên nhẫn để nghe chuyện vớ vẩn như thế này nữa. Cô hỏi lớn:
– Dân Do thái có gì xấu?
Bố chỉ ngón tay, đáp:
– Người Do thái không xấu là ngườị …. biết thân phận của mình.
– Là người chịu nằm dưới gót giày của bố, người chịu ở trong. …. trong hệ thống phát xít của bố. – Cô định nói ở trong hệ thống ghê tởm của bố, nhưng bỗng cô sợ và cô đã ráng nhịn; chọc tức bố sẽ rất nguy hiểm.
Elizabeth nói tiếp:
Còn theo hệ thống Cộng sản của cô, thì bọn Do thái sẽ cai trị người ta!
– Tôi không phải là Cộng sản, tôi là người xã hội chủ nghĩa.
Percy bắt chước mẹ, cậu ta nói:
– Không thế được đâu, chị ơi. Chị thuộc Giáo hội Anh quốc!
Margaret không thể nín cười được; và một lần nữa, việc cô cười làm cho bà chị điên tiết lên, chị ta nói với giọng gay gắt:
– Mày không phá hủy hết những gì tốt đẹp, cao cả để cười đùa.
Câu nói của chị không đáng cho cô trả lời, nhưng cô muốn mọi người biết ý kiến của mình. Cô quay qua nói với bố.
– Dù sao thì con cũng nhất trí với bố về những việc mà ông Nevil1e Chamberlain phải chịu trách nhiệm. Ông ấy đã làm cho lực lượng quân sự của ta yếu kém bằng cách đổ cho bọn phát xít chiếm Tây Ban Nha. Bây giờ kẻ thù của chúng ta có mặt từ phía Tây cho đến phía Đông.
– Chamberlain không để cho người phát xít chiếm lấy Tây Ban Nha, – Bố đáp. – Nước Anh đã ký một hiệp ước bất can thiệp với Đức Ý và Pháp. Chúng ta chỉ có việc phải tôn trọng hiệp ước.
Nói thế là đạo đức giả, và ông phải biết như thế chứ. Margaret cảm thấy đỏ mặt vì tức giận.
– Chúng ta tôn trọng hiệp ước trong khi người Ý và người Đức không tôn trọng! – Cô cãi lại. – Thế đấy, bọn phát xít có khí giới còn những ngườii dân chủ chẳng có gì ngoài … những anh hùng!
Không khí yên lặng nặng nề một lát.
– Mẹ rất buồn về cái chết của Ian, con à, – Mẹ nói – nhưng cậu ấy đã gây ảnh hưởng rất xấu cho con. Bỗng nhiên Margaret muốn bật khóc.
Ian Rochdale là người đã mang đến cho cô nguồn vui của cuộc sống, và khi nghe tin anh chết, cô đã rất đau khổ, bây giờ cứ mỗi khi nhớ đến là lòng cô lại quặn đau.
Suốt nhiều năm qua! Vào những dịp tổ chức hội săn bắn, cô thường có khiêu vũ với các chàng trai con các gia đình thế phiệt trong vùng, những anh chàng này đều có đầu óc trống rỗng, chỉ nghĩ đến chuyện ăn nhậu và săn bắn thôi; cô thất vọng vì không gặp được một người cùng trang lứa thật tình quan tâm đến cô. Cho nên khi cô gặp Ian, anh như tia sáng rực rỡ đến với đời cô, và từ khi anh chết đi, cô sống trong cảnh tăm tối của cuộc đời.
Anh ta đã tốt nghiệp ở đại học Oxford. Margaret rất muốn vào đại học, nhưng cô không có khả năng để vào đấy:
vì cô chưa bao giờ đi học ở trường.
Thế nhưng cô đọc sách nhiều – vì chẳng có gì để làm hết. – Và cô rất sung sướng khi tìm được người thảo luận các vấn đề về tư tưởng như cô. Anh là người duy nhất có thể giảng giải cho cô hiểu biết nhiều chuyện mà không có thái độ kể cả, ta đây. Chưa bao giờ cô gặp người nào có tinh thần trong sáng như Ian; trong khi thảo luận, anh có thái độ rất kiên nhẫn và không kiêu căng về vốn kiến thức của mình:
khi không biết điều gì, anh thú thật mình không biết.
Ngay khi mới gặp lần đầu, cô đã thương mến anh.
Quen nhau một thời gian mà cô vẫn không biết anh có yêu cô không. Rồi một hôm, anh vụng về bối rối thú nhận anh yêu cô, anh ấp úng một hồi mới tìm ra được từ để nói với cô:
“Anh nghĩ là chắc anh đã yêu em … Chuyện anh yêu em có gì trở ngại không? Chính lúc ấy cô mới vui mừng nhận ra chính cô cũng đã yêu anh.
Anh đã làm thay đổi cuộc đời cô. Như thể cô đã đi đến một nước khác, nơi mà cuộc sống hoàn toàn khác biệt:
cảnh vật, thời tiết, con người, chuyện bếp núc. Cô yêu tất cả Những xung khắc, những giận hờn trong cuộc sống với bố mẹ đối với cô lúc bấy giờ quá nhỏ nhoi.
Ngay cả sau khi anh tình nguyện đầu quân vào lữ đoàn quốc tế và đã đến Tây Ban Nha để chiến đấu chống lại bọn phát xít nổi loạn để bảo vệ chính quyền xã hội, anh vẫn tiếp tục làm cho đời cô tươi sáng. Cô hãnh diện về anh, vì anh có can đảm theo đuổi lý tưởng của mình và sẵn sàng hy sinh tính mạng cho lý tưởng mà anh theo đuổi. Thỉnh thoảng, cô nhận được thư anh. Một hôm, anh gởi cho cô một bài thơ. Và rồi khi nhận được tin anh chết, chết tan xác vì trái phá, Margaret cảm thấy đời mình như đã chấm dứt.
– Đúng ảnh hưởng xấu thật, – cô nói tiếp, giọng gay gắt. – Anh ấy đã dạy cho con biết đặt vấn đề với giáo điều không tin lời nói dối, ghét sự dốt nát và khinh bỉ sự đạo đức giả. Kết quả là con không đứng trong hàng ngũ xã hội văn minh.
Bố, mẹ và Elizabeth đều há hốc mồn một lúc vì không ai nói được; chính Percy là người lên tiếng trong giây phút im lặng đột ngột ấy:
– Về vấn đề người Do thái, tình cờ con tìm được trong hầm rượu một tấm ảnh nằm trong đáy một trong những chiếc va li mang từ Stamford đến. – Stamford là một vùng trong tiểu bang Counecticut, là nơi cư ngụ của gia đình mẹ. Percy lấy từ túi áo sơ mi ra một tấm ảnh đã nhàu nhò, màu nâu đen đã phai – Con có bà cố ngoại tên là Ruth Glenccary, phải không mẹ?
– Phải, – Mẹ đáp – Đó là bà ngoại của mẹ. Mà sao, con tìm ra cái gì đấy?
Percy đưa tấm ảnh cho bố và những người khác bu lại để xem. Tấm ảnh chụp một đường phố ở Mỹ, có lẽ là ở New York, cảnh tượng cách đây đã 60 hay 70 năm ở hàng đầu, người ta thấy một người Do thái khoảng 30 tuổi, có bộ râu đen, áo quần lôi thôi, đầu đội mũ. Anh ta đứng bên cạnh chiếc xe cút kít, trên xe để cái thớt mài dao bên cạnh chiếe xe, ngườii ta đọc rõ ràng mấy chữ “Reuben Fishbein – thợ mài dao”. Bên cạnh người đàn ông có một cô gái khoảng 1O tuổi, mặc chiếc áo vải tồi tàn và mang đôi giày thô tháp.
– Cái gì thế này, Percy?. – Bố hỏi. – Những người gớm giếc này là ai thế?
– Bố nhìn ở sau thì biết, – Percy đáp.
Bố lật phía sau tấm ảnh. Ở đó có ghi hàng chữ “Ruthie Glencarry, con của Fishbein, 10 tuổi”.
Margaret nhìn bố. ông có vẻ hốt hoảng.
Tuyệt đấy chứ, – Percy nói tiếp – Ông ngoại của mẹ đã lấy con gái của một gã thợ mài dao rong người Do thái, nhưng ở Mỹ thì hình như chuyện này bình thường thôi.
– Không thể như thế được – Bố thốt lên. Nhưng giọng của ông run run và qua thái độ của bố, Margaret cảm thấy chuyện này có vẻ thật quá.
Percy nói tiếp với vẻ say sưa:
– Dù sao đi nữa thì người ta có là dân Do thái cũng xuất phát từ đàn bà mà ra, cho nên nếu bà ngoại của mẹ là Do thái, thì con cũng là Do thái.
Mặt bố tái mét. Mẹ có vẻ rất kinh ngạc, trên trán bà hiện rõ một nếp nhăn vì lo âu sợ sệt.
– Con hy vọng người Đức không thắng được cuộc chiến này, – Percy nói tiếp.
– Chắc con sẽ không được phép đi xem xi nê và chắc mẹ phải khâu ngôi sao vàng lên tất cả các áo đi dự dạ vũ của mẹ.
Chuyện này xem ra có vẻ thật quá. Margaret bèn nhìn kỹ vào những chữ viết tay ở phía sau tấm ảnh và cô tìm ra được sự thật.
– Này Percy! – Cô nói, vẻ khoái trá ra mặt. – Nét chữ này là của em kia mà!
– Không, không phải của em đâu! – Percy đáp.
Nhưng mọi người đều nhận ra đấy là nét chữ của Percy. Margaret cười sung sướng. Percy đã tìm thấy tấm hình cũ có hình cô bé Do thái này ở đâu đó, rồi viết hàng chữ ở phía sau để đánh lừa bố. Ông đã rơi vào bẫy, cảm thấy đau đớn, và điều này chẳng có gì ngạc nhiên, vì đối với kẻ chủ trương phân biệt chủng tộc, một khi họ phát hiện ra tổ tiên họ là dân lai giống, họ khổ sở chẳng khác nào đang sống trong cơn ác mộng vậy. Thật may cho ông.
Bố “chà” một tiếng rồi ném tấm ảnh lên bàn. Mẹ nói:
– Percy, thật quá quắt, – giọng bà chán nản. Bà định nói thêm nữa, nhưng ngay lúc ấy thì cửa mở và Bates, người đầu bếp có tính tình không tốt, lên tiếng:
– Thưa bà cơm đã dọn xong.
Họ rời khỏi phòng khách nhỏ, đi qua tiền sảnh để vào phòng ăn. Thường lệ vào chủ nhật, món ăn có thịt bò hầm nhừ. Mẹ ăn rau, bà không bao giờ ăn thức ăn hầm nhừ, vì bà cho rằng thức ăn hầm nhừ sẽ mất hết chất bổ.
Bố đọc lời nguyện rồi mọi người ngồi vào bàn. Bates dọn cho mẹ cá hồi hun khói. Theo bà thì thức ăn hun khói, ngâm trong dấm hay nước mắm là thức ăn tuyệt vời nhất.
Mẹ vừa lấy thức ăn vào đĩa mình vừa nói, giọng thư thái như nói đến một chuyện hiển nhiên không ai được cãi lại:
– Bây giờ chúng ta chỉ còn một việc phải làm mà thôi. Tất cả chúng ta phải sang Mỹ ở, đợi cho đến khi hết cuộc chiến tranh ngu ngốc này.
Mọi người đều im lặng một lát sau khi nghe tin động trời này. Rồi Margaret thốt lên bằng giọng hốt hoảng:
.
– Không!
– Này này, – Mẹ đáp – Mẹ nghĩ chúng ta đã cãi cọ với nhau cả ngày rồi. Bây giờ ráng giữ hòa khí mà ăn đấy nhé.
– Không! – Margaret lặp lại. Giọng cô hầu như lạc đi vì quá tức giận. – Bố mẹ …. Bố mẹ không thể làm như thế, làm thế là … là … – Cô muốn la lên phản kháng, muốn lên án bố mẹ làm thế là phản bội, là hèn nhát, cô muốn nói lớn lên cho cả nhà nghe sự khinh bỉ của mình về việc bỏ đi này, nhưng những từ cô muốn nói không thốt ra được:
– Làm thế là sai tráil Nhưng nói thế cũng đã nhiều rồi. Bố nạt lớn:
– Nếu mày không giữ mồm giữ miệng thì liệu hồn đấy.
Margaret áp chiếc khăn ăn vào miệng để khỏi bật ra tiếng khóc:
cô xô ghế đứng dậy, chạy ra khỏi phòng ăn.
Đương nhiên là bố mẹ cô đã tổ chức việc ra đi từ nhiều tháng nay rồi.
Sau khi ăn xong, Percy đến phòng của Margaret, nói cho cô biết mọi chi tiết đã được gia đình thu xếp. Nhà phải đóng cửa lại, đậy hết đồ đạc trong nhà và sa thải gia nhân. Gia đình sẽ giao công việc thu tiền các nhà cho thuê cho người hợp tác của bố. Tiền bạc sẽ gởi vào ngân hàng:
người ta không thể gởi qua Mỹ được vì chính phủ sẽ kiểm soát việc đổi tiền trong thời gian xảy ra chiến tranh.
Gia đình sẽ bán ngựa, chăn mền ướp long não và đồ đạc chất vào tủ khóa kín.
Elizabeth, Margaret và Perey mỗi người chuẩn bị một va li:
đồ đạc còn lại sẽ được công ty vận tải chuyển đi. Bố đã lấy vé cho cả nhà đi trên chiếc thủy phi cơ Clipper của hãng Hàng không Mỹ Pan American, và họ phải ra đi vào thứ tư.
Percy rất nôn nóng chờ đợi ngày đi. Cậu đã đi máy bay một vài lần rồi, nhưng chiếc máy bay Clipper này không giống như các chiếc kia. Chiếc này khổng lồ và rất sang trọng:
báo chí đã nói đến rất nhiều về chiếc máy bay khánh thành cách đây mấy tuần. Bay từ Anh sang New York chỉ mất 28 giờ và mọi người ngủ trên giường ban đêm trong khi máy bay bay qua Đại Tây dương.
Cái kiểu sống của bố mẹ cô là thế đấy, Margaret nghĩ, ra đi trong cảnh đầy đủ tiện nghi xa xỉ, mặc cho đồng bào của mình lâm vào cảnh thiếu thốn và trước thảm cảnh chiến tranh đang diễn ra. Percy đi khóa vali còn Margaret nằm dài trên giường, nhìn trần nhà, lòng sôi sục căm hờn, ấm ứ khóc vì thất vọng, vì bất lực trước số phận.
Cô ở miết trong phòng, suốt buổi tối không ra ngoài.
Sáng thứ hai, trong khi Margaret còn nằm trong giường thì mẹ đến. Cô ngồi dậy, nhìn bà với ánh mắt căm thù, Mẹ ngồi trước bàn trang điểm, nhìn Margaret trong gương, bà nói:
– Mẹ van con đừng gây chuyện với bố con trong chuyến ra đi này.
Margaret biết mẹ cô đang lo lắng. Trong những dịp khác, có lẽ khi thấy mẹ như thế này, chắc cô đã dịu giọng, nói nhẹ nhàng với bà; nhưng bây giờ cô quá bấn loạn, cô không thể nào nhã nhặn với mẹ cô được. Cô buông lời gay gắt nói với bà:
– Đi như thế này là quá hèn nhát!
Mẹ cô mặt mày tái mét.
– Chúng ta không hèn nhát.
– Chạy trốn khỏi đất nước khi chiến tranh bùng nổ!
– Chúng ta không còn chọn lựa nào khác. Chúng ta phải đi.
Margaret tức giận hỏi:
– Tại sao?
Mẹ quay lại nhìn thẳng vào mắt cô:
– Nếu không đi, họ sẽ bỏ tù bố con.
Margaret bàng hoàng kinh ngạc. Cô hỏi:
– Tại sao họ làm thế Theo phát xít đâu phải có tội?
– Họ có quyền hạn đặc biệt. Cho nên có gì quan trọng đâu? Một người thân quen với bố trong bộ Nội vụ đã bảo cho chúng ta biết thế. Nếu cuối tuần này mà bố con còn ở Anh quốc thì ông sẽ bị bắt.
Margaret không tin người ta muốn bỏ tù bố cô như một tên trộm được.
– Nhưng họ không để cho chúng ta mang theo tiền bạc, – Mẹ nói tiếp, giọng hậm hực. – Thế đấy, nước Anh chơi đẹp như thế đấy.
Bỗng Margaret cảm thấy tiền bạc là vấn đề cuối cùng mà cô lo sợ. Đời cô là cả một canh bạc. Bỗng nhiên cô cảm thấy mình có can đảm, nên cô muốn nói sự thật cho mẹ nghe. Sợ chần chừ thêm nữa, cô sẽ mất hết can đảm, nên cô hít vào một hơi thật dài rồi nói với mẹ:
– Mẹ à, con không muốn đi với gia đình.
Mẹ không để lộ một chút ngạc nhiên nào cả. Thậm chí mẹ cô có vẻ như đợi cô nói lên câu ấy. Rồi bằng một giọng hết sức thản nhiên như không muốn tranh cãi với cô mẹ cô dịu dàng nói:
– Con phải đi, con ạ.
– Họ không bỏ tù con đâu. Con có thể ở nhà cô Martha, hay là nhà bà chị họ Catherine của con cũng được Mẹ không nói với bố giúp cho con được à?
Bỗng mẹ hùng hổ nói, điệu bộ rất khác thường.
– Mẹ nuôi nấng con khổ nhọc, bây giờ nếu còn bảo vệ con, thì không đời nào mẹ để cho con lâm vào cảnh nguy hiểm đến tánh mạng cả.
Bỗng Margaret cảm thấy xúc động trước tình cảm của mẹ. Nhưng cô vẫn đáp:
– Con phải nói cho bố biết:
chính bố đã quyết định hết cả đời con.
Mẹ thở dài và lấy lại dáng vẻ uể oải như thường khi.
– Con và mẹ có nói gì cũng chẳng đi đến đâu. Chúng ta có nói gì thì bố con cũng không cho phép con ở lại đâu Tính thụ động của mẹ khiến Margaret thấy tức giận, cô quyết ra tay hành động.
– Con sẽ đến hỏi thẳng bố cho mà xem.
– Mẹ mong sao con không làm thế, – Mẹ đáp, cô cảm thấy giọng bà có vẻ van lơn. – Bố con đã gặp nhiều khó khăn lắm rồi. Con biết bố con rất yêu nước Anh.
Gặp hoàn cảnh khác, chắc thế nào bố con cũng điện thoại đến cho Bộ trưởng Chiến tranh để xin một nhiệm sở Cho nên tình trạng bây giờ khiến ông khổ đau vô cùng – Còn tình trạng của con thì sao?
– Tình trạng của con không giống thế. Con còn trẻ, con còn có cả cuộc đời trước mắt. Còn đối với bố con, hết hy vọng rồi.
– Chuyện ông theo phát xít không phải lỗi của con, – đột nhiên Margaret lên tiếng nói.
Mẹ đứng dậy.
– Mẹ hy vọng con sẽ thông cảm cho bố mẹ, – bà dịu dàng nói rồi bước ra ngoài.
Margaret cảm thấy vừa có tội lại vừa tức giận. Thật quá bất công:
bố cô coi thường ý kiến của cô từ khi cô đến tuổi hiểu biết, rồi bây giờ ông gặp cảnh khó khăn tồi tệ, thì ông lại yêu cầu cô có lòng thương cảm.
Cô thở dài, mẹ cô đẹp, kỳ quặc và thiếu hiểu biết. Bà sinh ra trong một gia đình giàu có và cương quyết. Những hành động kỳ quặc của bà là kết quả của một ý chí cương quyết, thiếu sự giáo dục dìu dắt:
bà bám chặt vào những ý tưởng điên cuồng, vì bà không có phương tiện để phân biệt được cái gì có ý nghĩa với cái gì vô nghĩa, phi lý. Vì thiếu hiểu biết, nên bà đã chọn con đường ỷ lại vào đàn ông, để cho đàn ông sai khiến:
bà không đám đứng lên chống lại chồng, cho nên phương pháp duy nhất để bà thoát khởi sự cai quản của chồng là làm ra vẻ mình không biết, không thấy sự bất công đó Margaret thương mẹ, chấp nhận những hành động kỳ dị đó của mẹ với tình thương yêu bao dung; nhưng cô quyết không sống một cuộc sống như bà, mặc dù hai mẹ con rất giống nhau về thể chất. Nếu những người khác không chịu dạy dỗ cho cô thì cô tự học vậy; và cô thích thà sống độc thân cho đến già còn hơn lấy một con heo cứ tưởng mình có quyền sai khiến cô, ra lệnh đủ thứ như ra lệnh cho một người giúp việc.
Suốt cả ngày thứ hai, cô cảm thấy không thể ăn gì được. Cô uống rất nhiều nước trong khi gia nhân bận bịu đóng cửa nhà. Sang ngày thứ ba, khi mẹ nhận ra cô không chịu chuẩn bị hành lý, bà liền sai chị giúp việc mới, chị Jenkins không biết sắp thứ gì vào va li, cho nên Margaret phải giúp chị ta một tay. Cuối cùng công việc xong xuôi tốt đẹp như lòng mong muốn của mẹ y như bao lần trước.
Margaret nói với chị giúp việc:
– Chị thật không may, mới vào làm được một tuần, chúng tôi đã phải đóng cửa để ra đi.
Jenkins đáp:
– Ồ thưa cô, bây giờ không thiếu việc làm. Bố tôi nói thời buổi chiến tranh không có ai thất nghiệp hết.
– Có phải chị sẽ xin đi làm trong nhà máy.
– Tôi sẽ tòng quân. Người ta tuyên bố trên đài phát thanh rằng hôm qua đã có ngàn phụ nữ tòng quân vào đội Nữ quân nhân để làm ở các cơ quan hậu cần.
Thành phố nào cũng có phụ nữ đến xếp hàng xin đầu quân ở các tòa thị chính, tôi đã thấy báo đăng ảnh cảnh tượng này.
– Thế là chị may mắn rồi. – Margaret buồn rầu nói. – Tôi thì sắp đi xếp hàng để lên thủy phi cơ đi Mỹ.
– Cô phải làm theo lệnh của ngài hầu tước, – Jenkins đáp.
– Bố chị sẽ nghĩ sao về việc chị đầu quân?
– Tôi sẽ không nói cho ông biết, tôi tự ý đi đầu quân.
– Nhưng nếu ông ấy buộc chị phải về nhà thì sao?
– Ổng không buộc được. Tôi 18 tuổi rồi. Ngay khi mình ký vào giấy tờ, là xong hết. Với điều kiện là mình đủ tuổi thì cha mẹ không làm gì được.
Margaret sửng sốt kinh ngạc.
– Chị có chắc thế không?
– Chắc chứ. Mọi người đều biết thế cả.
– Tôi thì không, – Margaret nói, vẻ trầm ngâm.
Jenkins đem va li của Margaret xuống tiền sảnh. Họ phải đi rất sớm vào sáng thứ tư. Nhìn hành lý để đống trên nền nhà, Margaret nghĩ đến chuyện cô sẽ đi lánh chiến tranh ở Counecticut, nếu cô ngoan ngoãn nghe theo lời bố cô. Mặc dù mẹ cô đã tha thiết yêu cấu cô giữ yên lặng, nhưng cô phải đương đầu với bố cô mới được.
Tuy nhiên, khi nghĩ đến chuyện này, cô lại thấy lo sợ. Cô trở về phòng để lấy lại can đảm và suy nghĩ phải nói những gì. Trước hết, điều quan trọng là phải giữ bình tĩnh. Đừng ủy mị khóc lóc, và giận dữ chỉ càng làm cho ông khinh bỉ thôi. Cô phải tỏ ra mình có lý có trách nhiệm và chín chắn. Cô đừng tranh cãi, vì tranh cãi chỉ làm cho ông tức bực, và do đó cô không thể tiến xa hơn được.
Phải bắt đầu như thế nào? “Con nghĩ con có quyền bàn đến việc có liên quan đến tương lai của con”.
Không được, nói thế không xong. Ông sẽ trả lời:
“Bố có trách nhiệm về tương lai của con, cho nên chính ba mới là người quyết định”.
Có lẽ cô phải nói:
“Con xin được bàn thảo với bố về việc đi Mỹ của chúng ta không?”.
Thế nào ông cũng trả lời:
“Không có bàn thảo gì hết”.
Cô phải bắt đầu sao cho thật hòa nhã để ông không thể đuổi khéo cô đi. Cô định hỏi:
“Con xin phép hỏi bố chuyện này được không” Nghe thế, thế nào ông cũng trà lời “được”, Rồi sau đó nói gì? Làm sao cô nêu vấn đề mà không khiến ông nổi trận lôi đình? Cô có thể nói:
“trong cuộc chiến tranh vừa qua, bố ở trong quân đội phải không”“ Cô đã biết ông bị thương ở Pháp. Thế rồi cô nói tiếp:
“Còn mẹ?” Cô biết câu trả lời sẽ ra sao:
“Mẹ là nữ y tá tình nguyện đến Luân Đôn để chăm sóc các sĩ quan Mỹ bị thương”. Cuối cùng cô nói:
“Cả bố và mẹ đều phục vụ Tổ quốc, cho nên con nghĩ chắc bố mẹ đều thông cảm cho con, bằng lòng để cho con được làm công việc như thế” Chắc là sẽ không có ai chống đối lại lời yêu cầu của cô.
Giá mà ông nhượng bộ ý kiến này, cô nghĩ cô sẽ vượt qua những khó khăn khác một cách dễ dàng. Cô sẽ đến ở nhờ nhà bà con cho đến khi cô đầu quân, việc này có lẽ chỉ trong vài ngày là xong. Cô đã 19 tuổi rồi, rất nhiều cô gái bằng tuổi cô đã đi làm việc đủ giờ từ sáu năm rồi. Cô đã đủ lớn để lấy chồng, lái xe và đi ở tù Không có lý do gì để người ta không cho phép cô ở lại Anh quốc hết.
Phải có phong thái chững chạc, cương quyết mới được. Tất cả những gì bây giờ cô cần phải có là sự can đảm Chắc bố đang ở trong phòng làm việc với người hợp tác làm ăn. Margaret ra khỏi phòng. Đến bậc thềm đầu cầu thang, bỗng cô cảm thấy mình run sợ. Bố cô thường nổi nóng mỗi khi người nào chống lại ông. Những cơn thịnh nộ của ông rất khủng khiếp và hình phạt của ông rất độc ác. Năm cô 11 tuổi ông đã bắt cô quay mặt đứng vào tường trong phòng làm việc của ông suốt ngày vì tội cô đã tỏ ra cục cằn với người khách; năm cô 7 tuổi, ông đã tịch thu con gấu lông của cô vì tội cô làm ướt giường ngủ. Một hôm, trong cơn thịnh nộ, ông đã ném con mèo qua cửa sổ từ tầng hai xuống; bây giờ nếu cô nói cho ông biết cô muốn ở lại nước Anh để chiến đấu chống bọn Quốc xã Đức, thì liệu ông sẽ làm gì,”.
Margaret miễn cưỡng đi xuống thang lầu và trong khi cô đang lo sợ đứng đợi trước cửa phòng làm việc của bố, thì bà quản lý chợt đi qua hành lang trước cửa phòng, bà ta mặc chiếc áo dài bằng lụa đen. Bà Allen điều khiển những gia nhân nữ trong nhà rất nghiêm khắc nhưng đối với trẻ em, bà thường rất khoan dung.
Bà đã gắn bó với gia đình cô rất thắm thiết, cho nên khi thấy gia đình cô ra đi, bà rất hoang mang, vì bà phải chấm dứt lối sống bà đã sống bấy lâu nay. Bà nhìn Margaret, buồn bã cười với cô.
Thấy bà ta, bỗng trong óc Margaret nảy ra một ý mới khiến cho lòng cô thắt lại.
Một kế hoạch trốn thoát thành hình trong óc cô. Cô mượn tiền của bà Allen, bỏ nhà ra đi ngay bây giờ, đáp chuyến tàu 16 giờ 55 đi Luân Đôn, ngủ lại đêm tại nhà bà chị họ Catherùle, rồi sáng sớm mai sẽ đăng ký gia nhập lực lượng phục vụ hậu cần. Lúc bố tìm ra cô, thì mọi việc đã muộn rồi.
Kế hoạch quá đơn giản và quá táo bạo đến nỗi cô khó tin sẽ thực hiện thành công. Nhưng, trước khi suy nghĩ thấu đáo, cô bỗng buột miệng hỏi bà quản gia:
– Bà Allen này, bà cho tôi mượn ít tiền được không? Tôi có một ít đồ đạc cần mua vào giờ chót nhưng tôi không muốn quấy rầy ba tôi, ông đang bận khách.
Bà Allen mau mắn hỏi ngay:
– Được chứ, thưa cô. Cô cần bao nhiêu?
Margaret không biết giá vé tàu đi Luân Đôn bao nhiêu, chưa bao giờ cô mua vé. Cô bèn trả lời đại:
– Ồ, tôi mượn một bảng là đủ rồi. – Cô nghĩ:
có phải mình đang thực hiện chương trình bỏ trốn đây không?
Bà Allen lấy trong ví ra hai tờ giấy bạc 10 si linh. Nếu Margaret hỏi bà ta về số tiền này, chắc có lẽ bà ta sẽ nói với cô rằng đây là số tiền bà đã chắt chiu dành dụm cả dời. Margaret đưa tay run run cầm lấy tiền. Cô tự nhủ:
có thể đây là số tiền giúp ta tìm được tự do:
và mặc dù bàng hoàng lo sợ, nhưng cô cũng cảm thấy một niềm vui lâng lâng tràn ngập trong lòng.
Bà Allen lại cứ tưởng cô bồi hồi xúc động vì sắp đi di cư, bà nắm tay cô bóp mạnh và nói:
– Cô Margaret. Hôm nay thật là một ngày buồn. Ngày buồn cho tất cả chúng ta. – Bà lắc đầu, mái tóc đã hoa râm, thái độ rầu rĩ, rồi bà đi ra phía sau nhà.
Margaret đưa mắt nhìn quanh, lòng bồi hồi lo sợ, không có ai thấy hết. Tim cô đập nhanh, hơi thở hổn hển. Cô nghĩ, nếu cô ngần ngừ, thế nào cô cũng mất hết can đảm. Cô không kịp mặc áo măng tô nữa, tay nắm chặt hai tờ giấy bạc, cô bước ra cửa trước.
Đường đến ga xe lửa dài ba cây số, nằm ở ngôi làng kế cận. Đi trên đường, cô cứ lo sợ sẽ nghe tiếng xe Rolls Royce của bố đuổi theo bắt cô lại. Nhưng làm sao ông biết được? Có lẽ không ai để ý đến sự vắng mặt của cô, ít ra cũng trước giờ ăn tối; và nếu người nhà có để ý đến việc cô vắng mặt, thì chắc người ta sẽ nghĩ là cô đi mua ít đồ dùng lặt vặt, như cô đã nói với bà Anen.
Cô đến nhà ga còn sớm, mua vé xong – số tiền còn lại khá nhiều – cô ngồi ở phòng đợi phụ nữ, nhìn kim đồng hồ trên tường, hồi hộp chờ đợi từng giây từng phút.
Tàu đến trễ.
giờ 55, l7 giờ, rồi 17 giờ 05. Margaret quá hồi hộp đến nỗi cô có ý định bỏ về để khỏi phải căng thẳng như thế này.
Tàu đến lúc 17 giờ 14 và cô không thấy bố đến.
Margaret lên tàu, lòng thắt lại.
Cô đến đứng bên cửa sổ, đưa mắt nhìn ra cổng vào sợ bố đến vào giờ chót.
Cuối cùng thu chuyển bánh.
Cô không tin được mình đã ra đi.
Tàu chạy nhanh. Cô run run, nhưng lần này run vì sung sướng, Mấy phút sau, tàu ra khỏi ga. Margaret nhìn ngôi làng xa dần và một cảm giác chiến thắng tràn ngập lòng cô. Cô đã làm nên được kỳ tích này:
cô đã chạy trốn được!
Bỗng cô cảm thấy mỏi chân. Cô đưa mắt nhìn quanh để tìm chỗ ngồi và lần đầu tiên cô thấy tàu đầy cả người. Chỗ nào cũng có người ngồi, ngay cả trong toa hạng nhất này; có nhiều người lính ngồi bệt dưới sàn Cô phải đứng.
Niềm vui vẫn không giảm sút, mặc dù chuyến đi có nhiều biểu hiện như một cơn ác mộng. Đến trạm dừng nào cũng có người lên tàu thêm, họ chen chúc nhau trên các toa. Trước khi trời tối, tàu dừng lại để người ta tháo hết các bóng đèn trong toa, vì có lệnh tắt hết đèn đuốc, cho nên sau khi trời tối tàu chạy trong bóng đêm, chỉ thỉnh thoảng mới có ánh đèn pin của người kiểm soát rọi sáng ngoài hành lang tàu. Khi Margaret không thể nào đứng được nữa, cô ngồi bệt xuống sàn tàu. Cô nghĩ, ngồi như thế này cũng chẳng có gì quan trọng nữa. Áo cô sẽ dơ, nhưng ngày mai cô sẽ có đồng phục để mặc rồi. Tất cả đều khác trước, đất nước trong tình trạng chiến tranh.
Margaret phân vân không biết bố cô biết cô đáp tàu đi Luân Đôn không, và không biết ông có lái xe đến đấy để chặn cô lại ở ga Pađington không. Có thể không mà cũng có thể có, cho nên khi tàu vào ga, lòng cô thắt lại vì lo âu Thế nhưng, khi cô xuống tàu không có ông ở đấy, nên cô cảm thấy mừng rỡ đến run cả người vì đã thành công. Rốt lại, ông không phải là người toàn năng! Cô lần mò trong bóng tối ở sân ga để tìm taxi. Chiếc xe đưa cô đến Bayswater, người tài xế dùng đèn pin để rọi đường cho cô đến tòa nhà chung cư nơi có Catherine ở.
Người ta che kín tất cả các cửa sổ, nhưng ở phòng tiếp tân có đèn sáng.
Người bảo vệ đã đóng cửa phòng để ngủ – bây giờ đã quá nửa đêm rồi – nhưng Margaret biết căn hộ của Catherine ở đâu. Cô leo lên lầu và bấm chuông.
Không có tiếng trả lời.
Lòng cô thắt lại.
Cô lại bấm chuông, nhưng cô nghĩ chỉ vô ích thôi, căn hộ nhỏ mà tiếng chuông reo thì ồn. Không có Catherine rồi.
Cô nhận ra việc không có chị ấy ở đây là điều không đáng ngạc nhiên.
Catherine ở với cha mẹ ở quận Kent, chị chỉ dùng căn phòng này làm chỗ nghỉ chân. Dĩ nhiên bây giờ cuộc sống xô bồ ở Luân Đôn đã dừng lại, cho nên Catherine không có lý do gì có mặt ở đây. Margaret đáng ra đã phải nghĩ đến điều này.
Cô thất vọng nhưng không nao núng. Cô đã tưởng tượng ra cảnh ngồi uống ca cao với Catherine và chia sẻ mềm vui với chị về chuyến phiêu lưu vĩ đại này.
Bây giờ cô phải làm gì nhỉ? Cô có nhiều bà con ở Luân Đôn, nhưng nếu cô đến tìm họ, thế nào họ cũng điện thoại báo cho bố biết. Chỉ có Catherine là người tâm đầu ý hiệp với cô, còn những người khác, cô không thể tin tưởng được.
Rồi cô nhớ nhà bà cô Martha không có điện thoại. Thực vậy đây là bà cô cục cằn, sống độc thân, tuổi chừng 70. Bà ở cách đây khoảng hơn một cây số. Giờ này chắc bà đã ngủ, và chắc bà sẽ nổi giận khi bị thức dậy, nhưng cô không có cách nào khác hơn. Điều quan trọng là bà không có phương tiện gì để báo cho bố biết hiện có mặt cô ở đây.
Margaret bước xuống cầu thang, ra ngoài đường trời tối đen kịt.
Cảnh cả thành phố tắt đèn trong thật rùng rợn khủng khiếp. Cô dừng lại trước cửa, căng mắt nhìn quanh, nhưng chẳng thấy gì hết. Cảnh tượng này gây cho cô một cảm giác kỳ lạ, như thể cô đang bị xây xẩm mặt mày.
Cô nhắm mắt để mường tượng rõ cảnh trí quen thuộc trên đường. Về phía tay trái, ở góc đường, có một ngôi nhà thờ nhỏ, dưới mái che trước nhà thờ luôn luôn có đèn sáng. Dọc theo vỉa hè có, một dãy đèn đường, mỗi ngọn như thể tỏa ra một vùng ánh sáng nhỏ, và trên đường, đèn xe đò, xe tắc xi và xe hơi thường chiếu sáng.
Cô mở mắt ra và không thấy gì hết.
Thật là hoang mang khó xử. Bỗng cô tưởng tượng ra cảnh chung quanh không có gì hết:
đường sá biến mất và cô đang ở trong một trạng thái bất định, đang rơi vào khoảng không. Tự nhiên cô cảm thấy buồn nôn, rồi cô cố trấn tĩnh lại, cố suy nghĩ ra con đường để đi đến nhà bà cô Martha.
Cô tự nhủ:
từ đây ta đi theo phía tay phải, đến ngã tư thứ hai thì rẽ trái và nhà bà Martha nằm ở cuối dãy nhà ở trên đường ấy. Việc tìm ra nhà bà không khó ngay cả lúc trời tối như thế này.
Giá mà có cái gì hiện ra để giúp mình nhỉ, cô nghĩ, như có chiếc xe tắc xi rọi sáng đường đi, có ánh trăng, hay có người cảnh sát nào tốt bụng chẳng hạn. Một lát sau, ước nguyện của cô được đáp ứng, một chiếc xe hơi từ từ chạy tới, hai ngọn đèn phía trước như hai con mắt mèo nhìn trong bóng đêm dày đặc, rồi bỗng cô trông thấy hè phố chạy đài đến tận góc đường Cô bắt đầu bước đi.
Chiếc xe hơi vượt qua, hai ngọn đèn sau xe nhỏ dần tước mặt cô. Margaret ước chừng còn cách góc đường khoảng ba hay bốn bước gì nữa, thì bỗng cô vấp chân trên hè phố. Cô băng qua đường và tìm ra vệ đường bên kia một cách suôn sẻ. Việc này khiến cô phấn khởi, cô vững bụng đi tiếp.
Bỗng có cái gì cứng ngắc va mạnh vào mặt cô đau điếng.
Cô rên lên một tiếng đau đớn và sợ hãi. Cô hốt hoảng muốn chạy tháo lui.
Nhưng cô lấy hết can đảm để giữ cho mình bình tĩnh. Cô đưa tay lên sờ vào chỗ đau trên má. Chuyện gì xảy ra như thế này” Có cái gì trên lề đường va vào mặt cô phải không” Cô đưa tay sờ soạng mò mẫn, đụng phải cái gì đấy khiến cô thụt lùi, sợ hãi, rồi cô nghiến răng, đưa tay sờ lại. Tay cô chạm phải cái gì lạnh cứng và tròn, như cái đĩa kem khổng lồ lơ lửng trên không. Cô mò mẫn sờ tiếp, nhận ra cái gì đó tròn tròn có một lỗ hình chữ nhật và bên trên có mái che. Cô liền hiểu, thì ra cô đã va phải cái thùng thư.
Cô thận trọng tránh qua một bên và đi tiếp, hai tay đưa ra phía trước.
Một lát sau, cô vấp phải một vỉa hè khác. Khi lấy lại thăng bằng, cô thấy lòng nhẹ nhõm, cô đã đến con đường của bà cô Martha. Cô rê qua phía trái.
Bỗng cô nghĩ đến chuyện có thể bà Martha không nghe chuông reo. Bà ấy sống một mình, không có ai ra mở cửa. Nếu thế, Margaret chắc phải quay về chung cư của Catherine và ngủ ngoài hành lang. Cô có thể ngủ dưới đất, nhưng cô ngán đoạn đường trở về trong cảnh tối thui tối mò như thế này. Có lẽ cô nên nép mình vào bên cửa nhà bà Martha để đợi ngày sáng thôi.
Ngôi nhà nhỏ của bà Martha ở cuối dãy nhà trên đường này. Margaret thủng thỉnh đi. Thành phố chìm trong bóng tối, nhưng không chìm trong im lặng.
Thỉnh thoảng cô nghe tiếng xe từ xa vọng lại. Chó sủa khi cô đi qua nhà chúng, và hai con mèo kêu meo meo kéo dài, chốc chốc có tiếng nhạc vẳng đến tai cô, âm thanh vui tai trong đêm trùng. Xa hơn một chút, cô nghe có tiếng rúc rích của một cặp vợ chồng sau tấm màn che ánh sáng. Cô muốn được ở trong một ngôi nhà có đèn sáng, có lò sưởi đang cháy và có bình trà nóng.
Margaret nhớ dãy nhà đâu có xa như thế này. Nhưng cô không thể làm gì được, cô đã rẽ trái ở ngã tư thứ hai mà. Tuy nhiên, ý nghĩ cô bị lạc đường càng lúc càng chắc chắn. Cô đã mất hết ý niệm về thời gian, cô đi 5 phút, 20 phút, hai giờ, cả đêm ư. Thình lình cô nhận ra không có nhà gần bên cô nữa. Có lẽ cô đang ở giữa công viên Hyde Park, có lẽ cô đã vô tình đi vào công viên mà không hay biết. Cô có cảm giác như bầy thú đang bao quanh cô, đang giương đôi mắt sáng quắc rình cô, đợi cô trượt chân là nhảy đến vồ lấy. Cô định hét lên, nhưng cô vội lấy tay bịt miệng để khỏi thốt ra lời.
Margaret cố giữ tinh thần hưng phấn và chiến thắng như khi ngồi trên xe lửa, nhưng không được, tinh thần ấy đã biến mất, chỉ còn lại nổi cô đơn và lo sợ. Cô định dừng lại, không nhúc nhích. Chắc cô không đến được nhà bà cô rồi.
Cô đứng bất động một hồi lâu, không biết xoay xở ra sao. Cô tự nhủ, chắc cứ đứng yên như thế cho đến khi ngã quỵ hay là cho đến khi trời sáng.
Trong khi ấy, một chiếc xe hơi xuất hiện. Đèn xe đã được sơn che một nửa, nên ánh sáng chiếu ra không nhiều lắm, nhưng so với bóng tối dày đặc như đoạn đường cô vừa đi qua, thì cô có cảm giác như trời đang ban ngày. Cô nhận thấy mình đang ở giữa đường, cô vội nhanh chân chạy lên lề đường. Cô đang ở một nơi cô chỉ nhớ ra mang máng mà thôi. Chiếc xe vụt qua, rẽ vào một ngã tư, Margaret vội đi theo hướng chiếc xe chạy, hy vọng tìm thấy một điểm nào quen thuộc để xác định được mình đang ở nơi nào. Đến ngã tư, cô thấy chiếc xe ở cuối một con đường nhỏ hẹp có nhiều cửa tiệm ở hai bên, trong số này có một tiệm bán khăn mũ phụ nữ mà mẹ thường đến mua; cô nhận ra cô chỉ còn cách khu Marble Arch có vài mét thôi.
Cô mừng đến phát khóc.
Đến ngã tư tiếp theo, cô đợi có chiếc xe khác nữa chạy ngang qua để thấy rõ được đường đi; rồi cô vào khu Mayfaứ.
Mấy phút sau, cô đến khách sạn Clandge. Dĩ nhiên cả khách sạn chìm trong bóng tối, nhưng cô nhận ra được cửa và cô phân vân không biết có nên vào không.
Cô biết cô không đủ tiền để thuê phòng, nhưng cô nhớ là nhiều người vào ở khách sạn chỉ khi ra đi mới thanh toán tiền bạc. Cô có thể thuê một phòng để ở hai đêm, ngày mai cứ đi ra như thể lát nữa cô sẽ tìm về, đi đăng ký vào lực lượng phục vụ hậu cần, rồi sẽ điện thoại đến khách sạn nói với họ gởi phiếu thanh toán đến cho luật sư của bố.
Như hầu hết các tòa nhà mở cửa ban đêm, lối vào khách sạn là loại cửa hai lớp, trông như có một phòng nhỏ ở giữa hai lớp cửa, để khi có người đi vào đi ra, thì ở ngoài đường người ta không thấy được ánh sáng ở bên trong. Margaret đóng cánh cửa ngoài, rồi đến đẩy cánh cửa trong và đi vào tiền sảnh khách sạn sáng sủa vui tươi. Cô để lộ vẻ khoan khoái ra mặt. Cô thấy lại cuộc sống bình thường, cơn ác mộng đã chấm dứt.
Một thanh niên trực đêm ngủ gà ngủ gật sau quầy.
Margaret đằng hắng lên tiếng, anh ta giật mình tỉnh dậy, vẻ ngơ ngác. Cô nói:
– Tôi cần một phòng ngủ.
– Cần vào giờ này à? – Anh ta ấp úng hỏi.
– Tôi bị kẹt trong đêm tối, không về nhà được.
Anh ta đã định thần lại được bèn hỏi:
– Không có hành lý à?
– Không. – Margaret đáp, giọng nghe như có lỗi; nhưng rồi chợt cô nghĩ ra ý mới, bèn nói tiếp – Tôi không ngờ bị lạc đường.
Anh ta nhìn cô với vẻ hơi kỳ lạ. Nhưng chắc anh ta không từ chối, Margaret nghĩ. Anh ta nuốt nước bọt, vuốt mặt rồi làm ra vẻ như kiểm tra lại sổ đăng ký.
Anh ta xem cái gì thế. Bỗng anh ta gấp sổ lại một cách dứt khoát và đáp:
– Khách sạn hết phòng rồi.
– Ồ, chắc anh còn phòng …
– Có phải cô đã gây lộn với cha mẹ ở nhà không? – Anh ta nheo mắt hỏi.
Margarlàt không tin được tai mình.
– Tôi không thể về nhà được, – cô lặp lại, vì chắc hồi nãy anh ta không nghe rõ lời cô.
– Tôi không thể làm gì được, – anh ta đáp. Rồi bỗng lấy giọng khôi hài, anh ta nói tiếp:
– Do lỗi của Hitler hết.
Ông giám đốc khách sạn ở đâu? – Cô hỏi.
Anh ta có vẻ phật ý.
– Tôi chịu trách nhiệm cho đến 6 giờ.
Margaret nhìn quanh rồi bằng một giọng chán nản, cô nói:
– Thế thì tôi chỉ còn nước ngồi nhờ ở hành lang cho đến sáng thôi. . . . .
– Cô không thể ngồi đây được đâu! – chàng trực đêm hất hoảng thốt lên. Một cô, gái không có hành lý ngồi một đêm ở hành lang khách sạn à? Để cô ngồi là tôi mất việc liền.
– Tôi không phải là con gái tầm thường, – cô giận dữ nói. – Tôi là Tiểu thư Margalet ôxenford. – Cô kinh hoàng khi nghe mình dùng đến tước vị, nhưng vì cô quá thất vọng.
Thế mà vẫn không có hiệu quả gì. Anh chàng nhân viên khách sạn nhìn cô với ánh mắt xấc xược rồi hỏi:
– A, thật thế sao?
Margaret định mắng cho anh ta một trận, thì bỗng cô thấy bóng mình hiện ra trong kính cửa, trên mặt sưng một cục gần bên con mắt bầm đen. Thêm vào đó, hai tay cô dơ bẩn và chiếc áo dài bị rách. Cô nhớ cô đã va mạnh thùng thư ngoài đường, và khi đi trên tàu, cô đã ngồi bệt xuống sàn toa. Thảo nào mà anh chàng trực khách sạn này không cho cô thuê phòng. Cô nói với anh ta bằng một giọng thất vọng:
– Nhưng lẽ nào anh nỡ đuổi tôi ra ngoài trời đêm tối như thế này!
– Tôi không làm gì khác hơn được! – Anh ta đáp.
Margaret tự hỏi, nếu cô cứ ngồi lỳ xuống đây, không chịu đi thì anh ta sẽ làm gì. Cô thật muốn làm như thế. Nhưng cô đau đớn nghĩ rằng cô không đủ nghị lực để tranh chấp với anh ta. Vả lại đêm đã khuya mà chỉ có hai người với nhau:
Trời mới biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh ta có ý đồ làm bậy.
Chán nản, cô đành quay lưng, bỏ ra ngoài trời đêm.
Cô không biết đi đâu. Chắc cô không tìm ra được chung cư nơi Catherine ở, cô cũng không thể tìm ra được nhà bà Martha; cô không có bà con nào đáng tin cậy, và cô quá dơ dáy không làm sao thuê phòng khách sạn được. Cô chỉ còn nước đi lang thang cho đến khi trời sáng Thời tiết tốt, trời không mưa và hơi lạnh. Nếu cô cứ đi, cô sẽ không thấy lạnh nữa. Bây giờ cô thấy có nhiều ánh đèn sáng ở khu West End, và chốc chốc lại có một chiếc xe hơi chạy qua. Cô nghe có tiếng nhạc và tiếng người huyên náo trong các hộp đêm vọng ra, nơi mà thỉnh thoảng lại có những người thuộc tầng lớp như cố đi ra, phụ nữ mặc áo dạ hội lộng lẫy và đàn ông y phục chỉnh tề, họ có xe hơi đến đón về sau một đêm vui chơi đến khuya. Cô ngạc nhiên khi thấy trên một con đường có ba phụ nữ đơn độc:
một cô đứng trên ngưỡng cửa một ngôi nhà, một cô khác đứng tựa vào cột đèn đường và cô thứ ba ngồi trong một chiếc xe hơi. Tất cả đều hút thuốc và có vẻ như đang đợi ai. Cô tự hỏi không biết có phải đấy là những người đàn bà mà mẹ cô thường gọi là phụ nữ sa đọa không.
Cô bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Khi trốn khỏi nhà, cô vẫn mang trên chân đôi giày nhẹ đi trong nhà, nên bây giờ chân đau buốt. Không e ngại gì hết, cô ngồi bệt xuống trên thềm một ngơi nhà, tháo giày ra và thoa hai bàn chân đau.
Ngước mắt nhìn, cô thấy lờ mờ hiện ra hình dáng nhà cửa ở phía bên kia đường. Trời sắp sáng rồi sao? Cô sắp tìm được một quán cà phê bình dân mở cửa sớm phải không? Chắc cô phải đi ăn sáng rồi mới đến phòng tuyển mộ. Đã hai ngày cô không ăn gì, nên bây giờ nghĩ đến trứng áp chảo với thịt ba chỉ cô chảy nước miếng.
Bỗng cô thấy hiện ra trước mặt cô một khuôn mặt trắng. Cô thốt lên nho nhỏ trong miệng và lo sợ. Khuôn mặt đến gần và cô nhận ra đấy là một thanh niên mặc áo quần dạ hội. Anh ta cất tiếng chào:
– Chào người đẹp.
Cô vội đứng dậy. Cô rất sợ những người say. Họ thiếu tư cách. Cô đáp lời hắn:
– Xin ông đi khỏi cho. – Cô cố nói bằng giọng chững chạc, nhưng giọng cô thốt ra run run.
Hắn ngập ngừng bước đến gần.
Nào, cho anh cái hôn đi.
Không được! – Cô cương quyết đáp. Cô bước lui, trượt chân để rơi giày xuống đường. Không hiểu tại sao khi mất giày cô cảm thấy hết sức yếu đuối. Cô bèn quay lại, mò mẫn tìm giày. Hắn cười khà, rồi bỗng cô hoảng hồn khi cảm thấy tay hắn sờ vào đùi chân cô, vuốt ve thật thô bạo. Lập tức cô vùng đứng dậy, mặc dù không tìm ra giày, cô vẫn bỏ chạy rồi quay về phía hắn, cô hét lớn:
– Hãy để cho tôi yên!
Hắn lại cười và nói:
– Được đấy, anh thích kháng cự một chút như thế đấy.
Bỗng hắn nhanh như cắt tóm lấy hai vai cô rồi kéo cô vào người hắn. Hơi thở hắn nồng nặc mùi rượu, và thình lình hắn hôn lên môi cô.
Thật hết sức đau lòng, cô cảm thấy muốn nôn mửa, nhưng gã đàn ông ôm cô quá chặt đến nỗi cô hụt hơi, khó chống cự lại được. Cô vùng vằng một cách khó khăn trong khi hắn ôm riết cô vào lòng. Bỗng hắn thả một vai cô và đưa tay bóp vú cô. Hắn bóp mạnh đến nổi cô phải thét lên vì đau đớn. Nhưng vì hắn đã thả vai cô ra, nên cô quay được nửa người và cất tiếng hét lên.
Tiếng hét thật dài, thật chói tai. Cô nghe loang loáng bên tai giọng nói có vẻ ái ngại của hắn:
– Này, này, đừng làm thế, anh không muốn hại em đâu:
– Nhưng cô đã quá hất hoảng, không nghe hắn nói phải trái gì nữa, mà cứ la tiếp. Nhiều khuôn mặt xuất hiện trong bóng đêm:
một người mặc áo quần công nhân đi qua, một phụ nữ sa đọa ngậm thuốc lá trên miệng cầm ví trên tay, và một bóng người hiện ra trên cửa sổ của ngôi nhà phía sau họ. Gã say rượu biến mất, Margaret không la nữa và khóc nức nở. Rồi có tiếng giày da nện thình thịch trên đường, ánh đèn pin rọi sáng quanh cô và cô thấy chiếc mũ cảnh sát hiện ra.
Người cảnh sát rọi đèn pin vào mặt Margaret.
Người phụ nữ nói nhỏ:
– Không phải người của bọn tôi Steve à.
Người cảnh sát có tên Steve hỏi cô:
– Cô tên gì, cô bé?
– Margaret Oxenford.
Người mặc áo công nhân nói:
– Anh chàng quí tộc ngỡ cô ta là gái điếm. – Anh cười rồi bỏ đi.
– Cô có phải là tiểu thư Margaret Oxenford không?
Người cảnh sát hỏi.
Margaret hít vào một hơi, vừa gật đầu.
– Tôi đã nói với ông cô ta không phải giới của chúng tôi mà, – chị đàn bà nói.
Nói xong chị ta hít một hơi thuốc lá, gãy cho tàn thuốc rót xuống, dẫm lên rồi bỏ đi.
Người cảnh sát nói:
– Bây giờ cô đi theo tôi, mọi việc sẽ ổn thỏa hết.
Margaret lấy cánh tay lau mặt. Người cảnh sát đua cánh tay anh cho cô, cô vịn vào. Ông ta rọi đèn pin trên vỉa hè trước mặt, hai người cùng đi. Đi được một lát, Margaret rùng mình nói:
– Người đâu quá khủng khiếp!
Người cảnh sát có vẻ động lòng thương xót, ông vui vẻ nói:
– Không nên trách hắn ta. Đây là con đường nổi tiếng là bết nhất ở Luân Đôn. Phụ nữ đi ban đêm một mình ở đây, ai cũng ngỡ là gái điếm hết.
Margaret nghĩ hẳn ông ta nói có lý, mặc dù đối với cô thì việc này rất bất công.
Ánh đèn xanh của đồn cảnh sát hiện ra trong bầu ánh sáng của rạng Đông.
Người cảnh sát nói:
– Cô vào uống một tách trà là người khỏe ngay.
Họ đi vào đồn. Sau cái bàn dài có hai người cảnh sát đang ngồi, một người lùn mập tuổi trung niên, còn người kia trẻ và mảnh khảnh. Hai bên cửa vào, mỗi bên kê một cái ghế dài bằng gỗ Bát tường. Trên một chiếc ghế, một người đàn bà đang ngồi đợi, mặt chị ta xanh xao, tóc buộc lại bởi một chiếc khăn và hai chân đi dép vẻ nhẫn nhục, bơ phờ.
Người cứu Margaret chỉ vào chiếc ghế kia và nói với cô:
– Cô ngồi đấy đợi một lát.
Margaret làm theo lời người cảnh sát. Ông ta đến bên chiếc bàn dài, nói với người đứng tuổi:
– Thưa trung sĩ, cô ấy là tiểu thư Margaret Oxenford. Cô ta đã gặp chuyện rắc rối với một gã say rượu ở khu BoltingLane.
– Chắc hắn tưởng cô ta là gái đứng đường.
Margaret ngạc nhiên vì có nhiều uyển ngữ để chỉ gái đĩ. Người ta có vẻ kinh hoàng khi gọi gái đĩ, nên họ thường hay gọi những tên khác cho nhẹ hơn. Trước đây cô ít khi nghe những từ như thế này, chỉ đêm nay cô mới thật sự nghe được.
Nhưng hành động của gã đàn ông mặc dạ phục thì rõ ràng là quá hiển nhiên chứ không còn úp mở gì nữa.
Ông trung sĩ chú ý nhìn Margaret, rồi nói nhỏ gì đấy với Steve mà cô không nghe rõ. Steve gật đầu vâng lời rồi biến mất vào phía sau.
Margaret nhận ra mình đã để mất giày ở thềm nhà đằng ấy rồi, nơi cô ngồi hồi nãy. Vớ của cô bây giờ đã thủng nhiều lỗ. Cô thấy lo lắng vô cùng, với tình trạng như thế này làm sao đến trung tâm tuyển mộ cho được? Có lẽ chờ khi trời sáng, cô phải quay lại đấy để tìm giày. Nhưng chắc gì giày còn ở đấy. Rồi cô còn phải rửa ráy sạch sẽ và kiếm cái áo dài sạch khác nữa chứ. Sau bao nhiêu cố gắng gian khổ như thế này mà không được tuyển chọn vào lực lượng hậu cần, thì thật quá thất vọng. Nhưng biết đi đâu để chuẩn bị đây. Sáng mai, ngay cả tại nhà cô Martha chắc gì đã bảo đảm, có thể bố đến tìm cô ở đấy lắm. Tuy nhiên, cô lo lắng tự hỏi, chắc kế hoạch của cô không hỏng bét vì một đôi giày?
Người cảnh sát cứu cô trở ra, mang cho cô một ly trà thật lớn. Màu nước trà nhợt nhạt và quá ngọt, nhưng Margaret vẫn hớp từng ngụm nhỏ với vẻ biết ơn.
Nước trà làm cho cô thêm quyết chí. Cô sẽ vượt qua tất cả trở ngại khó khăn.
Khi uống trà xong, cô sẽ ra đi. Cô sẽ đến một khu bình dân để tìm một cửa hàng bán áo quần rẻ:
cô còn mấy si linh. Cô sẽ mua một cái áo dài, một đôi dép và đồ lót. Cô sẽ vào một phòng tắm để rửa ráy và thay áo quần. Cô quyết chí đầu quân cho được.
Trong khi cô đang suy nghĩ kế hoạch hành động, thì bỗng có tiếng ồn ào trước cửa đồn, rồi một toán thanh niên ùa vào đồn cảnh sát. Họ ăn mặc áo quần đẹp đẽ người thì áo quần dạ hội, kẻ lại com lê vét tông. Rồi cô thấy họ lôi kéo một người trong nhóm, và anh này cố vùng vẫy để thoát ra. Một người đến gặp ông trung sĩ đang ngồi sau bàn dài, thái độ hung hăng.
Ông trung sĩ ngăn anh ta lại.
– Thôi thôi, hãy bình tĩnh! – Ông ta nói lớn với giọng ra lệnh. – Các anh không phải đang ở trên sân bóng bầu dục, mà đây là đồn cảnh sát. – Tiếng ồn giảm bớt, nhưng ông trung sĩ vẫn chưa thấy vừa ý, ông nói tiếp:
– Nếu các anh không giữ trật tự, tôi sẽ tống giam hết. Bây giờ các anh có chịu im mồm hết không?
Tất cả đều im lặng, họ thả người tù ra, để cho anh ta đứng yên một chỗ, vẻ thảm não. Người trung sĩ chỉ một thanh niên có mái tóc màu nâu, tuổi chừng bằng tuổi của Margaret.
– Tốt … bây giờ anh hãy nói rõ cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra.
Anh ta đưa tay chỉ tù nhân và nói:
– Người này đã dẫn em gái tôi đến nhà hàng ăn uống, rồi chuồn mất mà không trả tiền! – Giọng anh ta tức tối. Cách nói năng của anh ta cho thấy anh là người thuộc giai cấp thượng lưu và Margaret nhận ra khuôn mặt anh ta có vẻ quen quen. Cô mong sao anh ta không nhận ra cô. Nếu anh ta biết cô bị cảnh sát tóm lại được sau khi bỏ nhà ra đi, thì thật nhục nhã biết bao!
Một chàng trai trẻ hơn mặc bộ áo quần có sọc nới thêm:
– Hắn tên là Harry Marks, hắn phải vào tù.
Margaret lấy làm lạ, đưa mắt nhìn kỹ Harry Marks. Anh ta rất đẹp trai, tuổi khoảng 22 hay 23, có mái tóc vàng và dáng dấp hài hòa đều đặn. Mặc dù áo quần của anh ta có phần xốc xếch, nhưng bộ áo quần trên người anh rất sang, cài nút chéo, trông rất lịch sự Anh ta nhìn quanh, ánh mắt khinh bỉ rồi lên tiếng nói:
– Những người này đều say hết.
Người thanh niên mặc bộ đồ có sọc đáp lại:
– Có lẽ chúng tôi say, nhưng hắn là một thằng vô lại. và là thằng ăn trộm.
Ông hãy nhìn những thứ mà chúng tôi đã tìm thấy trong túi của hắn. – Anh ta ném cái gì đấy lên mặt bàn. – Hắn đã ăn cắp cặp nút tay áo này vào đầu hôm tại nhà ngài Simon Monkford.
– Được rồi, – ông trung sĩ nói – các anh buộc tội anh ta là lưu manh – bằng cách không trả tiền cho nhà hàng – và tội ăn trộm. Có gì nữa không”.
Cậu thanh niên mặc bộ đồ có sọc cười ngạo mạn và nói:
– Như thế chưa đủ cho ông hay sao?
Ông trung sĩ chỉ cây bút chì vào mặt anh ta:
– Này cậu, cậu phải nhớ cậu đang ở đâu đấy nhé. Có lẽ cậu sinh ra trong cảnh giàu sang, nhưng đây là đồn cảnh sát, nếu cậu ăn nói vô lễ, cậu sẽ vào ngủ đêm trong phòng giam đấy.
Người thanh niên cứng họng, không nói gì được.
Ông trưng sĩ quay qua người tố cáo đầu tiên.
– Bây giờ anh hãy cho tôi biết những chi tiết về hai vụ tố cáo ấy được không?
Tôi cần biết tên và địa chỉ của nhà hàng ăn uống, tên và địa chỉ của em gái anh, và tên cùng địa chỉ của người có cặp nút tay áo này.
– Được tôi sẽ cho ông biết những chi tiết này. Nhà hàng ăn uống …
– Tốt. Này anh, anh phải ở lại đây, – ông trung sĩ nói, với bị cáo. – Anh ngồi xuống đấy. – Rồi ông quay qua nói với đám thanh niên kia:
Còn các anh, các anh có thể ra về được rồi.
Họ có vẻ hoang mang bối rối. Công việc phiêu lưu vĩ đại của họ kết thúc như thế này thì quả đáng thất vọng. Cho nên họ đứng trơ ra không ai nhúc nhích động đậy một lát.
– Thôi ra về đi, tất cả đều có thể ra về được rồi.
Chưa bao giờ Margaret nghe được nhiều chuyện hấp dẫn chỉ trong một ngày như thế này, Các chàng trai ra về, càu nhàu với nhau. Người thanh niên mặc bộ đồ có sọc nói:
Các cậu giao nộp một thằng ăn trộm cho công lý, thế mà họ đối xử với các cậu như chính các cậu là tội phạm! – Nhưng anh ta đã ra khỏi cửa đồn trước khi nói hết câu.
Ông trung sĩ giữ chàng trai tóc nâu lại để thẩm vấn, ông ghi chép lời khai vào sổ. Harry Marke ngồi yên trước mặt ông ta một lát, rồi anh ta mất hết kiên nhẫn, quay nhìn quanh trong phòng. Anh ta nhìn thấy Margaret, nhoẻn miệng cười tươi tắn với cô, rồi đến ngồi bên cạnh cô. Anh ta cất tiếng hỏi:
– Ổn cả chứ, cô em? Cái gì làm cho cô phải đến đây vào giờ này trong đêm?
Margaret rất ngỡ ngàng. Anh ta hoàn toàn thay đổi hẳn. Hết thái độ kênh kiệu và giọng nói uốn éo, anh ta nói với giọng bình dị như ông trung sĩ. Cô cảm thấy quá kinh ngạc nên không thể trả lời anh ta được.
Harry đưa mắt nhìn ra cửa như thể muốn thừa cơ hội để chạy trốn khỏi đồn, rồi anh ta quay nhìn vào bàn làm việc và thấy người cảnh sát trẻ tuổi đang chăm chú nhìn anh ta. Anh ta bèn bỏ ý định chạy trốn và quay qua hỏi Margaret.
– Ai làm mắt cô bị bầm sưng như thế, bố mẹ à?
Margaret tỉnh táo đáp:
– Tôi bị lạc đường khi trời tối và va mạnh cái thùng thư.
Bây giờ đến lượt anh ta ngạc nhiên. Anh ta tưởng cô là công nhân thợ thuyền. Bây giờ nghe giọng cô nói, anh mới thấy mình lầm. Anh ta điềm nhiên lấy lại phong độ hồi nãy.
– Trời ơi, rủi thật!
Margaret thấy vui vui. Nhân cách anh ta ra sao nhỉ. Người anh ta tỏa mùi nước hoa. Tóc cắt khéo, thậm chí còn để cho dài nữa. Anh ta mặc bộ đồ dạ phục may theo kiểu vun Edouard Đệ bát, bít, tất lụa và giày đế mỏng đánh bóng. Đồ trang sức trên người đều hảo hạng nút áo kim cương trên áo sơ mi, cặp nút tay áo tuyệt đẹp; đồng hồ vàng và vòng đeo tay có hình con cá sấu màu đen; trên ngón tay út của bàn tay trái có chiếc nhẫn. Hai bàn tay anh ta to tướng, nhưng móng tay thì rất sạch.
Cô hạ thấp giọng hỏi nhỏ:
– Có thật anh đi ăn nhà hàng mà không trả tiền không?
Anh ta nhìn cô một lát rồi trả lời xăng xái:
Cô cứ tin là thật đi. – Giọng anh ta nghe có vẻ như hành động của anh là có ý đồ, có âm mưu.
– Tại sao lại thế?.
– Bởi vì, nếu tôi ngồi nghe cô Rebecca Maugham – Flint nói về ba con ngựa chết tiệt của cô ta thêm chút nữa, thì chắc tôi sẽ bóp cổ cô ấy cho đến chết mất.
Margaret phì cười. Cô biết Rebecca Maugham-Flint, cô ta như cây sào khổng lồ không đường nét gì hết, là con gái của một ông tướng và cô ta giống bố về thái độ kênh kiệu, có giọng nói oang oang:
– Tôi hiểu ra rồi, – cô nói. Khó mà tưởng tượng ra một người khả ái như ông Marks này lại đi ăn với cô ta được.
Người cảnh sát có tên Steve xuất hiện, ông ta lấy cái ly không nơi cô.
– Cô cảm thấy khỏe rồi chứ, tiểu thư Margaret?
Cô liếc mắt thấy Hany Marks giật mình sửng sốt khi nghe người cảnh sát gọi tước vị của cô.
– Khỏe nhiều rồi, cám ơn ông, – cô đáp. Nãy giờ ham nói chuyện với Harry, cô quên phứt chuyện lo buồn của mình, bây giờ cô mới nhớ lại những việc cô phải làm. – Ông thật tốt, – cô nói tiếp:
– Bây giờ tôi xin phép chia tay ông để đi làm những công việc cần thiết hơn.
– Cô khỏi phải vội, – người cảnh sát đáp. – Bố cô, ngài hầu tước đang trên đường đến đây tìm cô.
Margaret cảm thấy tim mình như ngừng đập. Tại sao có thể như thế này được? Cô tin chắc hành động của cô rất bảo đảm:
nhưng cô đã đánh giá thấp bố cô. Cô nghĩ chắc khi cô đi ra ga thì ông đã đi theo cô, rồi lái xe đi Luân Đôn! Cô run lẩy bẩy, hỏi ông cảnh sát, giọng căng thẳng:
– Làm sao bố tôi biết tôi ở đây?
Người cảnh sát hãnh diện đáp:
– Tối hôm qua người ta đã loan tin cô trốn nhà ra đi, và tôi có nhiệm vụ tìm cô. Người ta có miêu tả vóc dáng cô, nhưng trời tối quá, nên tôi không nhận ra, nhưng tôi nhớ tên cô. Nhiệm vụ của tôi là phải báo cho ngài hầu tước biết ngay.
Vừa dẫn cô về đây là tôi gọi điện thoại báo cho ông biết liền.
Margaret đứng đậy, tim đập liên hồi. Cô nói:
– Tôi không đợi ổng đến đâu. Bây giờ trời sáng rồi.
Người cảnh sát có vẻ lo lắng.
– Khoan đã, – ông ta nói một cách gay gắt. Ông quay lại bàn làm việc và hỏi ông trung sĩ:
– Thưa trung sĩ cô ấy không muốn đợi bố cô đến.
Harry Marks nói nhỏ với Margaret:
– Họ không thể giữ cô lại được:
với tuổi cô, chạy trốn khỏi nhà không phải là tội lỗi. Nếu cô muốn đi, cô chỉ việc ra đi.
Margaret tin chắc họ đang tìm cớ để giữ cô lại.
Ông trung sĩ đứng dậy, đi ra khỏi bàn làm việc, ông nói:
– Anh ta nói có lý đấy. Nếu cô muốn đi, thì cứ đi.
– Ồ, cám ơn Margaret đáp, giọng biết ơn.
Ông trung sĩ cười.
– Nhưng cô không có giày, vớ thì thủng. Nếu cô muốn ra đi trước khi bố cô đến, cô hãy để tôi gọi cho cô một chiếc tắc xi.
Cô suy nghĩ. Họ điện thoại cho bố khi cô đến đồn cảnh sát. mà việc này chỉ mới cách đây chưa đầy một giờ. Bố không thể đến đây trước một giờ nữa. Cô bèn nói với ông cảnh sát.
– Thế thì tốt, tôi xin cám ơn ông.
Ông ta mở cánh cửa ở phòng sau và nói:
– Cô nên vào đây ngồi để đợi tắc xi. – Ông ta bật đèn. Margaret muốn ngồi ngoài này nói chuyện phiếm với anh chàng Hany Marke có duyên này nhưng cô không muốn làm ông trung sĩ chạm tự ái, nên cô đành đáp:
– Cám ơn ông.
Cô vào trong căn phòng nhỏ. Trong phòng có hai cái ghế ọp ẹp và một cái ghế dài, trên trần có bóng đèn và cửa sổ có song sắt. Cô không hiểu tại sao ông trung sĩ cho cái phòng này dễ chịu hơn phòng ngoài. Cô quay lại để nói với ông ta.
Cánh cửa đã đóng lại. Cô có linh cảm không hay nổi lên trong lòng. Cô vội vàng đến cửa, vặn tay nắm. Bỗng cô nghe có tiếng khóa cài lại và cô thấy lo sợ.
Cô xoay mạnh nắm cửa, nhưng cửa không mở được.
Cô thất vọng ngồi phịch xuống chiếc ghế dài. Cô nghe bên ngoài có tiếng cười rúc rích, rồi có tiếng Harry cất lên nho nhỏ:
– Đồ đểu!
Rồi cô nghe giọng ông trung sĩ nói, nhưng bây giờ giọng ông kém phần nhẹ nhàng:
– im miệng đi!
– Ông không có quyền làm thế.
– Bố cô ta là hầu tước, tôi có bổn phận làm theo lời ông ta.
Câu chuyện chấm dứt ngang đó.
Margaret biết thế là cô đã thất bại. Chuyện trốn thoát thế là hỏng bét rồi. Cô đã bị những người mà cô tưởng đến giúp cô phản bội. Chỉ trong vài giờ nữa thôi là cô sẽ được thả ra, và như thế là chấm dứt việc trốn thoát. Cô sẽ không đầu quân vào lực lượng hậu cần được cô đau đớn nghĩ, mà cô sẽ đáp chuyến thủy phi cơ Clipper của hãng hàng không Paa American để bay qua New York, trốn chiến tranh. Sau chuyến phiêu lưu mạo hiểm này, số phận của cô vẫn không thay đổi. Thật quá bất công.
Một hồi lâu, cô quay lưng lại phía cửa, đi đến cửa sổ Cô thấy cái sân sau vắng vẻ và một bức tường gạch. Cô đứng yên bên cửa sổ, chán nản thất vọng, nhìn qua chấn song thấy trời đã sáng, cô chỉ còn nước đợi bố cô đến mà thôi.
Eđie Deakin kiểm tra lần cuối chiếc Clipper của hãng Pan American.
Bốn động cơ Wright Cyclone một ngàn năm trăm mã lực đã tra dầu mủ. Mỗi động cơ cao bằng đầu người. Người ta đã thay 56 cái bu di. Vì có tính cẩn thận, Eđđie lấy trong túi áo lao động ra cái dụng cụ đo bề dày, chuồi lưỡi đo xuống dưới sườn động cơ, giữa lớp cao su và mặt kim loại, để kiểm tra độ dính vì trong chuyến bay dài như thế này, sự rung chuyển của máy bay có thể làm cho các thứ dính vào nhau căng ra rất khủng khiếp. Nhưng cái thước đo cho thấy không có chỗ nào hở ra quá nửa ly. Sườn máy bay giữ nguyên vị trí rất tốt.
Anh đóng ô cửa hầm tàu, rồi leo thang đi xuống. Khi nào người ta hạ chiếc thủy phi cơ xuống nước, anh mới cởi đồ quần lao động ra, tắm rửa rồi mặc bộ đồng phục đen của hãng Pan American vào.
Khi anh rời khỏi bến cảng, trời nắng ráo, anh leo lên ngọn đồi để đến khách sạn nơi phi hành đoàn nghĩ ngơi trong thời gian kiểm tra tu bổ máy móc. Anh hãnh diện về chiếc máy bay và hãnh diện về nghề nghiệp của mình. Phi hành đoàn của chiếc Clipper đều là những người ưu tú, những người giỏi của công ty, vì chuyến bay xuyên đại dương mới mẻ này là chuyến hành trình nổi tiếng nhất. Rồi đây, suốt cả đời, anh sẽ tự hào anh là người đầu tiên đã bay trên chiếc Clipper qua đại tây dương.
Thế nhưng, anh định rồi đây anh sẽ thôi bay. Anh đã ba mươi tuổi, anh đã cưới vợ từ một năm nay và bây giờ Carol-Ann đã có thai. Đối với người còn độc thân thì bay là công việc rất tuyệt, nhưng người đã có vợ như anh, anh không muốn xa vợ con lâu ngày. Anh đã có tiền dành dụm, anh đã có đủ tiền để kinh doanh nhỏ được rồi. Anh đã chọn được một miếng đất ở gần Banger trong tiểu bang Maine để làm nơi đậu máy bay rất tốt. Anh sẽ sửa chữa bảo trì máy bay, bán nhiên liệu máy bay, và sẽ mua một chiếc để đưa đón khách. Anh thầm mơ ước một ngày nào đó anh sẽ có một công ty hàng không, như Juan Tippe, người tiên phong đặt nền móng Hãng Pan American.
Anh đi vào vườn khách sạn Langdown. Cũng may là phi hành đoàn thuê được phòng trong khách sạn này chỉ xa cách các cơ sở hạ tầng của Hãng hàng không Hoàng gia Anh chua đầy hai cây số. Khách sạn là một tòa nhà nông thôn kiểu Anh do một cặp vợ chồng rất dễ thương điều khiển, họ làm vừa ý mọi người và họ phục vụ trà trên bãi cỏ vào những buổi chiều trời đẹp.
Anh đi vào tiền sảnh, gặp ngay người phụ tá cho mình, Desmonđ Finn – người được mọi người đặt cho cái bí danh là Mickey vì trông anh ta lúc nào cũng phấn chấn như người vừa dùng ma túy. Mickey là một chàng trai vô tư, có nụ cười cởi mở, toe toét để lộ ca hai hàm răng và anh ta thường xem Eđdie như một vị anh hùng, khiến cho Eđđie cảm thấy bối rối trước sự mến phục này của anh ta. Anh ta đang nghe điện thoại, và khi thấy Eđdie, anh ta liền nói với người bên kia đầu giây:
Ồ, đợi chút nhé, anh may rồi đấy, anh ấy vừa đến. Anh ta đưa ống nghe cho Eđie và nói:
Anh có điện thoại đây đưa xong, anh ta bước lên cầu thang, lịch sự để bạn một mình nói chuyện trên điện thoại.
– A lô? – Eđđie nói trong máy.
– Có phải Edwarđ Deakin đấy không?
Eđie cảm thấy lo lo. Giọng nói lạ và không ai gọi anh bằng Edwarđ hết.
Anh đáp.
– Vâng, tôi là Eđđie Deakiil. Anh là ai?
– Đợi chút nhé, tôi chuyển điện thoại cho vợ anh đây Eđđie cảm thấy lòng thắt lại. Tại sao Carol-Ann gọi anh từ Hoa Kỳ nhỉ?
Chắc có chuyện gì xảy ra rồi.
Một lát sau, anh nghe giọng vợ anh trên máy.
– Eđdie đấy ư?
– Chào em yêu, có chuyện gì xay ra thế?
Chị bật khóc nức nở.
Vô số chuyên đáng sợ hiện ra trong óc anh:
nhà bị cháy, có người chết, chị gặp tai nạn bị thương, chị sẩy thai.
– Carol Ann, bình tĩnh đi em, em khỏe chú?
Chị vừa khóc vừa đáp.
– Em … không … bị thương.
Vậy thì chuyện gì? – Anh lo sợ hỏi. – Có chuyện gì xảy ra phải không? Nói cho anh biết đi, em yêu.
– Những người nàỵ …. đến nhà.
Eđdie cam thấy lạnh toát ca người.
– Người nào thế? Họ đến làm gì?
– Họ bắt em lên xe hơi.
– Lạy Chúa, họ là ai? – Anh giận đến nghẹt thở, phải cố sức thở mạnh.
Chúng có làm gì hại đến em không?
– Em bình an … nhưng, Eđđie, em sợ quá.
Anh nghẹn ngào. Anh muốn hỏi nhiều chuyện một lúc. Những người đàn ông đến nhà anh, bắt Carol-Ann lên xe:
Có chuyện gì xảy ra không? Cuối cùng anh thốt được nên lời.
– Tại sao chúng bắt em?.
– Họ không muốn nói với em.
– Chúng có nối gì với em không?.
– Eđdie, anh phải làm những chuyện, họ muốn, em chỉ biết có chừng ấy thôi:
Mặc dù rất bực tức và rất hoảng sợ nhưng Eđdie vẫn nhớ lời dạy của bố anh, ông đã nói:
Đừng bao giờ ký một ngân phiếu trắng, không ấn định số tiền.
Tuy nhiên, anh vẫn không ngần ngại đáp:
– Anh sẽ làm, nhưng chuyên gì?.
– Anh hứa nhé!
– Anh hứa.
– Thật ơn Chúa.
– Chuyên xảy ra khi nào?
– Cách đây hai giờ.
– Bây giờ em ở đâu?
Em đang ở trong một ngôi nhà không xa … Có tiếng hét làm gián đoạn câu nói của chị – Carol-Ann! Có chuyện gì thế? Em bình an chứ?
Không có tiếng trả lời. Tức giận, hoảng sợ và bất lực, Eđđie bóp chặt ống nghe đến nổi mấy khớp ngón tay trắng bệch.
Rồi giọng nói của gã đàn ông hồi nãy cất lên:
– Eđward, anh hãy nghe tôi nói cho kỹ đây.
– Không, chính anh mới nghe tôi, anh là đồ cặn bã của xã hội. Nếu anh làm hại đến cô ấy, tôi sẽ giết anh dấy. Tôi thề với Chúa chứng giám, tôi sẽ đuổi theo anh suốt đời, và khi tìm ra anh, đồ khố nạn, tôi sẽ bứt đầu anh ra, anh có nghe tôi nói không?
Bên kia đầu giây im lặng một lát như thể gã đàn ông đang nói không ngờ anh lại nói một hơi như thế.
Rồi gã nói tiếp:
– Đừng làm căng, anh ở xa đây lắm. – Anh có vẻ hơi dao động, nhưng hắn có lý:
Eđdie không thề làm gì được. Gã đàn ông nói tiếp. – Anh có bằng lòng nghe cho kỹ không?
Hết sức cố gắng, Eđdie không nói gì nữa.
– Anh sẽ nhận những công việc phải làm với một người ở trên máy bay, người ấy có tên là Tom Luther.
– Trên máy bay? Như thế này là thế nào? Anh chàng Tom Luther này là khách đi máy bay hay là gì? Eđđie hỏi:
– Nhưng anh muốn tôi làm gì?
– Anh hãy câm mồm lại. Luther sẽ nói cho anh biết, và nếu anh muốn gặp lại vợ anh, thì anh phải làm theo lệnh anh ta từng lời một.
– Nhưng làm sao tôi biết?.
– À, còn một việc nữa. Đừng báo cho cảnh sát biết. Báo cho cảnh sát là anh không được việc gì đâu.
– Nếu anh tiết lộ chuyện này với bất kỳ ai, tôi sẽ hiếp vợ anh ngay đấy.
– Đồ khốn nạn, tao sẽ …
Điện thoại cúp.