ANH HÙNG XẠ ĐIÊU

30. Nhất Đăng Đại Sư



Hai người theo đường núi đi về phía trước, không bao lâu đã tới cuối đường,
phía trước là một chiếc cầu đá rộng khoảng một thước bắc qua hai ngọn núi,
mây mù bao phủ, nhìn không thấy đầu bên kia. Nếu ở dưới đất thì một con
đường nhỏ rộng hơn thước chẳng đáng gì, nhưng chiếc cầu đá này thì bên
dưới là vực sâu, đừng nói là đi lại, chỉ nhìn xuống một cái cũng không khỏi tim
đập chân run. Hoàng Dung thở dài nói: -Vị Đoàn Hoàng gia này ở ẩn kín đáo
thật, dù ai có thù hận không đội trời chung với ông ta tới đây cũng đã bớt giận
một nửa.
Quách Tĩnh nói: -Tại sao người câu cá kia lại nói Đoàn Hoàng gia không còn
trên đời nữa? Thật khiến người ta không thể yên tâm.
Hoàng Dung nói: -Chuyện đó cũng quả khiến người ta không sao đoán được
xem dáng vẻ của y thì không giống như bịa đặt lại nói là sư phụ chúng ta từng
chính mắt nhìn thấy Đoàn Hoàng gia chết.
Quách Tĩnh nói: -Đã tới bước này thì chỉ còn tiến không còn lùi.
Rồi ngồi xổm xuống cõng Hoàng Dung lên, triển khai thuật khinh công đề tung
bước lên cầu đá.
Cầu đá lồi lõm không bằng phẳng lại thêm cả năm nằm giữa mây mù, trơn
trượt dị thường, càng đi chậm càng dễ ngã. Quách Tĩnh đề khí rảo chân chạy
mau, chạy được bảy tám trượng, Hoàng Dung kêu lên: -Cẩn thận, phía trước
gãy rồi.
Quách Tĩnh cũng đã thấy chiếc cầu đá đột nhiên gãy ở giữa, có một đoạn
khuyết dài khoảng bảy tám thước, lúc ấy càng chạy mau, mượn lực vọt tới phi
thân qua. Hoàng Dung trải qua nguy hiểm nhiều lần, đã sớm coi thường cái
chết, cười nói: -Tĩnh ca ca, ngươi bay không vững vàng bằng điêu nhi.
Đi một đoạn lại vọt qua một chỗ khuyết, qua bảy đoạn thì thấy phía núi đối
diện có một khoảng đất rộng, chợt nghe tiếng đọc sách sang sảng, đã tới chỗ
tận cùng của cầu đá, nhưng chỗ ấy lại có một đoạn khuyết cực dài, nhìn thấy
cũng phải hơn một trượng, đầu bị khuyết có một thư sinh ngồi xếp bằng, tay
cầm một quyển sách đang cao giọng đọc vang. Sau thư sinh kia lại có một
đoạn cầu khuyết ngắn.
Quách Tĩnh chỉ đi chứ không chạy, vừa đứng lại đã cảm thấy không biết làm
sao: -Nhảy qua chỗ này vốn không khó, chỉ là người thư sinh kia ngồi chắn chỗ
xung yếu, ngoài chỗ ấy thì không có chỗ nào đặt chân lấy đà được.
Lúc ấy bèn cao giọng nói: -Vãn bối cầu kiến tôn sư, làm phiền đại thúc dẫn
kiến.
Người thư sinh kia lắc đầu ngoẹo cổ đọc rất rành rọt dễ nghe, hoàn toàn
không nghe thấy Quách Tĩnh nói. Quách Tĩnh đề khí cao giọng nói lần nữa,
người thư sinh kia vẫn cứ lờ đi không nghe. Quách Tĩnh hạ giọng nói: -Dung
nhi, tính sao bây giờ?
Hoàng Dung nhướng mày không đáp. Nàng vừa thấy thế ngồi của người thư
sinh đã biết chuyện này hoàn toàn hết cách, trên chiếc cầu đá rộng khoảng
một thước mà động thủ là lập tức phân sống chết, cho dù Quách Tĩnh thắng
được nhưng chuyến này là tới nhờ người ta, làm sao có thể động thủ đả
thương họ?
Thấy người thư sinh kia hoàn toàn không đếm xỉa gì tới bất giác ngấm ngầm
tức giận mà nghe đoạn sách y đọc chẳng qua chỉ là một bộ Luận ngữ rất bình
thường, chỉ nghe y đọc:
Cuối mùa xuân, áo xuân đã may xong,
thành niên năm sáu người,
đồng tử sáu bảy người,
tắm ở sông Nghi, hóng gió ở Vũ Vu, ngâm vịnh mà về.
Đọc rất hào hứng, đọc một lần lại thở dài khen ngợi mấy lần, quả đúng như
đang giữa gió xuân chở ca chở múa, văn vẻ vô cùng.
Hoàng Dung nghĩ thầm: -Muốn y mở miệng chỉ có cách lên tiếng nói khích.
Liền cười nhạt một tiếng, nói: -Cho dù đọc Luận ngữ hàng ngàn lần mà không
hiểu được lời nhỏ nghĩa lớn của phu tử cũng uổng công thôi.
Người thư sinh ngạc nhiên ngừng đọc, ngẩng lên nói: -Thế nào là lời nhỏ
nghĩa lớn, xin được thỉnh giáo!
Hoàng Dung quan sát thấy y khoảng bốn mươi tuổi, đầu đội khăn tiêu dao, tay
cầm quạt tập điệp, dưới cằm có một chòm râu dài đen nhánh, đúng là dáng vẻ
một bậc thạc nho túc học, bèn cười nhạt nói: -Các hạ biết đệ tử Khổng môn có
tất cả bao nhiêu người không?
Người thư sinh cười nói: -Thế thì có gì khó? Đệ tử Khổng môn có ba ngàn
người, những kẻ thành đạt có bảy mươi hai người.
Hoàng Dung hỏi: -Trong bảy mươi hai người ấy có người già có người trẻ,
ngươi biết trong đó có bao nhiêu người thành niên, bao nhiêu người là đồng
tử không?
Người thư sinh ngạc nhiên nói: -Trong Luận ngữ chưa từng nói tới, kinh truyện
cũng không ghi chép.
Hoàng Dung nói: -Ta nói ngươi không hiểu rõ lời nhỏ ý lớn trong kinh sách quả
không sai mà. Mới rồi rõ ràng ngươi đọc Thành niên năm sáu người, đồng tử
sáu bảy người. Năm sáu ba mươi, thành niên là ba mươi người, sáu bảy bốn
hai, đồng tử là bốn mươi hai người, cộng lại thì không nhiều không ít vừa đúng
bảy mươi hai người. Xem loại người như ngươi đọc sách mà không suy nghĩ,
hà, thật đáng tiếc, thật đáng tiếc.
Thư sinh kia nghe nàng giải thích kinh sách khiên cưỡng như thế, bất giác
nghẹn cổ cười ngất, nhưng cũng thầm phục nàng thông minh cơ trí, cười nói:
-Tiểu cô nương quả nhiên đầy bụng thi thư, bội phục bội phục. Các ngươi
muốn gặp gia sư để làm gì vậy?
Hoàng Dung nghĩ thầm: -Nếu nói tới để xin chữa bệnh nhất định y sẽ tìm đủ
cách làm khó dễ, nhưng câu này lại không thể không trả lời, được rồi, y đang
đọc Luận ngữ, mình cứ vớ vài câu của Khổng phu tử hỏi vặn y.
Lúc ấy bèn nói: -Bậc thánh nhân, ta không thể được gặp vậy. Được gặp bậc
quân tử, có thể vậy. Có bạn từ phương xa tới, chẳng cũng vui sao?
Thư sinh ngẩng đầu cười lớn hồi lâu mới im, nói: -Hay lắm, hay lắm, ta đưa ra
ba câu hỏi thử tài ngươi, nếu trả lời được thì sẽ dẫn ngươi đi gặp sư phụ ta,
nếu có một câu không trả lời được thì mời hai vị theo đường cũ trở về.
Hoàng Dung nói: -Ái chà, ta chưa từng đọc nhiều sách vở, câu hỏi khó quá thì
ta không trả lời được đâu.
Thư sinh cười nói: -Không khó, không khó. Ở đây có một bài thơ chiết tự bốn
chữ nói về lai lịch xuất thân của tại hạ, ngươi đoán thử xem.
Hoàng Dung nói: -Được lắm, đoán sai cũng thú, xin đọc đi?
Thư sinh vuốt râu ngâm: -Lục kinh uẩn tạ hung trung cửu, Nhất kiếm thập
niên ma tại thủ …
(Sáu kinh học thuộc khi còn nhỏ, Một kiếm mười năm tay vẫn giữ …).
Hoàng Dung lè lưỡi nói: -Văn võ toàn tài, quả là không kém!
Thư sinh kia cười một tiếng ngâm tiếp: -Hạnh hoa đầu thượng nhất chi hoành,
Khủng tiết thiên cơ mạc lộ khẩu. Nhất điểm khẩn khẩn đại như đẩu, Yêm
khước bán sàng vô sớ hữu. Hoàn danh trực đắc quải quan quy, Bản lai diện
mục quân tri phủ?
(Trên đầu hoa hạnh một cành ngang, Giữ kín thiên cơ không nói lộ: Một chấm
rõ ràng lớn như đấu, Trống vắng nửa giường luống than thở. Thành danh bỏ
mũ cáo quan về, Lai lịch ra sao người đoán thử?).
Hoàng Dung nghĩ thầm: -Thành danh bỏ mũ cáo quan về Lai lịch ra sao người
đoán thử. Xem dáng vẻ của ngươi thì ắt là đại thần trong triều của Đoàn
Hoàng gia năm xưa, theo ông ta treo mũ từ quan rời triều về ẩn nơi rừng núi,
có gì khó đoán.
Bèn nói: -Chữ Lục thêm chữ Nhất và chữ Thập là chữ Tân. Chữ Hạnh trên
thêm một nét ngang, dưới bỏ chữ Khẩu là chữ Vị. Nửa chữ Sàng thêm chữ Đại
và một chấm là chữ Trạng. Chữ Hoàn bỏ cái mũ ở trên là chữ Nguyên. Tân vị
trạng nguyên, thất kính thất kính, té ra là Trạng nguyên gia khoa Tân vị.
Thư sinh chợt sửng sốt, vốn nghĩ lối đố chữ ấy rất khó đoán, cho dù đoán
đúng cũng phải mất nửa ngày, mà trên cái cầu hẹp thết này, thiếu niên kia võ
công có cao cường hơn e cũng khó đứng được lâu, muốn khiến hai người biết
khó mà lai, ngoan ngoãn trở về, nào ngờ Hoàng Dung lại như không nghĩ ngợi
gì, thuận miệng trả lời bất giác kinh ngạc vô cùng, nghĩ thầm cô gái nhỏ này
vốn thông minh tuyệt đỉnh, phải ra câu hỏi thật khó để làm khó, nhìn quanh
thấy ở ven núi có một rặng cau, cành lá đong đưa theo gió như vung quạt
múa, y là tài trạng nguyên, tức cảnh sinh tình, lúc ấy phe phẩy chiếc quạt nói:
-Ta có một vế đối, mời tiểu cô nương đối thử.
Hoàng Dung nói: -Làm câu đối không thú bằng đoán câu đố, nhưng thôi được,
nếu ta không đối xem ra ngươi cũng không cho bọn ta qua, ngươi ra vế đối đi.
Thư sinh vung quạt chỉ vào rặng cây cọ, nói: -Gió thổi cau lay, Phật ngàn tay
khua quạt tập điệp.
Vế trên của câu đối là tức cảnh, lại ngầm có ý đề cao mình.
Hoàng Dung nghĩ thầm: -Nếu mình chỉ đối bằng sự vật mà không mang nghĩa
song quan thì không thắng được.
Bèn đưa mắt nhìn quanh, chợt thấy trong khoảng đất phẳng trước mặt có một
ngôi chùa nhỏ, phía trước có một ao sen, lúc ấy sắp hết tháng bảy, trên núi
lạnh sớm, sen trong ao đã héo úa quá nửa, chợt động tâm cười nói: -Câu đối
thì có, chỉ sợ đắc tội với đại thúc nên không tiện nói ra.
Thư sinh nói: -Cứ nói không sao.
Hoàng Dung nói: -Ngươi không được giận đấy.
Thư sinh nói: -Tự nhiên là không giận.
Hoàng Dung chỉ vào chiếc khăn tiêu dao trên đầu y nói: -Được, câu đối của ta
là sương sa sen héo, quỷ một cẳng đội khăn tiêu dao.
Câu đối vừa nói ra, thư sinh hô hô cười rộ, nói: -Hay lắm, hay lắm, không
những đối rất chỉnh mà còn rất mẫn tiệp.
Quách Tĩnh thấy trên cuống sen mang một chiếc lá héo úa, quả nhiên rất
giống con quỷ một chân đội chiếc khăn tiêu dao, cũng không kìm được bật
cười. Hoàng Dung cười nói: -Đừng cười, đừng cười, ngã xuống một cái là
chúng ta thành hai con quỷ không đội khăn tiêu dao đấy.
Thư sinh nghĩ thầm: -Câu đối tầm thường nhất định không làm khó được cô
ta, mình cứ ra câu đối thật khó.
Đột nhiên nghĩ tới lúc trẻ đi học, thầy dạy từng nói ra một câu đối rất khó, mấy
mươi năm nay không có ai đối được thật chỉnh, biết đâu có thể làm khó nàng
một phen, lúc ấy liền nói: -Ta còn có một vế đối xin tiểu cô nương đối: Cầm sắt
tỳ bà, tám đại vương thảy bày diện mạo.
Hoàng Dung nghe xong, trong lòng cả mừng: -Trong bốn chữ cầm sắt tỳ bà có
tất cả tám chữ vương, vốn là vô cùng khó đối, chỉ tiếc đây là một câu đối cũ
chứ không phải do ngươi nghĩ ra. Năm trước cha trên đảo Đào Hoa nhàn rỗi vô
sự đã đối qua rồi. Mình cứ làm ra vẻ khó khăn, để y đợi một lúc.
Liền cau mày làm ra vẻ nhăn nhó khổ sở. Thư sinh thấy làm khó được nàng, vô
cùng đắc ý nhưng chỉ sợ Hoàng Dung hỏi ngược lại y, bèn nói trước: -Câu đối
này vốn rất khó, ta cũng không đối được thật chỉnh. Có điều chúng ta đã nói
từ đầu, nếu tiểu cô nương không đối lại được, thì chỉ có cách mời về thôi.
Hoàng Dung cười nói: -Nếu nói phải đối vế đối này thì có gì là khó, chỉ sợ vế
mới rồi đắc tội với đại thúc, bây giờ vế này lại đắc tội với cả bốn vị Ngư Tiều
Canh Độc nên không nói ra được.
Thư sinh không tin, nghĩ thầm: -Ngươi mà đối được đã là thiên nan vạn nan,
há lại có thể nhân dịp này chọc ghẹo cả bốn anh em ta à?
Liền nói: -Chỉ cần đối cho chỉnh, chuyện cười cợt có gì đáng ngại?
Hoàng Dung cười nói: -Nếu đã như thế thì ta xin lỗi trước, xin đối lại thế này:
Ly mỵ võng lượng, bốn tiểu quỷ đều có ruột gan.
Thư sinh cả kinh đứng bật dậy vung tay áo một cái vái Hoàng Dung một vái,
nói: -Tại hạ bái phục.
Hoàng Dung đáp lễ, cười nói: -Nếu không phải các vị đều dùng tâm cơ cản trở
bọn ta lên núi thì vế đối này quả thật cũng khó mà nghĩ ra.
Nguyên năm xưa lúc Hoàng Dược Sư làm vế đối này thì Trần Huyền Phong,
Khúc Linh Phong, Lục Thừa Phong, Mã Mặc Phong bốn đệ tử đang đứng hầu
bên cạnh, y bèn lấy bốn chữ ấy để chọc ghẹo bốn người. Lúc ấy Hoàng Dung
còn chưa ra đời, về sau nghe cha kể lại, hôm nay lại dùng đó để chỉ bốn người
Ngư Tiều Canh Độc.
Thư sinh hừ một tiếng, quay người nhảy qua chỗ khuyết của chiếc cầu, nói: –
Mời.
Quách Tĩnh đứng yên nghe hai người so tài văn chương, chỉ sợ có câu nào
Hoàng Dung không đáp được thì công lao trước đây kể như bỏ hết, nhìn thấy
người thư sinh nhường đường, trong lòng cả mừng, lập tức đề khí nhảy tới,
điểm chân xuống chỗ người thư sinh vừa ngồi, lại nhảy qua chỗ khuyết cuối
cùng.
Thư sinh thấy y cõng Hoàng Dung vượt chỗ hiểm như đi trên đất bằng cũng
thầm thán phục: -Mình tự phụ là văn võ song toàn, nhưng thật ra văn thì
không bằng tiểu cô nương này, võ thì không bằng thiếu niên này, xấu hổ ơi là
xấu hổ.
Bên nghiêng mắt nhìn lại Hoàng Dung lần nữa, chỉ thấy nàng nghênh ngang
đắc ý, nghĩ cô gái nhỏ này thắng được một vị trạng nguyên túc học nên không
giấu được sự đắc ý nghĩ thầm: -Mình cứ chọc ghẹo một phen để cô ta đừng
đắc ý quá.
Lúc ấy bèn nói: -Cô nương văn tài tuy cao, nhưng hành động thì có chỗ kém.
Hoàng Dung nói: -Xin thỉnh giáo.
Người thư sinh nói: -Trong sách Mạnh tử có câu: Nam nữ thụ thụ bất thân, đó
là lễ vậy. Xem ra cô nương là một vị khuê nữ, lại hoàn toàn không phải là vợ
chồng với tiểu ca này, tại sao lại để y cõng? Mạnh phu tử chỉ nói khi chị dâu
chết đuối thì em chồng mới có thể nắm tay kéo lên. Cô nương đã không rơi
xuống nước, lại không phải là chị dâu của tiểu ca đây mà ôm ôm ấp ấp, quả
thật rất trái với lễ giáo.
Hoàng Dung nghĩ thầm: -Hừ, Tĩnh ca ca có tốt với mình hơn, người khác cũng
biết y không phải là chồng mình. Lục Thừa Phong Lục sư ca nói thế, vị trạng
nguyên này lại cũng nói thế.
Lập tức chẩu môi một cái nói: -Mạnh phu tử rất thích ăn nói bậy bạ, lời nói của
y làm sao tin được.
Thư sinh tức giận nói: -Mạnh phu tử là bậc đại thánh đại hiền, tại sao lại
không tin được lời ông?
Hoàng Dung cười hề hề nói: -Khất cái làm sao hai vợ được? Láng giềng liệu có
mấy con gà? Đương thời thiên tử nhà Chu đó, Tề Ngụy sao lòng vẫn thiết tha.
Thư sinh càng nghĩ càng thấy đúng, ngẩn ra hồi lâu không đáp được.
Nguyên bài thơ ấy là của Hoàng Dược Sư làm, y chê bai Thang Vũ, coi thường
Chu Khổng, đối với những lời thánh hiền truyền lại lúc rảnh rỗi lại bài bác mỉa
mai, từng làm không ít thơ ca từ phú chế nhạo Khổng Mạnh. Sách Mạnh tử có
chuyện nói người nước Tề có hai vợ mà đi xin cơm thừa canh cặn, lại nói có
người mỗi ngày ăn cắp một con gà của người láng giềng, y bèn nói hai chuyện
ấy là để lừa người. Hai câu cuối của bài thơ trên là nói vào thời Chiến quốc
thiên tử nhà Chu vẫn còn, tại sao Mạnh tử không phụ tá vương thất mà lại đi
gặp Lương Huệ vương, Tề Tuyên vương để cầu làm quan? Chuyện đó không
khỏi có chỗ trái hẳn với đạo lý thánh hiền.
Thư sinh nghĩ thầm: -Chuyện người nước Tề và chuyên trộm gà nguyên là ví
dụ, không đáng để nói, nhưng hai câu sau cùng chỉ sợ dựng Mạnh phu tử
dưới đất lên thì ông cũng khó mà tự biện hộ.
Lại nhìn Hoàng Dung một cái, nghĩ thầm: -Còn nhỏ mà sao đã khôn ngoan quỷ
quái như thế?
Lúc ấy không nói gì nữa, đưa hai người đi thẳng vào. Lúc đi qua ao sen, nhìn
thấy lá sen dưới hồ, không kìm được lại nhìn Hoàng Dung một cái. Hoàng
Dung phì cười một tiếng, quay đầu qua chỗ khác.
Thư sinh kia dẫn hai người vào chùa, mời hai người ngồi ở phòng phía đông,
tiểu sa di bưng trà lên. Thư sinh nói: -Hai vị tạm đợi một lúc, đợi ta vào bẩm
với gia sư.
Quách Tĩnh nói: -Khoan đã? Vị đại thúc cày ruộng kia đứng ở mép núi đỡ tảng
đá lớn, không thoát thân được, xin đại thúc cứu y trước đã.
Thư sinh kia giật nảy mình, phi thân vọt đi.
Hoàng Dung nói: -Có thể mở cái túi màu vàng ra rồi.
Quách Tĩnh nói: -À, nếu cô không nói thì ta đã quên mất!
Vội lấy cái túi vàng xé ra, chỉ thấy trong có một tờ giấy không có chữ mà vẽ
một bức tranh, trên tranh vẽ một người nước Thiên Trúc ăn mặc như lối vương
giả đang dùng dao cắt thịt trên ngực mình, đã cắt hết thịt trên thân thể, máu
tươi ròng ròng. Trước mặt y là một cái cân, một bên đĩa cân có một con bồ câu
đậu, bên kia thì chất một đống thịt của y cắt ra, con bồ câu tuy nhỏ nhưng
nặng hơn đống thịt rất nhiều. Cạnh cái cân có một chim ưng đứng, dáng vẻ
hung ác. Bút pháp trên bức tranh này rất kém cỏi, Hoàng Dung nghĩ thầm: –
Bà Anh Cô này vốn chưa từng học hội họa, chữ viết cũng không kém chứ bức
tranh này thì như trẻ con bôi bác ra.
Nhìn suốt nửa ngày chẳng hiểu ý tứ trong bức tranh là thế nào. Quách Tĩnh
thấy nàng càng đoán càng không ra thì mình chẳng cần gì phải hao tốn tâm
tư, bèn nhặt bức tranh lên cuốn lại, nắm trong bàn tay.
Chợt nghe trên điện có tiếng bước chân, người nông phu tức giận thở hồng
hộc, vịn vai thư sinh từ ngoài bước vào trong, chắc y bị tảng đá lớn đè quá lâu,
mệt tới mức gân cốt rã rời. Khoảng sau thời gian uống cạn một chén trà, một
chú tiểu sa di chạy vào, hai tay chắp lại làm lễ, nói: -Hai vị từ xa tới đây, không
biết có việc gì?
Quách Tĩnh nói: -Đặc biệt tới cầu kiến Đoàn Hoàng gia, xin thông báo giùm
cho.
Chú tiểu sa di chắp tay nói: -Đoàn Hoàng gia đã sớm không còn trên đời, làm
hai vị phải vất vả một chuyến uổng công. Xin mời dùng cơm chay. Rồi tiểu
tăng sẽ cung kính tiễn chân xuống núi.
Quách Tĩnh vô cùng thất vọng, nghĩ thầm trăm cay ngàn đắng mới tới đây
được mà chỉ được nghe một câu trả lời như thế, vậy thì làm sao là hay. Nhưng
Hoàng Dung nhìn thấy chùa miếu đã đoán được ba phần, lúc ấy nhìn thần sắc
của chú tiểu sa di lại đoán được năm sáu phần, bèn đón lấy bức tranh trong
tay Quách Tĩnh nói: -Đệ tử là Quách Tĩnh, Hoàng Dung cầu kiến. Xin tôn sư
nghĩ tới tình nghĩa cố nhân với Cửu chỉ thần cái và Hoàng đảo chủ đảo Đào
Hoa mà cho gặp mặt một lần. Tờ giấy này xin làm phiền trình lại với tôn sư.
Chú tiểu sa di đón lấy bức tranh, không dám mở ra xem, chắp tay vái một vái
rồi quay người vào trong.
Lần này không bao lâu y đã trở ra, cúi đầu chắp tay nói: -Kính mời hai vị.
Quách Tĩnh cả mừng, đỡ Hoàng Dung theo y vào trong. Ngôi chùa này tuy
nhìn thì thấy nhỏ nhưng bên trong lại rất sâu. Ba người đi qua một đường nhỏ
lát đá xanh, lại xuyên qua một khu rừng trúc, chỉ thấy lá xanh um tùm, vô
cùng u nhã, khiến người ta quên hết mọi nỗi phiền muộn. Trong rừng trúc có
ba gian thạch thất, chú tiểu sa di nhè nhẹ đẩy cửa phòng, đứng tránh qua
một bên, khom lưng mời hai người bước vào.
Quách Tĩnh thấy chú tiểu sa di cung kính có lễ rất có hảo cảm với y, nhìn y
cười khẽ tỏ ý cảm tạ rồi cùng Hoàng Dung sóng vai bước vào, chỉ thấy trong
phòng có một lò hương đặt trên bàn nhỏ, trên mấy tấm bồ đoàn bên cạnh có
mấy nhà sư ngồi. Một người da dẻ đen bóng, mũi cao mắt sâu, rõ ràng là
người Thiên Trúc. Một người khác mặc tăng bào bằng vải thô, hai hàng lông mi
dài che rũ xuống khóe mắt, mặt mũi hiền từ, trong mắt thấp thoáng vẻ sầu
khổ nhưng lại lập tức ánh lên nét tinh anh, chỉ nhìn một cái là biết. Người thư
sinh và người nông phu đứng hầu sau lưng y.
Lúc ấy Hoàng Dung đã không còn hoài nghi, khẽ kéo tay Quách Tĩnh một cái,
bước tới trước mặt nhà sư ông mi dài, khom người vái lạy nói: -Đệ tử là Quách
Tĩnh, Hoàng Dung tham kiến sư bá.
Quách Tĩnh trong lòng rất ngạc nhiên, nhưng lúc ấy cũng không còn thời giờ
nghĩ ngợi, lập tức lạy rạp xuống đất theo nàng, dập đầu bình bình bốn cái.
Nhà sư lông mi dài cười khẽ một tiếng đứng dậy đưa tay đỡ hai người lên, cười
nói: -Thất huynh thu được đệ tử giỏi, Dược huynh sinh được con gái giỏi lắm.
Nghe họ nói lại.
Rồi chỉ vào người nông phu và người thư sinh: -Hai vị văn tài võ nghệ đều vượt
xa bọn đồ đệ của ta, hà hà, đáng mừng đáng vui.
Quách Tĩnh nghe lời y nói, nghĩ thầm: -Lời lẽ này thì rõ ràng là Đoàn Hoàng gia
rồi, chỉ là một vị hoàng đế sờ sờ ra đó, tại sao lại trở thành hòa thượng? Tại
sao họ nói y đã không còn trên đời? Thật khiến người ta leo lên tượng Kim
cương cao một trượng hai mò mãi không thấy đầu đâu. Mà sao Dung nhi lại
biết y chính là Đoàn Hoàng gia?
Chỉ nghe nhà sư kia lại nhìn Hoàng Dung nói: -Cha và sư phụ ngươi đều khỏe
chứ? Nhớ năm xưa lúc tỷ võ luận kiếm với cha ngươi trên ngọn Hoa sơn thì y
còn chưa cưới vợ, không ngờ một lần chia tay đã hai mươi năm, lại sinh được
một đứa con gái xinh đẹp thế này. Ngươi còn có anh chị em nào không? Ông
ngoại ngươi là vị anh hùng tiền bối nào vậy?
Hoàng Dung mi mắt đỏ hoe, nói: -Mẹ con chỉ sinh được một mình con, bà đã
sớm qua đời rồi, ông ngoại là ai con cũng không biết.
Nhà sư kia nói: -A.
Rồi vỗ nhẹ vào vai nàng một cái an ủi, lại nói: -Ta đã nhập định ba ngày ba
đêm, vừa mới tỉnh lại, các ngươi tới đã lâu chưa?
Hoàng Dung nghĩ thầm: -Xem thần sắc y có vẻ rất mừng khi gặp bọn mình,
vậy thì việc cản trở không cho bọn mình lên núi suốt dọc đường đều là chủ ý
của đệ tử y.
Lúc ấy bèn đáp: -Đệ tử cũng vừa mới tới. May là được mấy vị đại thúc tìm mọi
cách cản lại trên đường, nếu không thì đã tới sớm rồi, Đoàn sư bá nhập định
chưa tỉnh lại thì cũng chẳng làm gì.
Nhà sư ha hả cười nói: -Họ sợ ta gặp nhiều người ngoài. Thật ra các ngươi đâu
phải là người ngoài? Tiểu cô nương mồm mép lanh lợi, nhất định là gia học
uyên nguyên. Đoàn Hoàng gia đã sớm không còn ở trên đời rồi. Bây giờ ta tên
là hòa thượng Nhất Đăng. Sư phụ ngươi chính mắt thấy ta quy y tam bảo,
nhưng cha ngươi e còn chưa biết.
Quách Tĩnh lúc ấy mới sực hiểu ra: -Té ra Đoàn Hoàng gia cắt tóc làm hòa
thượng, người xuất gia không còn là người thế tục, nên đệ tử của ông ta nói
Đoàn Hoàng gia đã sớm không còn trên đời, sư phụ mình chính mắt nhìn thấy
ông ta xuống tóc làm sư, nếu sai bọn mình tới tìm ông ta thì tự nhiên sẽ không
nói là đi gặp Đoàn Hoàng gia mà nhất định sẽ nói là đi gặp Nhất Đăng đại sư.
Dung nhi thật thông minh, vừa gặp ông ta đã đoán ra ngay.
Chợt nghe Hoàng Dung nói: -Cha con hoàn toàn không biết. Sư phụ cũng
chưa nói cho đệ tử biết.
Nhất Đăng cười nói: -Phải rồi, miệng sư phụ ngươi thì vào nhiều ra ít, ăn nhiều
nói ít, nhất định y sẽ không nói việc của lão hòa thượng cho người ta biết. Các
ngươi từ xa tới vất vả đã dùng qua cơm chay chưa? ủa …
Nói tới đó đột nhiên giật nảy mình, nắm tay Hoàng Dung bước ra ngoài cửa để
ánh nắng chiếu vào mắt nàng, nhìn kỹ một lúc, càng nhìn càng có vẻ kinh
ngạc. Quách Tĩnh cho dù ngu ngốc cũng nhìn thấy Nhất Đăng đại sư đã phát
giác ra Hoàng Dung đang bị trọng thương, trong lòng đau xót, đột nhiên quỳ
hai gối xuống hướng về y dập đầu lia lịa. Nhất Đăng đại sư đưa tay đỡ cánh
tay y một cái, Quách Tĩnh chỉ cảm thấy một luồng đại lực nâng người y lên,
không dám vận kình chống cự, nương theo luồng kình lực từ từ đứng lên, nói:
-Xin đại sư cứu mạng cho nàng!
Nhất Đăng mới rồi nâng một cái, nửa có ý bảo y không cần đa lễ, nửa có ý thử
xem công lực của y, cái nâng ấy dùng tới năm thành công lực, nếu thấy y
chống lại không được sẽ lập tức thu kình, quyết không đến nỗi hất y ngã
ngửa, nếu y không động sẽ gia tăng kình lực, chỉ trong một cái đỡ là có thể
biết được công phu của đối phương sâu nông thế nào, nào ngờ Quách tĩnh lại
thuận thế đứng lên, tự nhiên nhi nhiên hóa giải mất luồng kình lực của mình,
cái nâng ấy không động chạm gì được tới y khiến Nhất Đăng giật nảy mình,
nghĩ thầm: -Thất huynh thu được đồ đệ giỏi lắm, chẳng trách bọn đồ đệ của
mình cam bái hạ phong.
Lúc ấy Quách Tĩnh nói một câu: -Xin đại sư cứu mạng cho nàng!
Vừa dứt, đột nhiên chân đứng không vững, thân hình không tự chủ được chúi
lên trước một bước, vội vận kình đứng lại, nhưng đã tâm phù khí đục, mặt mũi
đỏ bừng, trong lòng cả kinh: -Hậu kình của Nhất Đăng đại sư dài thật? Mình
chỉ cho rằng đã hóa giải được, nào ngờ ông ta mượn lực đả lực, kình phát tới
tuy đã bị hóa giải nhưng qua một lúc thì lực của mình chống lại lực đẩy tới lúc
nãy, nếu thật sự động thủ thì mạng mình còn gì? Đông tà Tây độc, Nam đế
Bắc cái quả thật danh bất hư truyền Lúc ấy khâm phục sát đất, trong lòng
nghĩ thế nào trên mặt hiện ra thế ấy.
Nhất Đăng thấy trong ánh mắt y lộ ra vẻ vừa ngạc nhiên vừa khâm phục, bèn
đưa tay khẽ vỗ vai y cười nói: -Luyện được tới mức như ngươi cũng đã không
dễ đâu.
Lúc ấy tay y nắm Hoàng Dung vẫn chưa buông ra, vừa quay đầu lại, vẻ tươi
cười lập tức thu hết lại, hạ giọng nói: -Hài tử, ngươi đừng sợ, cứ yên tâm đi.
Rồi đỡ nàng ngồi xuống tấm bồ đoàn. Hoàng Dung trước nay chưa từng được
ai đối xử dịu dàng như thế, cha nàng tuy thương yêu con nhưng lời nói việc
làm cổ quái, lúc bình thời ở chung với nhau vẫn coi nàng như một người bạn
tốt ngang hàng, tình cha con vẫn giấu kín trong lòng, lúc ấy nghe mấy câu dịu
dàng ấm áp của Nhất Đăng lại như chợt gặp được người mẹ mà nàng chưa
từng thấy mặt, từ khi bị thương đến nay vẫn cắn răng nhịn đau, đến lúc ấy
không kìm được nữa, òa một tiếng bật lên khóc lớn. Nhất Đăng đại sư dịu
dàng an ủi: -Hài tử ngoan, đừng khóc đừng khóc? Trên người ngươi đau, bá
bá nhất định sẽ chữa lành cho mà.
Nào ngờ y càng thân tình Hoàng Dung càng thêm cảm động, càng khóc dữ
hơn, sau cùng thì nức nở sụt sùi không sao nín được.
Quách Tĩnh nghe y ưng thuận chữa thương, trong lòng cả mừng, vừa quay
đầu nhìn chợt thấy người thư sinh và người nông phu hai mắt lồi ra đầy vẻ tức
giận đang trừng trừng nhìn mình, lập tức trong lòng cảm thấy xấu hổ: -Bọn
mình tới đây toàn nhờ Dung nhi dùng mưu kế, chẳng trách gì họ nổi giận. Chỉ
là không biết vì sao Nhất Đăng đại sư từ hòa như thế, mà đệ tử của ông lại
nhất định cản trở.
Chợt nghe Nhất Đăng đại sư nói: -Hài tử, ngươi bị thương thế nào, tìm được
tới đây thế nào, thong thả kể cho bá bá nghe.
Lúc ấy Hoàng Dung sụt sịt kể lại việc ngộ nhận Cừu Thiên Nhận là Cừu Thiên
Trượng thế nào, bị y song chưởng đánh trúng thế nào. Nhất Đăng nghe nói tới
tên Thiết chưởng Cừu Thiên Nhận hơi cau cau mày, nhưng lại lập tức ung
dung nghe tiếp. Lúc Hoàng Dung trò chuyện vẫn lưu tâm xem xét thần sắc
của Nhất Đăng đại sư, tuy y chỉ khẽ cau mày nhưng cũng không thoát được
mắt nàng, tới đoạn gặp Anh Cô trong ao tối ở rừng sâu, bà ta chỉ điểm tới đây
cầu kiến thế nào, thì vẻ mặt Nhất Đăng đại sư trong chớp mắt sa sầm, tựa hồ
nhớ lại một chuyện đau lòng đã qua. Hoàng Dung lập tức im bặt, qua hồi lâu
Nhất Đăng đại sư thở dài một tiếng, hỏi: -Về sau thế nào?
Hoàng Dung tiếp tục kể chuyện Ngư Tiều Canh Độc làm khó thế nào, người
tiều phu khinh dị cho họ qua thì đem sự thật khen ngợi y mấy câu, còn ba
người kia thì thêm mắm dặm muối tố cáo một lượt, làm hai người thư sinh và
nông phu càng đầy vẻ tức giận. Quách Tĩnh mấy lần chen vào: -Dung nhi
đừng nói quá, vị đại thúc này không có gì là hung dữ cả.
Nhưng nàng cứ nũng nịu với Nhất Đăng đại sư, phóng đại thêu dệt khiến hai
người đệ tử đứng sau lưng Nhất Đăng nghe thấy mặt cứ lúc đỏ lúc xanh,
nhưng vì trước mặt sư phụ nên không dám nói chen vào một câu.
Nhất Đăng đại sư liên tiếp gật đầu, nói: -Hừ, đối đãi với khách từ xa tới mà lại
thế à? Mấy đứa nhỏ này đối với bạn bè thật vô lễ quá, để ta bảo họ xin lỗi các
ngươi mới được.
Hoàng Dung trợn mắt nhìn người thư sinh và người nông phu một cái, vô cùng
đắc ý, miệng vẫn không ngừng, nói tới đoạn làm sao tiến vào cửa miếu “Về
sau con đưa bức tranh này cho y xem, y bảo con vào họ mới không ngăn chặn
chúng con nữa.
Nhất Đăng ngạc nhiên nói: -Bức tranh nào?
Hoàng Dung nói: -Chính là bức tranh con chim ưng, con bồ câu với hình người
cắt thịt đấy.
Nhất Đăng nói: -Ngươi đưa cho ai?
Hoàng Dung còn chưa trả lời, người thư sinh đã rút trong bọc ra, hai tay đưa
lên, nói: -Ở chỗ đệ tử. Mới rồi sư phụ nhập định chưa tỉnh nên vẫn chưa trình
sư phụ xem qua.
Nhất Đăng đưa tay đón lấy, nhìn Hoàng Dung cười nói: -Ngươi xem đấy, nếu
ngươi không nói thì ta cũng chẳng được xem đâu.
Rồi từ từ mở bức tranh ra, vừa nhìn qua đã biết ý trong bức tranh, cười nói: –
Té ra người ta sợ ta không chịu cứu ngươi nên vẽ bức tranh này để khích,
chẳng phải là coi thường lão hòa thượng sao?
Hoàng Dung quay qua nhìn, thấy vẻ mặt của người thư sinh và người nông
phu có vẻ rất lo lắng, trong lòng vô cùng ngờ vực: -Tại sao họ nghe sư phụ
ưng thuận chữa thương cho mình lại như là muốn lấy mạng họ thế, chẳng lẽ
thuốc chữa thương là linh đan chí bảo, không dứt tình được à?
Khi quay đầu lại thấy Nhất Đăng đang nhìn kỹ bức tranh, kế cầm ra dưới ánh
nắng nhìn xuyên qua tờ giấy khẽ búng mấy cái, mặt đầy vẻ nghi ngờ, nói với
Hoàng Dung: -Đây là Anh Cô vẽ à?
Hoàng Dung nói: -Phải đấy.
Nhất Đăng trầm ngâm hồi lâu lại hỏi: -Ngươi chính mắt nhìn thấy bà ta vẽ à?
Hoàng Dung biết bên trong ắt có sự rắc rối, nhớ lại tình cảnh lúc bấy giờ, bèn
nói: -Lúc Anh Cô vẽ thì quay lưng lại chúng con, con chỉ thấy quản bút của bà
ta di động chứ không thấy bà ta vẽ.
Nhất Đăng nói: -Ngươi nói còn có hai cái túi vải thư thiếp trong túi đâu, lấy ra
cho ta xem.
Quách Tĩnh lấy ra đưa lên, Nhất Đăng nhìn thấy thoáng biến sắc hạ giọng nói:
-Quả đúng như thế.
Y đưa ba trang thư thiếp cho Hoàng Dung, nói: -Dược huynh là danh gia về
thư họa, ngươi gia học uyên nguyên, nhất định biết rõ cách thưởng thức, vậy
cứ xem ba trang thư thiếp này có gì khác nhau?
Hoàng Dung đón lấy nhìn qua một lượt, nói: -Hai trang thư thiếp này chỉ là
giấy Ngọc bản bình thường, nhưng tờ giấy vẽ bức tranh là giấy Cựu kiến,
trước nay rất ít thấy.
Nhất Đăng đại sư gật đầu nói: -Ờ, chuyện thư họa thì ta không biết, ngươi
thấy công lực trên bức tranh thế nào?
Hoàng Dung nhìn kỹ mấy lượt, cười nói: -Bá bá còn làm ra vẻ không biết nữa!
Người đã sớm nhận ra bức tranh này không phải là Anh Cô vẽ rồi.
Nhất Đăng hơi biến sắc, nói: -Có đúng là không phải bà ta vẽ không? Ta chỉ
dựa vào sự lý mà suy đoán chứ không phải là nhìn được từ bức tranh.
Hoàng Dung kéo tay y nói: -Bá bá người xem đây, nét chữ trên hai trang thư
thiếp thì mềm mại tươi đẹp, còn bút pháp trên bức tranh thì vô cùng gầy guộc
cứng cáp, ờ bức tranh này là đàn ông vẽ, đúng rồi, nhất định là thủ bút của
đàn ông, người này hoàn toàn không có công phu học vấn gì về thư họa, tất
cả những gì về mảng khối, xa gần đều không biết, nhưng bút lực mạnh mẽ có
kình, xuyên cả ra sau tờ giấy.., màu mực này cũng đã rất cũ rồi, con thấy còn
lớn tuổi hơn cả con kia.
Nhất Đăng đại sư thở dài một tiếng, chỉ một bộ kinh trên bàn ra hiệu cho
người thư sinh cầm lại. Người thư sinh cầm lấy bước qua đưa cho sư phụ.
Hoàng Dung thấy trên mảnh giấy vàng dán ở bìa sách có hai hàng chữ “Đại
trang nghiêm luận kinh. Mã Minh Bồ tát viết. Tây Vực Quy Tư Tam tạng Cưu
Ma La Thập dịch.
Nghĩ thầm: -Ông ta mà giảng kinh thì một câu mình cũng không hiểu.
Nhất Đăng giở kinh ra, đặt bức tranh vào giữa, nói: -Ngươi xem đi.
Hoàng Dung khẽ a một tiếng, nói: -Chất giấy như nhau.
Nhất Đăng gật gật đầu. Quách Tĩnh không hiểu, hạ giọng hỏi: -Thế nào là chất
giấy như nhau?
Hoàng Dung nói: -Ngươi so sánh cho kỹ loại giấy trên quyển kinh này chẳng
phải là hoàn toàn giống như loại giấy vẽ bức tranh sao?
Quách Tĩnh nhìn kỹ quả thấy giấy trong kinh văn dày chắc, có một sợi chỉ vàng
bên trong, không khác gì tờ giấy vẽ bức tranh, bèn hỏi: -Đúng là một loại rồi,
nhưng là thế nào?
Hoàng Dung không đáp, đưa mắt nhìn Nhất Đăng đại sư, chờ y giải thích.
Nhất Đăng đại sư nói: -Bộ kinh thư này là sư đệ ta đem từ Tây Vực qua tặng
ta.
Quách Hoàng hai người sau khi trò chuyện với Nhất Đăng đại sư chưa từng để
ý tới nhà sư Thiên Trúc, lúc ấy cùng quay nhìn y một cái, chỉ thấy y ngồi xếp
bằng trên tấm bồ đoàn, đối với lời trò chuyện của khách như không nghe thấy
gì. Nhất Đăng lại nói: -Bộ kinh này là viết trên giấy Tây Vực, bức tranh này
cũng là giấy Tây Vực. Ngươi đã nghe qua núi Bạch Đà ở Tây Vực chưa?
Hoàng Dung hoảng sợ nói: -Tây độc Âu Dương Phong à?
Nhất Đăng thong thả gật đầu, nói: -Không sai, bức họa này chính là Âu Dương
Phong vẽ.
Vừa nghe câu ấy, Quách Tĩnh, Hoàng Dung đều giật nảy mình, nhất thời
không nói ra lời.
Nhất Đăng mỉm cười nói: -Vị Âu Dương cư sĩ này suy nghĩ sâu sắc, quả thật
rất lo xa.
Hoàng Dung nói: -Bá bá, con không biết bức tranh này là Lão Độc vật vẽ
nhưng nhất định y không có ý tốt.
Nhất Đăng cười khẽ nói: -Một bộ cửu âm chân kinh cũng cho là lớn.
Hoàng Dung nói: -Bức họa này có liên quan với Cửu âm chân kinh à?
Nhất Đăng thấy sau khi nàng kinh ngạc phấn hứng, trên trán hiện màu hồng,
quả thật đã cố gắng vô cùng, chỉ là gắng gượng vận nội công chi trì, lúc ấy
đưa tay đỡ vai phải nàng, nói: -Chuyện đó sau này sẽ nói, trước hết chữa
thương cho ngươi là chuyện quan trọng nhất. Lúc ấy bèn dìu nàng thong thả
bước qua sương phòng bên cạnh, vừa vào tới cửa, người thư sinh và người
nông phu đột nhiên đưa mắt nhìn nhau sấn tới trước cửa, cùng quỳ xuống nói:
-Sư phụ, để đệ tử chữa thương cho vị cô nương này.
Nhất Đăng lắc đầu nói: -Các ngươi đủ công lực không? Có thể chữa khỏi
không?
Người thư sinh và người nông phu nói: -Đệ tử cố gắng thử xem.
Nhất Đăng đại sư thoáng sầm mặt, nói: -Mạng người là việc lớn, há có thể dễ
dàng đem thử à?
Người thư sinh nói: -Hai người này được kẻ gian chỉ dẫn tới đây, quyết không
có ý tốt. Sư phụ tuy ôm lòng từ bi, nhưng không thể để trúng kế kẻ gian.
Nhất Đăng đại sư thở dài một tiếng nói: -Ta hàng ngày vẫn dạy dỗ các ngươi
những gì? Ngươi đem bức tranh này mà ngắm cho kỹ đi.
Nói xong đưa bức tranh cho y.
Người nông phu dập đầu nói: -Bức tranh này do Tây độc vẽ, sư phụ, là độc kế
của Âu Dương Phong đấy, nói tới đoạn cuối, dáng vẻ hoảng sợ, nước mắt đầy
mặt.
Quách Hoàng hai ngươi vô cùng khó hiểu: -Chữa thương trị bệnh thì có quan
hệ gì lớn đến thế?
Nhất Đăng đại sư hạ giọng nói: -Đứng lên đi, đứng lên đi, đừng để khách
không yên lòng. Ngữ điệu của y tuy bình hòa, nhưng ngữ khí thì rất kiên
quyết.
Hai người đệ tử biết không sao khuyên được, đành cúi đầu đứng yên. Nhất
Đăng đại sư đỡ Hoàng Dung vào phòng, vẫy tay gọi Quách Tĩnh: -Ngươi lại
đây.
Quách Tĩnh bước vào phòng. Nhất Đăng buông tấm rèm trúc che cửa xuống,
đốt một vòng hướng, cắm vào chiếc lò trên bàn.
Trong phòng bốn vách quang quẽ, ngoài một chiếc ghế trúc chỉ có ba tấm bồ
đoàn dưới đất. Nhất Đăng bảo Hoàng Dung ngồi lên tấm bồ đoàn ở giữa rồi
ngồi xuống tấm bồ đoàn bên cạnh, nhìn ra ngoài rèm một cái nói với Quách
Tĩnh: -Ngươi canh chừng ngoài cửa, đừng cho ai bước vào, cho dù là đệ tử
của ta cũng không cho vào Quách Tĩnh vâng dạ. Nhất Đăng mắt đang nhắm
đột nhiên mở ra nói: -Nếu họ muốn xông bừa vào ngươi cứ tùy tiện động võ.
Đây là chuyện quan hệ tới tính mạng của sư muội ngươi, phải cẩn thận đấy,
phải cẩn thận đấy.
Quách Tĩnh nói: -Dạ!
Trong lòng càng không hiểu được “Đệ tử của ông ta rất kính sợ ông ta, sao lại
dám chống lời thầy xông bừa vào đây?”
Nhất Đăng nhìn qua Hoàng Dung nói: -Ngươi buông lỏng toàn thân, bất kể là
đau đớn khó chịu thế nào, ngàn vạn lần cũng không được vận khí chống cự.
Hoàng Dung cười nói: -Con đã tính là mình chết rồi.
Nhất Đăng cười một, tiếng, nói: -Con nhóc này thông minh lắm.
Rồi lập tức nhắm mắt nhập định vận công, khi vòng hương cháy được một tấc
đột nhiên nhảy vọt lên, chưởng trái đập vào bụng, ngón trỏ tay phải vung ra
từ từ điểm tới huyệt Bách hội trên đỉnh đầu nàng. Hoàng Dung thân hình
không tự chủ được hơi giật lên một cái, chỉ cảm thấy một luồng nhiệt khí từ
đỉnh đầu xông thẳng xuống.
Nhất Đăng đại sư một chỉ vừa điểm ra xong lập tức rút lại, chỉ thấy thân hình y
chưa động, chỉ thứ hai lại điểm vào huyệt Hậu đỉnh cách huyệt Bách hội một
tấc rưỡi, kế đó lần lượt điểm vào một dãy huyệt Cường gian, Não hộ, Phong
phủ, Đại chuỳ, Đào đạo, Thần trụ, Thần đạo, Linh đài, vòng hương cháy hết
một nửa thì đã điểm hết ba mươi sáu đại huyệt trên Đốc mạch của nàng.
Quách Tĩnh lúc ấy võ công cùng kiến thức đều đã khác hẳn ngày trước, đứng
bên cạnh thấy y ngón tay co duỗi như ý, cánh tay thu về tiêu sái phóng dật,
điểm ba mươi sáu đại huyệt lại dùng ba mươi sáu thủ pháp khác nhau, chiêu
nào cũng có lề lối trong ngoài, đều có khí độ, Giang Nam lục quái cố nhiên
chưa từng dạy qua, mà Điểm huyệt thiên trong Cửu âm chân kinh cũng không
có chép, đúng là thấy điều chưa từng thấy, nghe việc chưa từng nghe, chỉ
thấy hoa cả mắt, há miệng líu lưỡi cho rằng Nhất Đăng đang phô trương võ
công thượng thặng, nào ngờ y đang đem công lực một đời đả thông kỳ kinh
bát mạch trên toàn thân Hoàng Dung.
Điểm xong Đốc mạch, Nhất Đăng ngồi xuống nghỉ ngơi, đợi Quách Tĩnh đổi
vòng hương khác, lại nhảy lên điểm vào hai mươi lăm đại huyệt trong Nhâm
mạch của Hoàng Dung, lần này toàn dùng thủ pháp mau lẹ, chỉ thấy cánh tay
y rung lên như chuồn chuồn điểm nước, chưa xong một hơi thở đã điểm xong
các huyệt trên Nhâm mạch, hai mươi lăm chiêu này tuy mau như điện, nhưng
chỗ điểm tới thì không hề sai chạy. Quách Tĩnh vô cùng kinh ngạc khâm phục,
tự nhủ: -A, trên đời còn có loại công phu này!
Đến khi điểm mười bốn huyệt thuộc mạch âm duy thủ pháp lại khác hẳn, chỉ
thấy y đi như rồng bước như cọp, thần oai lẫm liệt, tuy mặc áo cà sa nhưng
trong con mắt Quách Tĩnh thì đây đâu phải là một nhà sư quy y Tam bảo mà
chính là một vị hoàng đế cai trị muôn dân. Điểm xong mạch âm duy, Nhất
Đăng đại sư không nghỉ ngơi, điểm luôn ba mươi hai huyệt trên mạch Dương
duy, lần này thì đứng từ xa điểm tới, thân hình y đứng cách Hoàng Dung ngoài
một trượng, trong chớp mắt sấn vào điểm vào huyệt Phong trì trên cổ nàng,
vừa điểm trúng thân hình đã lùi ra, mau lẹ khôn tả.
Quách Tĩnh nghĩ thầm: -Lúc giao đấu với bậc cao thủ, vào gần rất nguy hiểm,
nếu dùng thủ pháp này thì có thể vừa khắc địch vừa giữ thân, quả thật là
chiêu thuật kỳ diệu vô thường. Ngưng thần nhìn Nhất Đăng lui tới xoay
chuyển, sấn vào điểm huyệt cố nhiên là thần diệu nhưng khó nhất chính là chỗ
vừa ra đòn đã lùi ngay, như cá nhảy thỏ chạy, vô cùng linh động, chợt nghĩ lúc
Anh Cô chiết chiêu với mình thân pháp vô cùng mau lẹ, so với lối điểm huyệt
ba mươi sáu phép này của đại sư thì tựa hồ theo học với đại sư, nhưng cao
thấp thì chênh lệch nhau quá nhiều.
Lại thay hai vòng hương nữa, Nhất Đăng đại sư đã điểm xong hai mạch âm
kiều, Dương kiều cho Hoàng Dung, lúc điểm tới huyệt Cự cốt trên đầu vai,
Quách Tĩnh đột nhiên trong lòng rúng động: -A, Cửu âm chân kinh há chẳng
có sao? Chỉ có thằng ngốc như mình nảy giờ mới không nghĩ ra.
Bèn thầm đọc lại kinh văn, chỉ thấy Nhất Đăng đại sư ra chiêu thu thế rõ ràng
rất phù hợp với kinh văn, nhưng kinh văn chỉ nói tới yếu chỉ mà phép điểm
huyệt của Nhất Đăng đại sư lại biến hóa vô cùng. Nhất Đăng đại sư lúc ấy như
hiện thân thuyết pháp, dùng võ thuật thần diệu giảng giải rất nhiều điều bí áo
trong Cửu âm chân kinh. Quách Tĩnh còn chưa được ưng thuận nên không
dám học chỉ pháp Nhất dương chỉ của y, nhưng về diệu chỉ trong chân kinh thì
ngộ ra được rất nhiều điều.
Sau cùng điểm xong Đới mạch, lập tức đại công cáo thành, bảy mạch trong kỳ
kinh đều đã trên dưới thông suốt, Đới mạch lại chạy vòng khắp người, xuyên
qua tất cả như đai lưng, nên gọi là Đới mạch. Lần này Nhất Đăng đại sư quay
lưng về phía Hoàng Dung, đi giật lùi lại, lật tay phóng chỉ, thong thả điểm vào
huyệt Chương môn của nàng. Đới mạch tổng cộng có tám huyệt, Nhất Đăng
ra tay rất chậm, tựa hồ điểm rất khó khăn, miệng thở hổn hển, thân hình lắc
lư lảo đảo có vẻ như không chi trì nổi. Quách Tĩnh giật nảy mình, thấy trên
trán Nhất Đăng mồ hôi ròng ròng, trên hàng mi dài mồ hôi đọng lại rơi xuống
như mưa, muốn bước tới đỡ nhưng lại sợ hỏng việc, nhìn tới Hoàng Dung thì
thấy nàng y phục toàn thân cũng ướt đẫm mồ hôi, nhường mày cắn môi chắc
đã hết sức nhịn đau.
Chợt nghe soạt một tiếng, tấm rèm trúc sau lưng cuốn lên, một người gọi lớn:
-Sư phụ?
Sấn thẳng vào trong. Quách Tĩnh trong lòng còn chưa kịp suy nghĩ đã ra một
chiêu Thần long bãi vĩ, chưởng phải vung ra phía sau, chát một tiếng đánh
trúng đầu vai người kia, kế đó quay lại chỉ thấy một người lão đảo loạng
choạng lùi lại hai bước, chính là người câu cá. Y bị cướp mất thuyền sắt, mái
chèo sắt, không sao ngược dòng suối lên núi, chỉ đành đi vòng từ dưới lên,
hơn hai mươi dặm từ lưng núi vòng lên trên. Đến lúc tới nơi nghe sư phụ đã
chữa thương cho vị cô nương kia lập tức xông vào đánh liều mạng cản trở,
không ngờ bị Quách Tĩnh một chiêu đẩy lùi, đang muốn sấn tới, người tiều
phu, ngươi nông phu, người thư sinh đều đã tới ngoài cửa.
Người thư sinh tức giận nói: -Xong rồi, còn cản trở gì nữa.
Quách Tĩnh quay lại chỉ thấy Nhất Đăng đại sư đã ngồi xếp bằng trên tấm bồ
đoàn, sắc mặt trắng bệch, tăng bào ướt đẫm, Hoàng Dung thì đã ngã lăn ra
không hề động đậy, Quách Tĩnh cả kinh vội bước qua đỡ lên, đầu tiên ngửi
thấy mùi máu tanh, lúc nhìn tới mặt nàng thì trong màu trắng có nét xanh,
không có chút huyết sắc nào, nhưng làn hắc khí thấp thoáng trước nay đã
hoàn toàn tan biến, đưa tay sờ lên mũi nàng thấy hơi thở trầm ổn, lúc ấy đã
yên tâm được quá nửa.
Bốn đệ tử Ngư Tiều Canh Độc ngồi chung quanh sư phụ không nói câu nào, vẻ
mặt đều rất lo lắng.
Quách Tĩnh nhưng thần nhìn Hoàng Dung, thấy mặt nàng dần dần hồng hào
trở lại, trong lòng càng mừng rỡ, nào ngờ màu hồng càng lúc càng dày, cuối
cùng thì mặt đỏ như lửa, lại qua một lúc, mồ hôi trên trán ứa ra, sắc mặt lại
dần dần từ hồng chuyển thành trắng. Như thế thay đổi ba lần, mồ hôi toát ra
ba lần, Hoàng Dung rên lên một tiếng, mở hai mắt ra nói: -Tĩnh ca ca, lò lửa
à? Ô, băng lạnh à?
Quách Tĩnh nghe nàng trò chuyện, vô cùng mừng rỡ, run lên nói: -Cái gì mà lò
lửa với băng?
Hoàng Dung nhìn quanh, lắc lắc đầu cười nói: -À, ta gặp cơn ác mộng, nằm
mơ thấy Âu Dương Phong, Âu Dương Khắc, Cừu Thiên Nhận, họ kéo ta lên lò
lửa để đốt, lại nhấn ta vào băng, đến lúc ta lạnh lại đem lên đốt, ờ, đúng là
đáng sợ. ủa, bá bá thế nào rồi?
Nhất Đăng từ từ mở mắt, cười nói: -Thương thế của ngươi tốt rồi, nghỉ ngơi
một vài ngày, đừng đi lại nhiều quá, thì không việc gì đâu.
Hoàng Dung nói: -Con toàn thân không có chút khí lực nào, ngón tay cũng
lười không muốn động đậy.
Người nông phu trợn mắt tức giận trừng nàng một cái. Hoàng Dung không
đếm xỉa gì tới, nói với Nhất Đăng: -Bá bá, người tiêu hao rất nhiều công lực
như thế để chữa thương cho con, nhất định rất mệt mỏi, con có Cửu hoa ngọc
lộ hoàn chế theo bí phương của gia gia đây, người uống mấy viên có nên
chăng?
Nhất Đăng mừng rỡ nói: -Hay lắm, không ngờ ngươi lại có mang diệu dược bổ
thần kiện thể ấy. Năm xưa luận kiếm ở Hoa sơn, mọi người đánh nhau tới mức
còn khí không lực, cha ngươi từng chia cho mỗi người uống một viên, quả
nhiên linh nghiệm vô cùng.
Quách Tĩnh vội lấy cái bao đựng thuốc trong bọc Hoàng Dung ra trình cho
Nhất Đăng.
Người tiều phu xuống bếp bưng lên một bát nước lạnh, người thư sinh trút hết
dược hoàn trong bao ra tay, đưa qua sư phụ. Nhất Đăng cười nói: -Cần gì
nhiều như thế? Loại dược hoàn này điều chế không dễ, chúng ta lấy một nửa
thôi.
Người thư sinh vội nói: -sư phụ, cho dù đem tất cả linh đan diệu dược trên đời
tới cũng không đủ đâu.
Nhất Đăng không cãi với y, tự cảm thấy nội lực hao kiệt, lúc ấy uống hết mấy
mươi viên Cửu hoa ngọc lộ hoàn trong tay y, chiêu một hớp nước, nhìn Quách
Tĩnh nói: -Đỡ sư muội ngươi vào trong nghỉ hai ngày, lúc xuống núi không cần
tới gặp ta. Ờ, có một việc các ngươi phải đáp ứng ta.
Quách Tĩnh lạy phục xuống, đùng đùng đùng đùng dập đầu bốn cái. Hoàng
Dung lúc bình thường đối với người ta hay có vẻ cười cợt, cho dù là cha hay
sư phụ trước mặt cũng không hề giữ quy củ tiểu bối, lúc ấy lại hướng về Nhất
Đăng lạy rạp xuống, hạ giọng nói: -Cái ơn cứu mạng của bá bá, điệt nữ không
bao giờ dám quên.
Nhất Đăng mỉm cười nói: -Cứ chớp mắt là quên đi cũng được để khỏi vướng
víu trong lòng.
Rồi quay lại nói với Quách Tĩnh: -Tình hình lần này các ngươi lên núi không cần
nói lại với người ngoài, cho dù đối với sư phụ ngươi cũng không nên nói tới.
Quách Tĩnh đang tính toán làm sao để đưa Hồng Thất công tới xin chữa
thương, nghe câu ấy không kìm được ngạc nhiên, không nói nên lời.
Nhất Đăng mỉm cười nói: -Trở về sau các ngươi đừng tới đây nữa, mọi người
chúng ta trong ngày đều phải dọn nhà.
Quách Tĩnh vội nói: -Dọn đi đâu?
Nhất Đăng mỉm cười không đáp. Hoàng Dung nghĩ thầm: -Ngốc ca ca, họ là vì
chỗ này đã bị chúng ta phát hiện ra, nên muốn dọn đi, làm sao có thể nói cho
ngươi?
Nghĩ tới thầy trò Nhất Đăng ở đây một phen kinh doanh tân khổ, vì mình làm
cho liên lụy, phải bỏ lại tất cả, lại càng vô cùng áy náy, nghĩ ơn đức này chỉ e
trọn đời không thể báo đáp, cũng không trách được bốn người Ngư Tiều Canh
Độc muốn hết sức cản trở mình lên núi, nghĩ tới đó đưa mắt nhìn bốn đệ tử
một cái, muốn nói mấy câu xin lỗi họ. Nhất Đăng đại sư đột nhiên biến sắc,
thân hình loạng choạng, lại ngã sấp xuống đất.
Bốn đệ tử và Quách Hoàng cả kinh thất sắc, đồng thời sấn tới đỡ lên, chỉ thấy
y da mặt giật giật, tựa hồ hết sức nhịn đau. Sáu người trong lòng hoảng sợ
buông tay đứng hầu, không dám lên tiếng. Qua thời gian uống cạn một chén
trà, Nhất Đăng hơi lộ nét cười, nói với Hoàng Dung: -Hài tử, cửu hoa ngọc lộ
hoàn là cha ngươi đích thân điều chế phải không?
Hoàng Dung nói: -Không sai, là sư ca Lục Thừa Phong theo bí phương của gia
gia chế ra.
Nhất Đăng nói: -Ngươi từng nghe cha ngươi nói loại dược hoàn này uống vào
quá nhiều có hại không?
Hoàng Dung cả kinh nghĩ thầm: -Chẳng lẽ Cửu hoa ngọc lộ hoàn lại có chỗ
nào không ổn?
Vội nói: -Cha từng nói uống càng nhiều càng tốt, chỉ là điều chế không dễ, ông
cũng không dám uống nhiều.
Nhất Đăng trầm ngâm hồi lâu, lắc đầu nói: -Cha ngươi thần cơ diệu toán,
người ta không thể đoán được, thì ta làm sao mà đoán được? Chẳng lẽ y muốn
trừng trị Lục sư huynh của ngươi, nên cấp cho y một bí phương giả? Lại chẳng
lẽ Lục sư huynh có thù oán với ngươi, trong bao thuốc này lại trộn thêm một
viên thuốc độc.
Mọi người nghe tới hai chữ thuốc độc, cùng bật tiếng la hoảng. Người thư sinh
nói: -Sư phụ, người trúng độc à?
Nhất Đăng cười nói: -Có sư thúc của ngươi ở đây, có thuốc độc lợi hại hơn
cũng không giết người được đâu.
Bốn đệ tử tức giận không kìm được, nhìn Hoàng Dung nói: -Sư phụ ta có ý tốt
cứu ngươi, ngươi lại dám dùng thuốc độc hại người à?
Bốn người bao vây chung quanh Quách Tĩnh và Hoàng Dung, lập tức muốn
động thủ.
Biến cố xảy ra bất ngờ, Quách Tĩnh giật mình luống cuống, không biết làm sao
là tốt. Hoàng Dung nghe Nhất Đăng hỏi câu thứ nhất là biết Cửu hoa ngọc lộ
hoàn gây họa, trong chớp mắt đã tra xét lại hết một lượt đầu đuôi việc nhận
Cửu hoa ngọc lộ hoàn ở Quy Vân trang, trong lòng lập tức hiểu rõ, kêu lên: –
Bá bá, con biết rồi, là Anh Cô.
Nhất Đăng nói: -Lại là Anh Cô à?
Hoàng Dung bèn đem tĩnh trạng hôm trong lều tranh ở đầm tối kể lại một lượt.
Rồi nói: -Bà ta cứ dặn đi dặn lại là con ngàn vạn lần không được uống thuốc
này, tự nhiên là vì bà ta đã cho thêm một viên thuốc độc có hình dáng tương
tự vào.
Người nông phu cao giọng quát: -Hừ, bà ta đối xử với ngươi tốt lắm, nên sợ
hại chết ngươi.
Hoàng Dung nghĩ lại Nhất Đăng uống thuốc độc, trong lòng vô cùng khó xử,
lại không có lòng dạ nào mà cãi cọ với y, chỉ hạ giọng nói: -Không phải là sợ
hại chết ta, chỉ sợ là ta uống thuốc độc rồi thì không hại được bá bá thôi.
Nhất Đăng thở dài nói: -Nghiệt chướng, nghiệt chướng!
Sắc mặt lập tức chuyển thành từ hòa, nói với hai người Quách Hoàng: -Đây là
số phận của ta phải gặp kiếp nạn này, không có liên quan gì tới các ngươi, cho
dù là Anh Cô thì cũng chỉ là một đoạn nhân quả trước đây. Các ngươi đi nghỉ
ngơi vài hôm rồi thong thả xuống núi là được. Tuy ta trúng độc nhưng sư đệ ta
là thánh thủ trị độc, không cần lo lắng.
Nói xong nhắm mắt ngồi im, không nói gì nữa.
Quách Hoàng hai người khom lưng lạy rạp xuống, chỉ thấy Nhất Đăng đại sư
mặt đầy vẻ tươi cười khẽ xua tay, hai người không dám ở lại lâu, từ từ xoay
người bước ra. Chú tiểu sa di chờ ở ngoài cửa, đưa hai người vào một gian
phòng nhỏ ở hậu viện nghỉ ngơi. Trong phòng hoàn toàn không bày biện gì,
chỉ đặt hai chiếc giường tre, một chiếc bàn tre.
Không bao lâu có hai hòa thượng già bưng cơm chay tới, nói: -Mời dùng cơm.
Hoàng Dung lo lắng cho Nhất Đăng, hỏi: -Đại sư khỏe không?
Một lão hòa thượng eo éo nói: -Tiểu tăng không biết.
Rồi khom người vái lạy, lui ra khỏi phòng. Quách Tĩnh nói: -Nghe hai người này
nói ta còn cho rằng là nữ nhân.
Hoàng Dung nói: -Là thái giám, nhất định là những người đã hầu hạ Đoàn
hoàng gia trước đây trước kia.
Quách Tĩnh a một tiếng, hai người tâm sự đầy lòng, lòng dạ nào mà ăn cơm
nổi.
Trong thiền viện không khí yên tĩnh, bên ngoài không có tiếng động nào, ngẫu
nhiên gió nhẹ thoảng tới lá trúc xào xạc thành tiếng, qua hồi lâu Quách Tĩnh
nói: -Dung nhi, võ công của Nhất Đăng đại sư thật cao cường.
Hoàng Dung ờ một tiếng. Quách tĩnh lại nói: -Sư phụ chúng ta, cha cô, Chu
đại ca, Âu Dương Phong, Cừu Thiên Nhận năm người võ công có cao hơn cũng
chưa chắc thắng được Nhất Đăng đại sư.
Hoàng Dung nói: -Ngươi nói trong sáu người ấy ai có thể xứng đáng là Thiên
hạ đệ nhất?
Quách Tĩnh trầm ngâm hồi lâu rồi nói: -Ta thấy người nào cũng có thành tựu
riêng, quả thật rất khó phân cao thấp. Người này thì giỏi môn này, người khác
thì giỏi môn khác.
Hoàng Dung nói: -Nếu nói văn võ toàn tài, bác học đa năng thì sao?
Quách Tĩnh nói: -Thì tự nhiên phải tôn cha cô đứng đầu.
Hoàng Dung vô cùng đắc ý tươi cười như hoa, đột nhiên thở dài một tiếng nói:
-Vì vậy mới là kỳ lạ.
Quách Tĩnh vội hỏi: -Cái gì kỳ lạ?
Hoàng Dung nói: -Ngươi nghĩ xem Nhất Đăng đại sư bản lĩnh cao cường thế
nào, Ngư Tiều Canh Độc bốn đệ tử đều không phải là bọn tầm thường, tại sao
lại run run sợ sợ núp ở chỗ núi sâu thế này? Tại sao nghe có người tới thăm lại
sợ hãi như gặp tai họa lớn như thế? Trong sáu cao thủ trên đời hiện nay, chỉ có
Tây độc và Cừu Thiết chưởng có thể còn là người đối đầu với ông ta, hai người
ấy đều có danh tiếng, chẳng lẽ lại bất kể thân phận, liên thủ tìm tới làm khó
ông ta sao?
Quách Tĩnh nói: -Dung nhi, cho dù Âu Dương Phong và Cừu Thiên Nhận liên
thủ tới tầm cừu thì hiện chúng ta cũng không sợ.
Hoàng Dung nói: -Tại sao?
Quách Tĩnh trên mặt hiện ra vẻ ngại ngùng, cảm thấy không tiện nói. Hoàng
Dung cười nói: -A! Tại sao lại cảm thấy khó xử?
Quách Tĩnh nói: -Nhất Đăng đại sư võ công quyết không dưới Tây độc, ít nhất
có thể đánh ngang tay. Ta thấy thủ pháp lật tay điểm huyệt của ông ta là khắc
tinh của Cáp mô công.
Hoàng Dung nói: -Vậy còn Cừu Thiên Nhận? Ngư Tiều Canh Độc bốn người
cũng không phải là đối thủ của y.
Quách Tĩnh nói: -Không sai, lúc trên Quân sơn ở hồ Động Đình và trên núi
Thiết Chưởng, ta đều từng đối chưởng với y một lần, nếu là đánh nhau, thì
trong vòng năm mươi chiêu còn có thể ngang tay với y, nhưng sau một trăm
chiêu thì quá nửa là không thể chống nổi. Hôm nay ta thấy thủ pháp điểm
huyệt của Nhất Đăng đại sư lúc trị thương cho cô …
Hoàng Dung cả mừng, cướp lời nói: -Ngươi đã học được rồi phải không? Ngươi
có thể thắng được lão Cừu Thiết chưởng chết giẫm ấy chứ gì?
Quách Tĩnh nói: -Cô biết ta tư chất ngu độn, công phu điểm huyệt ấy lại tinh
thâm vô cùng, làm sao có thể học được, chứ. Huống chi đại sư không nói dạy
cho ta, ta tự nhiên không thể học. Có điều nhìn thấy thủ pháp của đại sư thì
lại hiểu thêm một ít những điều vốn không hiểu rõ trong Cửu âm chân kinh.
Muốn hơn Cừu Thiết chưởng thì không thể, nhưng muốn kéo dài thời khắc của
y thì chắc được.
Hoàng Dung thở dài nói: -Đáng tiếc, ta quên mất một chuyện.
Quách Tĩnh nói: -Chuyện gì?
Hoàng Dung nói: -Đại sư trúng độc, không biết lúc nào thì khỏe lại.
Quách Tĩnh im lặng, qua một lúc căm hờn nói: -Bà Anh Cô tàn độc thật.
Đột nhiên kêu la: -A, không xong rồi.
Hoàng Dung giật nảy mình, nói: -Cái gì thế?
Quách Tĩnh nói: -Cô từng ưng thuận với Anh Cô là sau khi khỏi thương sẽ ở với
bà ta một năm, cái hẹn ấy có giữ hay không?
Hoàng Dung nói: -Ngươi nói nên thế nào?
Quách Tĩnh nói: -Nếu không có bà ta chỉ điểm, chúng ta còn không thể tìm tới
được Nhất Đăng đại sư, thương thế của cô cũng khó mà nói …
Hoàng Dung nói: -Cái gì mà khó nói? Cứ nói thẳng là cái mạng nhỏ của ta nhất
định không giữ được. Ngươi là đại trượng phu, lời nói như núi, nhất định bắt
ta phải giữ lời hứa.
Nàng nghĩ tới việc Quách Tĩnh không chịu phản bội từ bỏ hôn ước với Hoa
Tranh, không kìm được buồn bã cúi đầu xuống.
Về tâm sự đàn bà con gái, Quách Tĩnh quả thật không hiểu được chút nào,
Hoàng Dung đã ứa nước mắt sắp khóc, y vẫn ngu ngu ngốc ngốc không biết
gì, chỉ nói: -Anh Cô nói cha cô thần cơ diệu toán, hơn bà ta gấp trăm lần, cho
dù cô chịu truyền thụ cái học thuật số, thì rốt lại cũng không bằng được một
chút của cha cô, vậy thì tại sao lại đòi cô làm bạn với bà ta một năm?
Hoàng Dung quay mặt không đếm xỉa gì tới. Quách Tĩnh vẫn chưa biết, lại nói
thêm một câu. Hoàng Dung tức giận nói: -Ngươi là đồ ngốc, chẳng biết cái gì
cả.
Quách Tĩnh không biết tại sao nàng đột nhiên nổi giận, bị nàng mắng cho
không hiểu gì cả, chỉ nói: -Dung nhi! Ta vốn là đồ ngốc thì mới cần cô nói chứ!
Hoàng Dung buột miệng mắng người, vốn vô cùng hối hận, nghe y chịu nhũn
như thế, lại không nhịn được, phục vào lòng y khóc òa lên. Quách Tĩnh càng
không hiểu được, chỉ nhẹ nhàng vỗ vai nàng an ủi.
Hoàng Dung kéo áo Quách Tĩnh lau nước mắt, cười nói: -Tĩnh ca ca, là ta
không tốt, lần sau nhất định ta không mắng ngươi nữa.
Quách Tĩnh nói: -Thì ta vốn là đồ ngốc, cô nói như thế có sao đâu?
Hoàng Dung nói: -Ờ, ngươi là người tốt, ta là cô nương xấu. Ta nói với ngươi,
bà Anh Cô kia có thù hận với cha ta, vốn định nghiên cứu võ công thuật số để
tới đảo Đào Hoa tìm cha ta trả thù, về sau thấy thuật số không bằng ta, võ
công không bằng ngươi, biết không còn cách nào báo thù nên nghĩ cách đè
nén ta để dụ cha ta lại cứu. Đó là để đổi khách làm chủ, bà ta có thể bày độc
kế để hại ông.
Quách Tĩnh giật mình hiểu ra, vỗ đùi một cái nói: -A, không hề sai, cái hẹn kia
không cần phải giữ nữa.
Hoàng Dung nói: -Tại sao không giữ? Đương nhiên phải giữ chứ.
Quách Tĩnh nói: -Ủa!
Hoàng Dung nói: -Người đàn bà này vô cùng lợi hại, xem việc bà ta trộn thêm
một viên thuốc độc vào Cửu hoa ngọc lộ hoàn để hại Nhất Đăng đại sư thì có
thể hiểu được. Người đàn bà này mà không trừ đi tương lai sẽ trở thành tai
họa lớn cho cha ta. Bà ta muốn ta làm bạn thì ta làm bạn với bà ta, bây giờ đã
có đề phòng quyết sẽ không mắc lừa bà ta nữa, bất kể bà ta có âm mưu độc
kế gì ta cũng có thể nhận ra.
Quách Tĩnh nói: -Ờ, nhưng thế cũng như làm bạn với một con cọp.
Hoàng Dung đang định trả lời, chợt nghe ở thiền phòng bên ngoài vang vào
mấy tiếng la hoảng.
Hai người nhìn nhau một cái, ngưng thần lắng nghe, tiếng la hoảng lập tức im
bặt. Quách Tĩnh nói: -Không biết đại sư có việc gì không?
Hoàng Dung lắc lắc đầu. Quách tĩnh lại nói: -Cô ăn cơm đi. Rồi nghỉ ngơi một
lúc.
Hoàng Dung vẫn lắc đầu, chợt nói: -Có người tới!
Quả nhiên nghe thấy tiếng bước chân mấy người vang lên, từ ngoài viện đi
vào, một người căm giận nói: -Con nha đầu quỷ kế đa đoan, cứ giết y thị
trước.
Nghe thanh âm thì là người nông phu. Quách Hoàng hai người giật nảy mình,
lại nghe giọng người tiều phu nói: -Không được làm bậy, phải hỏi rõ trước đã.
Người nông phu nói: -Còn hỏi gì nữa? Hai đứa tiểu tặc này ắt là do kẻ đối đầu
của sư phụ sai tới. Chúng ta cứ giết một đứa giữ một đứa. Muốn hỏi thì hỏi
thằng tiểu tử ngốc kia cũng được.
Nói tới đó, bốn người Ngư Tiều Canh Độc đã tới ngoài cửa.
Họ đứng giữ chặt ngoài cửa, trò chuyện cũng không sợ Quách Hoàng hai
người nghe.
Quách Tĩnh không chần chừ, một chiêu Kháng long hữu hối đánh vào vách
phía sau, chỉ nghe bùng bùng một tiếng vang lên, nửa bức vách đất lập tức đổ
xuống. Y khom xuống cõng Hoàng Dung lên, nhảy ra chỗ tường vỡ, người
đang trên không, người nông phu xuất thủ như gió, phóng tráo chụp vào chân
trái y.
Hoàng Dung tay trái khẽ vung ra, phất vào huyệt Dương trì trên mu bàn tay
người nông phu, đây là Lan hoa phất huyệt thủ gia truyền của nàng, tuy sau
khi bị thương không có sức, nhưng cái phất ấy khinh minh mau lẹ nhận huyệt
rất chuẩn, cũng không phải tầm thường. Người nông phu hiểu rõ công phu
điểm huyệt, nhìn thấy ngón tay nàng phất tới như điện, giật nảy mình vội rút
tay lại đỡ, huyệt đạo chưa bị quét phất trúng, nhưng đòn tới đã chậm mất một
chút, Quách Tĩnh đã cõng Hoàng Dung vọt ra sau tường.
Y chỉ chạy được vài bước, kêu khổ một tiếng, nguyên là phía sau thiền viện là
gai góc cao bằng đầu người, ken dày chằng chịt, gai góc tua tủa, quả thật
không có đường nào chạy được, quay đầu lại thấy Ngư Tiều Canh Độc bốn
người dàn hàng chữ nhất đứng chặn trước mặt. Quách Tĩnh cao giọng nói: –
Tôn sư sai bọn ta xuống núi, các vị đã chính tai nghe thấy, tại sao lại dám trái
lệnh cản trở?
Người tiều phu trừng mắt nhìn, giọng nói như sấm trả lời: -Sư phụ ta lòng dạ
từ bi, cam tâm xả thân cứu mạng, ngươi …
Quách Hoàng hai người hoảng sợ nói: -Tại sao lại xả thân cứu mạng?
Ngư Tiều Canh Độc đồng thời phì một tiếng, người thư sinh cười nhạt nói: –
Thương thế của cô nương là sư phụ ta xả thân để cứu chẳng lẽ các ngươi quả
thật không biết?
Quách Hoàng đồng thanh hỏi: -Quả thật là không biết, xin nói rõ hơn.
Người thư sinh thấy vẻ mặt hai người rất thành khẩn, không phải là giả, bèn
nhìn người tiều phu một cái người tiều phu gật gật đầu, người thư sinh nói: –
Cô nương bị nội thương rất nặng, phải dùng Nhất dương chỉ và Tiên thiên
công đả thông các đại huyệt trong kỳ kinh bát mạch mới có thể trị thương cứu
bệnh. Từ khi Trùng Dương chân nhân phái Toàn Chân tiên du, trên đời chỉ có
sư phụ ta biết được cả hai môn thần công Nhất dương chỉ và Tiên thiên công.
Nhưng dùng loại công phu này chữa thương cho người thì nguyên khí của
mình bị hao tổn rất nhiều, trong vòng năm năm mất hết võ công.
Hoàng Dung a một tiếng, trong lòng vừa cảm động vừa xấu hổ.
Người thư sinh nói: -Trong năm năm sau đó hàng ngày đều phải chuyên cần
khổ luyện, chỉ cần hơi có sơ suất thì không những không phục hồi được võ
công mà còn nhẹ thì phát bệnh, nặng thì mất mạng. Sư phụ ta đối xử với
ngươi như thế, tại sao ngươi táng tận lương tâm, lấy oán báo ơn?
Hoàng Dung phục xuống đất, hướng về thiền phòng chỗ Nhất Đăng đại sư ở
lạy bốn lạy, nghẹn ngào nói: -Cái ơn cứu mạng của bá bá, quả thật con không
biết là sâu dày như thế.
Ngư Tiều Canh Độc thấy nàng lạy phục xuống, vẻ mặt hơi dịu đi. Người câu cá
hỏi: -Cha ngươi sai ngươi tới ám toán sư phụ ta hay ngươi không tự biết?
Hoàng Dung tức giận nói: -Tại sao cha ta lại sai ta tới ám toán bá bá? Cha ta
đảo chủ đảo Đào Hoa là nhân vật thế nào? Há lại làm việc hèn hạ vô sỉ như
thế?
Người đánh cá vái dài một vái nói: -Nếu không phải do lệnh tôn sai khiến thì tại
hạ lời lẽ có chỗ mạo phạm, xin cô nương thứ tội.
Hoàng Dung nói: -Hừ, câu ấy mà để cha ta nghe được thì cho dù ngươi là cao
đồ của Nhất Đăng đại sư cũng phải nếm mùi đau khổ đấy.
Người câu cá nhếch mép cười nói: -Lệnh tôn có ngoại hiệu là Đông tà, thì
hành sự.., hành sự.., ha ha.., bọn ta vốn nghĩ là Tây độc làm được việc gì lệnh
tôn có thể làm được việc đó. Bây giờ xem ra chỉ sợ là ý nghĩ ấy là sai.
Hoàng Dung nói: -Cha ta làm sao lại so với Tây độc? Lão tặc Âu Dương Phong
làm chuyện gì rồi?
Người thư sinh nói: -Được, chúng ta cứ nói trắng mọi chuyện ra với nhau. Vào
phòng sẽ nói.
Lúc ấy sáu người trở vào thiền phòng, chia ra ngồi xuống. Ngư Tiều Canh Độc
bốn người ngồi xuống, như có ý như vô ý nhưng đều chặn hết các cửa ra vào,
Hoàng Dung biết là họ đề phòng mình bỏ chạy, chỉ cười khẽ một tiếng, cũng
không nói ra.
Người thư sinh nói: -Các ngươi có biết Cửu âm chân kinh không?
Hoàng Dung nói: -Biết, chẳng lẽ chuyện này có liên quan gì tới kinh văn Cửu
âm chân kinh à? Ờ, bộ sách này quả thật hại người không ít.
Không kìm được nhớ tới mẹ mình vì viết lại kinh văn không được mà chết.
Người thư sinh nói: -Lần đầu luận kiếm ở Hoa sơn là vì tranh đoạt chân kinh.
Giáo chủ Toàn Chân võ công đứng đầu thiên hạ, chân kinh rơi vào tay ông ta,
bốn cao thủ còn lại trong lòng thật sự khâm phục, vốn chẳng ai nói gì. Lần ấy
luận kiếm ở Hoa sơn, người nào cũng khoe tài riêng, Trùng Dương chân nhân
rất khâm phục Nhất dương chỉ của sư phụ ta, năm sau lại cùng sư đệ y tới Đại
Lý thăm sư phụ ta, từng rèn luyện công phu với nhau.
Hoàng Dung nói chen vào: -Sư đệ y à? Là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông phải
không?
Người thư sinh nói: -Đúng rồi, cô nương tuổi tuy nhỏ nhưng quen biết rất
nhiều.
Hoàng Dung nói: -Ngươi không cần khen ta.
Người thư sinh nói: -Chu sư thúc là người rất hoạt kê. Nhưng ta không biết y
có ngoại hiệu là Lão Ngoan đồng. Lúc ấy sư phụ ta chưa xuất gia.
Hoàng Dung nói: -A, lúc ấy ông còn đang làm vua.
Người thư sinh nói: -Không sai, sư huynh đệ giáo chủ Toàn Chân ở trong
hoàng cung được mười ngày, bốn người bọn ta đều hầu hạ bên cạnh. Sư phụ
ta đem yếu chỉ Nhất dương chỉ ra giảng giải, nói hết cho Trùng Dương chân
nhân biết. Trùng Dương chân nhân vô cùng mừng rỡ, lại đem công phu lợi hại
nhất của ông ta là Tiên thiên công truyền lại cho sư phụ ta. Lúc họ đàm luận,
bọn ta tuy ở bên cạnh, nhưng vì hiểu biết hạn hẹp, cho dù nghe thấy nhưng
cũng không thể lĩnh ngộ được.
Hoàng Dung nói: -Vậy còn Lão Ngoan đồng? Y công phu cũng không thấp
đâu.
Người thư sinh nói: -Chu sư thúc ưa động không ưa tĩnh, cả ngày lang thang
khắp nơi trong hoàng cung Đại Lý, đi khắp nơi đùa giỡn, ngay cả tẩm cung
của hoàng hậu và phi tần cũng không né tránh. Bọn cung nga thái giám biết y
là khách quý của hoàng đế nên cũng không cản trở.
Hoàng Dung và Quách Tĩnh trên mặt đều thoáng nụ cười.
Người thư sinh lại nói: -Lúc Trùng Dương chân nhân chia tay, nói với sư phụ ta
rằng: Gần đây bệnh cũ của ta lại phát, nghĩ chắc không còn sống lâu trên đời,
may là Tiên thiên công đã có truyền nhân, lại thêm với thần công Nhất dương
chỉ của hoàng gia, trên đời đã có người khắc chế y, cũng không sợ y hoành
hành tác quái nữa. Lúc ấy sư phụ ta mới hiểu, Trùng Dương chân nhân ngàn
dặm xa xôi tìm tới Đại Lý chủ yếu là để truyền lại công phu Tiên thiên công cho
sư phụ ta, muốn sau khi ông chết còn để lại một công phu khắc chế Tây độc
Âu Dương Phong.
Chỉ vì Đông tà Tây độc Nam đế Bắc cái Trung thần thông năm người danh
tiếng ngang nhau, nếu nói là tới truyền thụ công phu thì không khỏi có chỗ
bất kính với sư phụ ta, nên trước tiên xin sư phụ ta truyền thụ Nhất dương chỉ
rồi mới đem Tiên thiên công ra trao đổi. Sư phụ ta hiểu dụng ý của y, trong
lòng rất kính trọng, lập tức chuyên tâm tu luyện Tiên thiên công. Trùng Dương
chân nhân học được Nhất dương chỉ rồi, sống được không lâu, cũng chưa
nghiên cứu tu luyện, nghe nói cũng không truyền lại cho đồ đệ. Về sau nước
Đại Lý ta nảy ra một chuyện bất hạnh, sư phụ ta nhìn rõ tình đời xuống tóc
làm sư.
Hoàng Dung nghĩ thầm: -Đoàn hoàng gia không làm hoàng đế mà lại cam tâm
làm sư, vậy thì đây ắt là một chuyện cực kỳ thương tâm, người ta không nói
thì mình cũng không tiện hỏi.
Rồi liếc mắt thấy Quách Tĩnh đang há miệng muốn hỏi, vội đưa mắt ra hiệu
cho y, Quách Tĩnh ờ một tiếng, vội ngậm miệng lại.
Người thư sinh thần sắc buồn rầu, có lẽ là nhớ lại chuyện cũ, dừng lại một lúc
mới nói tiếp: -Không biết vì sao tin sư phụ ta luyện thành Tiên thiên công lại
tiết lộ ra ngoài. Có một hôm sư huynh của ta.
Rồi chỉ vào người nông phu nói tiếp “Sư huynh của ta vâng lệnh sư phụ ra
ngoài hái thuốc, trong núi Đại Tuyết sơn ở biên giới phía tây Vân Nam lại bị
người dùng Cáp mô công đả thương.
Hoàng Dung nói: -Đó tự nhiên là Lão Độc vật rồi.
Người nông phu tức giận nói: -Không phải y thì là ai? Trước tiên là một gã
thiếu niên công tử bỗng dưng gây sự với ta, nói núi Đại Tuyết sơn là của nhà y
không cho người ngoài vào hái thuốc. Đại Tuyết sơn chu vi ngàn dặm, làm sao
là của nhà y được? Người ấy rõ ràng có ý gây hấn với ta. Ta được sư phụ giáo
huấn, cố gắng nhịn nhục, gã thiếu niên ấy lại được đằng chân lân đằng đầu,
nói muốn ta dập đầu lạy ba trăm cái mới tha cho xuống núi, ta không nhịn
được nữa, rốt lại động thủ với y. Gã thiếu niên ấy công phu rất cao cường, hai
người đấu suốt nửa ngày cũng chỉ ngang tay với y. Nào ngờ Lão Độc vật đột
nhiên từ sau góc núi xuất hiện, không nói câu nào, xuất chưởng đánh ta trọng
thương. Gã thiếu niên ấy sai người cõng ta đưa về ngoài chùa Thiên Khánh
chỗ sư phụ ta thường tới.
Hoàng Dung nói: -Có người báo thù thay ngươi rồi, gã Âu Dương công tử ấy
đã bị giết rồi.
Người nông phu ấy tức giận nói: -A, đã chết rồi à, ai giết y thế?
Hoàng Dung nói: -Ờ, người khác giết mất kẻ thù của ngươi, ngươi cũng tức
giận nữa.
Người nông phu nói: -Thù oán của ta phải do ta chính tay trả thù.
Hoàng Dung thở dài nói: -Đáng tiếc là ngươi không trả thù được.
Người nông phu nói: -Ai giết y?
Hoàng Dung nói: -Đó cũng là một người xấu, công phu thua xa Âu Dương
công tử nhưng dùng gian kế giết y.
Người thư sinh nói: -Giết rất hay! Cô nương, ngươi có biết Âu Dương Phong đả
thương sư huynh ta là có dụng ý gì không?
Hoàng Dung nói: -Chuyện đó có gì khó đoán? Bằng vào công phu của Tây độc
thì một chưởng có thể giết chết sư huynh của ngươi, nhưng chỉ đánh y bị
trọng thương, lại đưa về tới cửa sư phụ ngươi, đương nhiên là muốn người
hao tổn công lực để chữa thương cho đệ tử.
Theo các ngươi nói chữa thương một lần hao tổn nguyên khí phải mất năm
năm để tu luyện lại, vậy thì trong lần luận kiếm ở Hoa sơn lần sau, đại sư
đương nhiên sẽ không thắng được y.
Người thư sinh thở dài nói: -Cô nương quả thật thông minh, nhưng chỉ đoán
đúng một nửa, gã Âu Dương Phong kia rất âm độc, người ta rất khó đề phòng.
Y nhân lúc sư phụ ta chữa thương cho sư huynh xong, công lực chưa phục
hồi, lại ngầm tới tập kích, muốn giết chết sư phụ ta …
Quách Tĩnh nói chen vào: -Nhất Đăng đại sư từ hòa như thế chẳng lẽ lại có kết
thù oán gì với Âu Dương Phong sao?
Người thư sinh nói: -Tiểu ca, câu ngươi hỏi mới rồi không đúng đâu. Thứ nhất,
người có lòng từ bi thì xưa nay vẫn đứng vào cái thế không chung sống được
với những kẻ xấu xa tàn ác. Thứ hai, Âu Dương Phong muốn hại người thì
chưa chắc đã vì có thù oán với người ta. Chỉ vì y biết Tiên thiên công là khắc
tinh của Cáp mô công, nên trăm mưu ngàn kế muốn hại sư phụ ta.
Quách Tĩnh gật đầu lia lịa, lại hỏi: -Rồi đại sư có bị y hại không?
Người thư sinh nói: -Sư phụ ta vừa thấy thương thế của sư huynh, lập tức
hiểu được gian kế của Âu Dương Phong, ngay trong đêm dời chỗ ở, rốt lại
không để Tây độc tìm được. Bọn ta biết y một là không làm, hai là làm thì
không thôi, quyết không chịu buông tay bỏ qua, vì thế tìm hỏi khắp nơi, rốt lại
tìm được nơi ẩn náu bí mật ở đây. Sau khi công lực của sư phụ ta phục
nguyên, sư huynh đệ bọn ta muốn nên núi Bạch Đà tìm Tây độc tính sổ,
nhưng sư phụ ta hết sức nói không nên oan oan tương báo kéo dài, không cho
bọn ta ra ngoài sinh sự. Cũng được yên ổn trong bấy nhiêu năm, nào ngờ lại
có hai người các ngươi lên núi. Bọn ta chỉ cho rằng đệ tử Cửu chỉ thần cái
chắc không có lòng gia hại sư phụ ta, nên lúc các ngươi lên núi cũng chưa hề
xuất toàn lực cản trở, nếu không thì bỏ liều tính mạng của bốn người cũng
quyết không để các ngươi tiến được vào chùa. Nào ngờ người không có lòng
hại cọp, cọp lại có ý hại người, ờ, sư phụ ta rốt lại lại mắc vào độc thủ của các
ngươi.
Nói tới đó mày kiếm dựng lên, dáng vẻ oai nghiêm, từ từ đứng dậy, soạt một
tiếng, rút trường kiếm ra khỏi vỏ, hàn quang lóe mắt.
Người câu cá, người tiều phu, người nông phu ba người đồng thời đứng lên,
đều rút binh khí ra, chia ra đứng bốn góc.
Hoàng Dung nói: -Lúc ta tới xin đại sư chữa bệnh, quả thật không biết đại sư
lại phải vất vả tới như thế, phải hao tốn công lực mất năm năm. Trong số dược
hoàn kia có thuốc độc trộn vào, là do người ngoài hãm hại. Ơn đức của đại sư
như trời cao đất dày, ta cho dù hoàn toàn không có lương tâm, cũng không
thể lấy oán báo ơn.
Người đánh cá cao giọng nói: -Vậy hai người các ngươi tại sao nhân lúc sư phụ
ta đang mất hết công lực lại trúng chất kịch độc, dẫn kẻ thù lên núi?
Quách Hoàng hai người giật nảy nình, đồng thanh kêu lên: -Không có đâu?
Người câu cá nói: -Còn nói không có à? Sư phụ ta vừa trúng độc, ở dưới núi
lập tức đưa lên một cái vòng ngọc, nếu không câu kết với nhau từ trước thì
trên đời lại có chuyện ăn khớp như thế sao?
Hoàng Dung nói: -Vòng ngọc gì?
Người câu cá tức giận nói: -Còn làm ra vẻ không biết nữa.
Đôi thiết tương trong tay chia ra một cái, chiếc bên trái quét ngang, chiếc bên
phải bổ dọc, chia ra đánh tới hai người Quách Hoàng.
Quách Tĩnh vốn sóng vai với Hoàng Dung ngồi trên bồ đoàn, nhìn thấy hai mái
chèo đánh tới liền nhảy bật dậy, tay phải móc lại thành trảo vung ra hất chiếc
mái chèo sắt quét ngang, tay trái vươn ra chụp cứng mái chèo, hất lên đè
xuống một cái, cái đè này hàm chứa kình lực, vô cùng lợi hại, người đánh cá
chỉ thấy hổ khẩu tê rần, không tự chủ được buông cán mái chèo. Quách Tĩnh
giật mái chèo sắt về choang một tiếng, chạm vào chiếc bừa sắt của người
nông phu, lửa bắn tung tóe, kế lại đẩy chiếc mái chèo sắt trở vào tay người
câu cá. Người câu cá ngạc nhiên, thuật tay đón lấy, tay phải vận lực cùng lưỡi
búa của người tiều phu đồng thời đánh xuống. Quách Tĩnh song chưởng ra
sau tới trước mang theo một luồng kình phong đánh vào trước ngực hai người.
Người thư sinh biết Hàng long thập bát chưởng lợi hại, kêu lên: -Lui mau.
Người đánh cá và người tiều phu đều là cao đồ dưới trướng danh sư, võ công
không phải tầm thường, hai chiêu ấy đều chưa dùng hết vội thu thế nhảy ra,
đột nhiên thân hình khựng lại, thế lùi lại lập tức bị cản, nguyên là võ khí trong
tay đã bị chưởng lực của Quách Tĩnh kéo tới, không biết làm sao đành buông
tay, cứu mạng là chuyện lớn. Quách Tĩnh cầm thiết tương thiết phủ nhẹ nhàng
ném ra, kêu lên: -Xin cầm lấy.
Người thư sinh bật tiếng khen ngợi: -Hảo công phu!
Trường kiếm đâm ra, chênh chếch phóng vào tay phải y. Quách Tĩnh nhìn thấy
thế kiếm trong lòng hơi hoảng sợ, đã thấy trong bốn đại đệ tử của Nhất Đăng
đại sư thì người thư sinh này tuy rất văn nhã nhưng võ công thì hơn hẳn các
sư huynh đệ, lập tức không dám coi thường, hai chưởng vung lên, trùm
chưởng lực lên che chở cho Hoàng Dung và mình. Lúc ấy quả thật vững vàng
như núi, hoàn toàn không có chút sơ hở, song chưởng khí thế như cầu vồng,
càng về sau vòng tròn càng lúc càng lớn, Ngư Tiều Canh Độc bốn người bị ép
dần dần lùi vào tường, đừng nói là tấn công, ngay cả ra chiêu đón đỡ cũng
không dễ. Lúc ấy nếu Quách Tĩnh nhả kình lực ra, bốn người ắt phải có người
bị thương.
Lại đánh nhau một lúc, Quách Tĩnh không tăng thêm chưởng lực nữa, địch
nhân đánh mạnh thì đỡ mạnh, đánh yếu thì đỡ yếu, thấy lực thì đón lực, thủy
chung vẫn giữ được thế quân bình không thắng không bại.
Người thư sinh kiếm pháp đột nhiên thay đổi, trường kiếm rung mau, chỉ nghe
tiếng ong ong vang lên hồi lâu không dứt, kế đó trên sáu kiếm dưới sáu kiếm
trước sáu kiếm sau sáu kiếm trái sáu kiếm phải sáu kiếm, liên tiếp sáu sáu ba
mươi sáu kiếm, chính là Viên Lao sơn tam thập lục kiếm ở Vân Nam, được gọi
là lợi hại bậc nhất trong kiếm pháp tấn công trên đời. Quách Tĩnh chưởng trái
đón đỡ ba món võ khí của ba người Ngư Tiều Canh, tay phải vung theo mũi
kiếm của người thư sinh trên dưới trước sau trái phải, bất kể kiếm pháp biến
hóa vô cùng, y cứ dùng chưởng lực đánh vào phương hướng mũi kiếm đâm
tới, nhát nào cũng đều vừa chạm tới áo y thì trượt qua một bên, không đâm
được vào chéo áo y.
Đánh liên tiếp xong ba mươi sáu kiếm, Quách Tĩnh ngón trỏ tay phải cong lại
bấm vào ngón cái, nhìn đúng mũi kiếm phóng tới, búng mạnh vào sống kiếm.
Công phu Đàn chỉ thần thông này của Hoàng Dược Sư vốn có thể nói là trên
đời không hai, trước kia y và Chu Bá Thông bắn bi đùa giỡn, lúc ở Quy Vân
trang bắn đá chỉ điểm cho Mai Siêu Phong đều là sử dụng công phu này.
Quách Tĩnh lúc ở thôn Ngưu Gia phủ Lâm An thấy y đánh nhau với Toàn Chân
thất tử, học được yếu quyết bên trong, thủ pháp búng ngón tay tuy thua xa
Hoàng Dược Sư nhưng kình lực rất mạnh, chỉ nghe keng một tiếng, thanh
kiếm chấn động, người thư sinh cánh tay tê rần, suýt nữa rơi mất trường kiếm,
trong lòng cả kinh nhảy lùi trở ra kêu lên: -Dừng tay!
Ngư Tiều Canh ba người nhất tề nhảy ra, chỉ là bọn họ vốn đã bị ép tới sát
tường, không sao lui lại được nữa, người câu cá nhảy lùi ra cửa, người nông
phu thì nhảy lên nửa bức tường bị đánh sập. Người tiều phu giắt chiếc búa
vào hông, cười nói: -Ta đã sớm nói hai vị không có ác ý, mà các ngươi không
chịu nghe.
Người thư sinh tra kiếm vào vỏ, vái Quách Tĩnh một vái, nói: -Tiểu ca dưới
chưởng dung tình, ta rất cảm tạ thịnh tình.
Quách Tĩnh vội khom lưng trả lễ, trong lòng lại không hiểu: -Bọn ta vốn không
có ý xấu tại sao các ngươi ban đầu nhất định không tin, động thủ xong mới
chịu tin?
Hoàng Dung thấy vẻ mặt y, đoán được ý y, bèn nói khẽ vào tai y: -Nếu ngươi
có ác ý thì đã sớm đả thương bốn người bọn họ rồi. Nhất Đăng đại sư bây giờ
làm sao còn là đối thủ của ngươi nữa?
Quách Tĩnh nghĩ thấy không sai, liên tiếp gật đầu.
Người nông phu và người câu cá bước lại vào phòng. Hoàng Dung nói: -Chỉ
không biết người đối đầu của đại sư là ai? Đưa vòng ngọc tới là có ý gì?
Người thư sinh nói: -Không phải tại hạ không chịu nói, nhưng quả thật bọn ta
cũng không rõ, chỉ biết giữa việc xuất gia của sư phụ ta và người ấy có mối
liên quan rất lớn.
Hoàng Dung đang định hỏi nữa, người nông phu đột nhiên nhảy bật lên nói: –
Ái chà, chuyện này nguy hiểm thật?
Người câu cá nói: -Cái gì?
Người nông phu chỉ người thư sinh nói: -Sư phụ ta chữa thương hao tốn công
lực, y đều nói ra không giấu diềm gì. Nếu hai vị này không có ý tốt, thì bốn
người chúng ta không cản trở được, sư phụ chúng ta còn được sống à?
Người tiều phu nói: -Trạng nguyên thần cơ diệu toán, nếu ngay chuyện ấy mà
cũng tính không được thì làm sao làm được Tướng gia của Đại Lý? Y sớm biết
hai vị này là bạn không phải thù, động thủ mới rồi một là muốn thử xem võ
công của hai vị tiểu bằng hữu này, hai là để dạy cho ngươi tin phục.
Người thư sinh cười khẽ một tiếng, người nông phu và người câu cá liếc y một
cái, nửa là khâm phục nửa là trách móc.
Đúng lúc ấy, ngoài cửa có tiếng bước chân vang lên, chú tiểu sa di tiến vào,
chắp tay nói: -Sư phụ sai bốn vị sư huynh tiễn khách.
Mọi người lập tức đứng lên.
Quách Tĩnh nói: -Đại sư đã có người đối đầu tới đây bọn ta làm sao có thể bỏ
đi? Không phải tiểu đệ không tự lượng sức mình, nhưng muốn cùng bốn vị sư
huynh cùng thu xếp kẻ đối đầu xong sẽ tính.
Ngư Tiều Canh Độc nhìn nhau một cái, đều lộ vẻ mừng rỡ. Người thư sinh nói:
-Để ta đi hỏi sư phụ đã?
Bốn người nhất tề đi vào, qua hồi lâu mới trở ra. Quách Hoàng thấy vẻ mặt
bốn người, đã biết Nhất Đăng đại sư không ưng thuận. Quả nhiên người thư
sinh nói: -Sư phụ ta đa tạ hai vị, nhưng lão nhân gia người nói nhân quả của ai
thì người ấy phải tự kết thúc, người ngoài không thể can thiệp được.
Hoàng Dung nói: -Tĩnh ca ca, chúng ta tự tới nói chuyện với đại sư.
Hai người đi tới cửa thiền phòng của Nhất Đăng đại sư, lại thấy cánh cửa đóng
chặt, Quách Tĩnh gõ cửa suốt nửa ngày, hoàn toàn không có tiếng đáp. Cánh
cửa ấy tuy chỉ xô một cái là ngã, nhưng y làm sao dám lỗ mãng? Người tiều
phu buồn rầu nói: -Sư phụ ta không thể tiếp kiến hai vị rồi. Núi cao nước dài,
sau này chúng ta sẽ còn có dịp gặp lại.
Quách Tĩnh cảm kích Nhất Đăng đại sư nhiệt huyết trong lòng trào lên, không
thể kìm được nói: -Dung nhi, đại sư cho cũng được, không cho cũng được,
chúng ta xuống núi, cứ thấy dưới núi có kẻ nào lằng nhằng thì đánh cho y một
trận tơi bời hoa lá rồi sẽ tính.
Hoàng Dung nói: -Cách ấy hay lắm. Nếu kẻ đối đầu của đại sư vô cùng lợi hại,
chúng ta chết dưới tay y, thì tính ra cũng là trả được ơn đức của đại sư.
Quách Tĩnh là buột miệng nói ra, nhưng Hoàng Dung thì cố ý cao giọng, muốn
cho Nhất Đăng đại sư nghe thấy.
Hai người quay lưng đi, cánh cửa gỗ đột nhiên két một tiếng mở ra, một vị sư
già eo éo nói: -Đại sư có lời mời.
Quách Tĩnh vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, cùng Hoàng Dung sóng vai bước
vào, thấy Nhất Đăng và nhà sư Thiên Trúc đang ngồi xếp bằng trên tấm bồ
đoàn. Hai người lạy rạp xuống đất, khi ngẩng đầu lên, chỉ thấy Nhất Đăng sắc
mặt vàng vọt, khác hẳn vẻ mặt sung mãn nguyên khí lúc mới gặp. Hai người
vừa cảm kích vừa khó xử, không biết nói thế nào là tốt.
Nhất Đăng nhìn nhìn bốn đệ tử ngoài cửa, nói: -Mọi người vào cả đi, ta có câu
muốn nói.
Ngư Tiều Canh Độc bước vào thiền phòng, khom người làm lễ với sư phụ sư
thúc. Nhà sư Thiên Trúc gật gật đầu rồi lập tức cúi đầu ngẫm nghĩ không đếm
xỉa gì tới khách nữa. Nhất Đăng đại sư nhìn làn khói hương lởn vởn bốc lên
xuất thần, trong tay mân mê một cái vòng bạch ngọc mỡ dê.
Hoàng Dung nghĩ thầm: -Đây rõ ràng là cái xuyến ngọc đeo tay của nữ nhân,
nhưng không biết kẻ đối đầu của đại sư đưa tới là có dụng ý gì.
Qua hồi lâu, Nhất Đăng thở dài một tiếng, nói với Quách Tĩnh và Hoàng Dung:
-Ý tốt của hai người các ngươi, lão tăng tâm lĩnh rồi. Chuyện nhân quả trong
vụ này, nếu ta không nói ra, chỉ sợ đôi bên có người vì thế mà bị tổn thương,
rất trái với ý lão tăng. Các ngươi có biết ta vốn là người thế nào không?
Hoàng Dung, nói: -Bá bá vốn là hoàng đế nước Đại Lý ở Vân Nam. Thiên Nam
nhất đế, oai danh hiển hách, thiên hạ ai mà không biết?
Nhất Đăng cười khẽ một tiếng nói: -Hoàng gia là giả, lão tăng là giả, oai danh
hiển hách lại càng giả. Cũng như tiểu cô nương ngươi cũng là giả thôi.
Hoàng Dung không hiểu thiền cơ của y, mở tròn hai con mắt long lanh đẹp đẽ
nhìn y chằm chằm.
Nhất Đăng thong thả nói: -Nước Đại Lý ta từ Thần thánh Văn vũ đế Thái tổ mở
nước là năm Đinh dậu, so với lúc Tống Thái tổ Triệu Khuông Dẫn làm binh biến
ở Trần Kiều, khoác hoàng bào lên người thì sớm hơn hai mươi ba năm. Thần
thánh Văn vũ đế của ta truyền được bảy đời thì tới Khiêm nghĩa đế, ông làm
hoàng đế bốn năm thì xuất gia làm sư, trao ngôi lại cho cháu là Thánh đức đế.
Về sau Thánh đức đế, Hưng tông Hiếu đức đế, Bảo định đế, Hiến tông Tuyên
nhân đế, phụ hoàng của ta là Cảnh tông Chính khang đế đều từ bỏ ngôi vua
xuất gia làm sư. Từ Thái tổ tới ta, trong mười tám đời hoàng đế có tới bảy vị
xuất gia.
Ngư Tiều Canh Độc đều là người Đại Lý, tự nhiên biết lịch sử các đời. Quách
Tĩnh và Hoàng Dung thì nghe thế rất ngạc nhiên, nghĩ thầm: -Nhất Đăng đại
sư không làm vua mà làm hòa thượng, đã khiến người ta vô cùng kinh ngạc, té
ra ông ta có rất nhiều tổ tiên cũng làm như thế, chẳng lẽ làm hòa thượng còn
tốt hơn làm hoàng đế thật à?
Nhất Đăng đại sư lại nói: -Họ Đoàn ta nhân duyên tốt đẹp chỉ là tiểu lại ở biên
cương mà trộm được ngôi vua. Mỗi đời đều tự biết trí độ tài đức quả thật
không đủ để đảm đương việc lớn ấy, nên thủy chung đều run run sợ sợ, không
dám hơi có chỗ nào quá phận. Chỉ vì làm vua thì không cày mà ăn, không dệt
mà mặc, ra có xe ngựa, vào có cung điện, đó chẳng phải đều là mồ hôi nước
mắt của dân sao? Cho nên mỗi khi cứ đến tuổi già là không khỏi trong lòng có
chỗ hối hận, nhìn lại công tội trong một đời, đều thấy mình tạo phúc cho dân
thì ít, làm nghiệt thì nhiều, vì thế đều từ ngôi xuất gia.
Nói tới đó, ngẩng đầu nhìn ra ngoài, khóe miệng thoáng nét mỉm cười, trên
mặt lại có vẻ chua xót.
Sáu người im lặng lắng nghe, không dám lên tiếng, Nhất Đăng đại sư ngón trỏ
tay trái lồng vào cái vòng ngọc xoay xoay mấy vòng, nói tiếp: -Nhưng ta thì lại
không phải vì thế mà ngộ đạo làm sư. Nguyên nhân của chuyện này mà nói ra
còn có liên quan tới việc luận kiếm ở Hoa sơn, tranh đoạt chân kinh nữa. Năm
ấy giáo chủ Toàn Chân Trùng Dương chân nhân lấy được chân kinh, năm sau
đích thân tới Đại Lý thăm ta, truyền lại công phu Tiên thiên công cho ta. Y ở lại
trong cung nửa tháng, hai người rèn luyện công phu, trò chuyện rất hợp nhau,
nào ngờ sư đệ y là Chu Bá Thông trong hơn mười ngày ấy buồn bã phát
cuồng, dạo chơi khắp trong cung của ta, gây ra một chuyện lớn.
Hoàng Dung nghĩ thầm: -Lão Ngoan đồng này mà không sinh sự thì mới thật
là lạ đây.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.