Ta chưa bao giờ gặp phải nhiều khổ đau đến thế như khi ta yêu nhau.
FREUD
Brooklyn, phía bên kia bờ sông, trong sự tiện nghi êm ái của ngôi nhà nhỏ xây từ thời Victoria được tô điểm bằng loạt tòa tháp nhỏ và máng nước…
Ngọn lửa bập bùng tí tách trong lò sưởi.
Vẫn còn bất tỉnh, Mark Hathaway nằm dài trên tràng kỷ ngoài phòng khách, một tấm chăn dày quấn quanh chân. Cúi người bên vai anh, bác sĩ Susan Kingston kết thúc mũi khâu cuối cùng.
– Vết thương không sâu lắm, bác sĩ vừa tháo găng tay vừa giải thích cho Nicole. Nhưng chính tình trạng sức khỏe chung của Mark mới làm mình lo ngại: anh ấy bị viêm phế quản rất nặng và cơ thể anh ấy toàn vết xuất huyết dưới da cùng những vết cước do lạnh.
Vừa mới chập tối nay, trong khi đang cùng gia đình thưởng thức món bánh Christmas pudding truyền thống, Susan đã nhận được cú điện thoại của người hàng xóm, Nicole Hathaway, đề nghị cô đến chăm sóc người chồng đang bị thương của mình.
Mặc dù rất ngạc nhiên nhưng Susan không hề do dự một giây. Chồng cô và cô biết rất rõ Mark và Nicole. Trước khi tấn thảm kịch xảy ra cách đây năm năm, hai cặp vợ chồng rất có thiện cảm với nhau và thường xuyên đi chơi cùng nhau, cùng nhau thưởng thức những món ăn lần lượt tại từng nhà hàng Ý trong khu phố Park Slope, cùng nhau lục lọi tại nhà những người buôn đồ cổ ở Brooklyn Height và cùng chạy bộ trên những thảm cỏ rộng lớn của công viên Prospect vào mỗi dịp cuối tuần.
Ngày hôm nay, thời kỳ đó dường như đã mãi xa, gần như không còn trong thực tại.
Mắt dán chặt vào Mark, Susan không thể ngăn mình cảm thấy một cảm giác vô cùng rối bời.
– Cậu biết là anh ấy sống ở ngoài đường chứ?
Nicole lắc đầu, không thể thốt lên lời.
Một buổi sáng, vào hai năm trước, chồng cô nói với cô rằng anh sẽ ra đi, rằng anh không thể sống “như vậy” được nữa, rằng anh không còn chút sức lực nào nữa. Cô đã làm tất cả để giữ anh lại, nhưng đôi khi tất cả vẫn chưa phải là đủ. Kể từ đó đến nay, cô không hề có chút tin tức nào của anh.
– Mình đã tiêm cho anh ấy thuốc giảm đau cũng như thuốc kháng sinh, Susan vừa nói vừa thu xếp dụng cụ.
Nicole tiễn Susan ra đến tận cửa.
– Ngày mai mình sẽ quay lại, Susan hứa, nhưng…
Cô bỏ lửng câu nói giữa chừng, vừa cảm thấy xấu hổ vừa khiếp sợ điều gì sắp nói ra:
– … đừng để anh ấy lại ra đi trong tình trạng này, cô nói tiếp, nếu không… anh ấy sẽ chết.
o O o
– Thế nào?
– Thế nào cái gì?
– Chúng ta sẽ làm gì? Eriq hỏi. Với chồng của em ấy?
Ly whisky trên tay, tay luật sư đi đi lại lại trong bếp.
Nicole ngước nhìn người đàn ông với tâm trạng đan xen giữa chán nản và kinh tởm. Cô đã làm gì với gã đàn ông như thế này từ gần một năm qua? Làm sao cô có thể để hắn bước vào cuộc đời mình? Tại sao cô lại dính vào hắn cơ chứ?
– Hãy đi đi, tôi xin anh đấy, cô thì thào.
Eriq lắc đầu.
– Không có chuyện anh bỏ em vào những lúc thế này đâu.
– Khi tôi bị dao kề cổ, điều đó không ngăn anh bỏ tôi chắc!
Anh ta đứng im bất động, cảm thấy nhục nhã ê chề, và phải mất một lúc trước khi thử cất lời biện minh:
– Nhưng anh không có thời gian để… anh ta bắt đầu câ nói mà không thể kết thúc câu.
– Đi đi, Nicole nhắc lại rất ngắn gọn.
– Nếu đó là điều em thực sự muốn… Nhưng ngày mai sẽ gọi cho em, anh ta nói thêm trước khi bỏ đi.
Nhẹ nhõm vì đã rũ bỏ được Eriq, Nicole quay trở lại phòng khách. Cô tắt hết đèn, và không hề gây ra tiếng động nào, kê một chiếc phô tơi sát với tràng kỷ để được gần Mark.
Gian phòng chỉ được chiếu sáng bởi làn ánh sáng mờ mờ màu cam phát ra từ đám than hồng đang rực cháy trong lò sưởi và giờ đây đang ngập tràn trong bầu không khí thật yên bình.
Kiệt sức và lúng túng, Nicole đặt tay lên tay chồng và nhắm mắt lại. Họ đã từng vô cùng hạnh phúc trong ngôi nhà này! Họ từng sung sướng đến phát điên khi tìm ra ngôi nhà này. Đó là một trong những loạt nhà xây thẳng hàng và có kiến trúc hệt nhau kiểu brown-stones được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX với mặt tiền bằng đá nâu và một mảnh vườn rất xinh. Họ đã mua ngôi nhà cách đây mười năm, ngay trước khi đứa con gái đầu lòng của họ chào đời, đứa con mà họ muốn nuôi sống trong điều kiện tách biệt khỏi sự ồn ào náo nhiệt của Manhattan.
Trong tủ sách gia đình, một vài bức ảnh được lồng trong khung gợi nhắc lại tháng ngày hạnh phúc đã qua. Trước tiên là bức ảnh một người đàn ông và một phụ nữ tay trong tay, ánh mắt đắm đuối và cử chỉ dịu dàng. Kỳ nghỉ lãng mạn tại Hawaii rồi cùng nhau phiêu lưu ở công viên quốc gia Grand Canyon bằng xe máy. Tiếp đến là một bức ảnh chụp lúc siêu âm và rồi vài tháng sau là bức ảnh một đứa bé khuôn mặt tròn trĩnh đang đón lễ Giáng sinh đầu tiên trong đời. Trong mấy bức ảnh cuối cùng, đứa bé ấy trở thành một cô gái nhỏ đã rụng những chiếc răng sữa đầu tiên. Cô bé tự hào đứng trước lũ hươu cao cổ ở vườn bánh thú Bronx, đang chỉnh sửa lại chiếc mũ bonê dưới làn tuyết của Montana và giơ ra trước ống kính đôi cá khoang cổ của mình, Ernesto và Cappuccino.
Hương vị của tháng ngày hạnh phúc đã biến mất mãi mãi…
Mark húng hắng ho trong khi ngủ. Nicole thốt rùng mình. Người đàn ông đang ngủ trên tràng kỷ chẳng có nét gì liên quan đến người mà cô đã lấy làm chồng. Chỉ có những bằng cấp, những bằng khen treo kín tường như chiến lợi phẩm chứng minh rằng Mark từng là một nhà tâm lý học trẻ nổi tiếng. Được đánh giá là chuyên gia trong việc đối phó với những cú sốc, Cục Hàng không liên bang FAA và Cục Điều tra liên bang FBI đã mời anh đến làm việc khi xảy ra tai nạn hàng không và những vụ bắt cóc. Sau vụ 11 tháng Chín, anh đã tham gia vào nhóm các nhà tâm lý học được thành lập để chăm sóc gia đình nạn nhân cũng như những nhân viên làm việc tại Trung tâm Thương mại thoát khỏi thảm họa. Bởi người ta không bao giờ bình an vô sự thoát khỏi thảm họa kinh hoàng kiểu này. Một phần trong chính con người chúng ta sẽ luôn bị cầm tù trong những tiếng kêu thét, ngọn lửa và máu. Có thể bạn không chết nhưng bạn sẽ luôn cảm thấy bị vẩn đục, bị hao mòn bởi cảm giác tội lỗi, bị giày vò bởi nỗi kinh hoàng ngấm ngầm và bị dằn vặt bởi một câu hỏi ám ảnh mà không bao giờ có được câu trả lời: tại sao bạn lại được cứu sống, chính bạn chứ không phải là những người khác? Chính bạn chứ không phải con cái bạn, vợ bạn, hay bố mẹ bạn…
Song song với công việc của một bác sĩ tâm lý, Mark còn tham gia viết bài về những thí nghiệm của mình trên các tạp chí phổ biến kiến thức có lượng phát hành vô cùng lớn. Thông qua các bài viết, anh quan tâm đến việc phổ biến rộng rãi những liệu pháp điều trị mới – trò chơi nhập vai, giấc ngủ thôi miên… – những liệu pháp mà anh đã tiến hành thử nghiệm với người cộng sự và cũng là người bạn thuở thiếu thời của mình, Connor McCoy. Dần dần, Mark đã trở thành một bác sĩ tâm lý nổi tiếng mà người ta thường xuyên thấy xuất hiện trên các Chương trình truyền hình và sự nổi danh bất ngờ đã đẩy cả hai người, anh và Nicole, bước lên bục sân khấu truyền thông. Trong số báo viết về những cặp vợ chồng nổi tiếng nhất New York, tuần báo danh tiếng Vanity Fair đã dành cho họ một bài báo dài tới bốn trang cùng những bức ảnh minh họa vô cùng quyến rũ. Một sự công nhận.
Nhưng câu chuyện cổ tích trên mặt giấy láng đã vỡ tan tành trong một sớm một chiều. Vào một buổi chiều tháng Ba, Layla, cô con gái năm tuổi của họ đã biến mất tại một trung tâm thương mại tại quân Cam, phía nam Los Angeles. Lần cuối cùng người ta nhìn thấy cô bé là khi cô đang ngắm nhìn những món đồ chơi được bày trong tủ kính của gian hàng Disney. Bảo mẫu của cô bé, một cô gái au pair[1] trẻ người Úc, đã để Layla một mình trong vài phút. Chỉ đúng bằng thời gian thử một chiếc quần jean hạ giá tại cửa hàng Diesel ngay bên cạnh…
Tổng cộng là bao nhiêu thời gian đã trôi qua trước khi cô nhận ra Layla biến mất? “Không quá năm phút”, cô bảo mẫu khẳng định với những nhân viên điều tra. Cũng có thể nói đó là một khoảng thời gian khá lâu. Tất cả đều có thể xảy đến trong vòng năm phút.
Người ta đều biết rằng những giờ đầu tiên ngay sau khi một đứa trẻ biến mất là cực kỳ quan trọng. Chính trong khoảng thời gian này, người ta có nhiều cơ hội nhất để tìm thấy nó vẫn còn sống sót bình an. Qua bốn mươi tám tiếng, khả năng tìm thấy giảm xuống đến mức đáng báo động.
Trời mưa như trút nước vào ngày 23 tháng Ba đó. Mặc dù đứa trẻ biến mất giữa ban ngày ban mặt và tại một nơi luôn đầy ắp người qua lại nhưng các nhân viên điều tra gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu thập những lời chứng đáng tin cậy. Việc xem xét các băng video giám sát chẳng đem lại kết quả nào, màn hỏi cung cô bảo mẫu cũng không khá hơn, cô này chỉ phạm tội mất cảnh giác chứ không phải bắt cóc đứa trẻ.
Thế rồi, nhiều ngày trôi qua…
Trong nhiều tuần liền, hơn một trăm cảnh sát với sự trợ giúp của đội chó nghiệp vụ cùng máy bay lên thẳng đã quần thảo kỹ lưỡng khu vực xảy ra vụ việc. Nhưng bất kể những nỗ lực do FBI triển khai, không hề có một chút dấu vết cụ thể nào cho phép tìm ra đứa trẻ.
… rồi nhiều tháng trôi qua…
Việc thiếu vắng những dấu vết điều tra khiến cảnh sát hoang mang. Không hề có bất cứ yêu cầu đòi tiền chuộc nào, không hề có bất kỳ dấu vết đáng tin cậy nào. Không gì cả.
… và nhiều năm trôi qua…
Kể từ năm năm nay, tấm ảnh chụp Layla vẫn còn được dán khắp các nhà ga, sân bay và các bưu cục, ngay cạnh tấm ảnh của những đứa trẻ mất tích khác.
Nhưng vẫn không thể tìm thấy Layla.
Như thể đã bốc hơi.
o O o
Đối với Mark, cuộc đời anh chấm dứt kể từ ngày đó, ngày 23 tháng Ba năm 2002.
Việc cô con gái mất tích đã khiến anh ngập chìm trong trạng thái cô đơn tuyệt vọng hoàn toàn. Bị cơn nội chấn do nỗi đau cùng cảm giác phạm tội gây ra giày vò, Mark đã rời bỏ công việc, người vợ và người bạn thân của mình.
Trong mấy tháng đầu, anh đã thuê các thám tử tư giỏi nhất để nối lại cuộc điều tra lần theo những chi tiết nhỏ nhặt nhất.
Không có bất kỳ kết quả nào.
Vậy là, chính bản thân anh tự tiến hành điều tra trong sự kiếm tìm vô vọng.
Cuộc điều tra tất phải thất bại này kéo dài ba tháng. Rồi sau đó đến lượt Mark cũng biến mất luôn, không hề để lại bất kỳ tin tức nào, không cả cho người vợ của mình cũng như cho Connor.
Nicole không rơi vào trạng thái trượt dốc như thế.
Ban đầu, nỗi tuyệt vọng của cô nhân lên gấp đôi do một mặc cảm tội lỗi đặc biệt: chính cô đã nài nỉ để Layla đi cùng mình đến Los Angeles, nơi cô sẽ trình diễn hàng loạt buổi độc tấu; chính cô là người đã tuyệt dụng cô bảo mẫu, do cô ta mà tấn thảm kịch mới xảy ra. Để đối mặt với những điều tồi tệ nhất, cô không tìm được cách chống đỡ nào khác ngoài việc hành động cực đoan, tiếp tục thực hiện các buổi hòa nhạc và ghi âm, thậm chí chấp nhận đề cập đến tấn thảm kịch của mình trên mặt báo hay truyền hình, chấp nhận là nạn nhân của thói tọc mạch vốn gây nhiều nguy hại.
Tuy nhiên, một vài ngày sau đó, nỗi đau trở nên không thể chịu đựng được. Khi không thể chống chọi lại những ý nghĩ bệnh hoạn của mình được nữa, Nicole thuê một phòng ở khách sạn và trùm chăm ru rú trong phòng như đang trong tình trạng ngủ đông.
Mỗi người sống sót theo cách riêng của mình…
o O o
Đột nhiên, một thanh củi gãy rắc một tiếng trong lò sưởi. Mark đột ngột rùng mình và mở choàng mắt. Anh ngồi bật dậy và sau một vài giây, anh tự hỏi mình đang ở đâu và điều gì đã xảy đến với anh.
Ngay khi nhìn thấy gương mặt Nicole, những ý nghĩ của anh dần dần được sắp xếp lại.
– Em có bị thương không? anh quay sang hỏi vợ.
– Không, là nhờ có anh đấy.
Trong tích tắc, anh dường như lại rơi vào trạng thái đờ đẫn trước khi đột ngột đứng bật dậy.
– Nằm xuống đi anh, em xin anh đấy, anh cần phải nghỉ ngơi!
Như thể không hề nghe thấy tiếng cô, anh bước vài bước về phía khung cửa kính. Đằng sau vách kính, đường phố rực rỡ ánh đèn, phủ một màu trắng xóa và lặng câm.
– Quần áo của anh đâu rồi?
– Em đã vứt hết đi rồi, Mark, chúng quá bẩn.
– Thế còn con chó của anh?
– Em đã đưa nó về đây cùng anh, nhưng… nó đã bỏ trốn rồi.
– Anh đi đây, anh vừa nói vừa lảo đảo bước ra phía cửa.
Nicole bước đến trước mặt chồng nhằm ngăn anh tiến thêm bước nữa.
– Nghe này anh, giờ đã là đêm, anh bị thương, kiệt sức… Chúng ta đã không gặp nhau kể từ hai năm nay rồi. Chúng ta cần phải nói chuyện.
Cô chìa tay về phía chồng, nhưng anh đẩy cô ra. Cô lại gần anh và anh kháng cự lại, rồi trong khi phản ứng, anh đã va vào kệ sách. Một khung ảnh rơi xuống nền nhà trong tiếng thủy tinh vỡ vang lên khô khốc.
Mark nhặt khung ảnh lên rồi xếp nó vào vị trí cũ trên giá sách. Mắt anh dán vào bức ảnh cô con gái. Đôi mắt xanh lục và long lanh niềm vui, nụ cười nở trên môi, cô bé đang hít thở bầu không khí hạnh phúc và niềm vui sống.
Vậy là điều gì đó đã tan vỡ trong anh và anh ngồi sụp xuống rồi bật khóc nức nở, lưng dựa vào tường. Đến lượt Nicole cũng thu mình sát vào ngực anh và họ ngồi như vậy rất lâu, người này lả đi trong vòng tay người kia, cùng nhau chia sẻ nỗi cô đơn tuyệt vọng, làn da mềm mại áp sát vào lớp da thô ráp, hương thơm tinh tế của nước hoa Guerlain hòa quyện với mùi hôi thối của những kẻ sống ngoài đường phố.
o O o
Nắm lấy tay chồng, Nicole đưa anh về phía phòng tắm và mở vòi hoa sen cho anh trước khi cô đi ra. Bị hương thơm xông lên nhức đầu của dầu gội đầu quyến rũ, Mark ở lì trong phòng tắm gần nửa tiếng dưới cơn mưa rào nhân tạo từ vòi hoa sen, nóng rẫy và có khả năng giúp con người hồi sinh. Mình mẩy vẫn còn ướt sũng, Mark giấu mình dưới chiếc khăn tắm to bản trước khi bước ra hành lang, để lại những vũng nước vương khắp nơi trên sàn nhà đánh véc ni. Anh mở cái trước đây từng là tủ quần áo của mình và nhận thấy quần áo của anh vẫn luôn nằm ở đó. Anh không buồn để mắt đến những bộ trang phục cũ – Armani, Boss, Zegna… những vết tích của một cuộc sống không còn là của anh nữa, và tự bằng lòng xỏ vào chiếc quần đùi, một chiếc quần jean may bằng vải dày, một chiếc tee-shirt dài tay cùng chiếc áo pull rộng.
Anh bước xuống cầu thang để gặp Nicole trong nhà bếp.
Kết hợp giữa đồ gỗ, đồ thủy tinh và kim loại, nhà bếp tạo ra một hiệu ứng trong suốt. Một dãy kệ bếp rộng và trống trơn chạy dọc theo chiều dài của bức tường, trong khi đó, chiếc bàn làm bếp chính được trang bị rất đầy đủ mời gọi bạn sửa soạn làm bếp. Những năm trước đây, chiếc bàn bếp này là nơi chứng kiến bầu không khí vui vẻ trong những bữa điểm tâm sáng của cả gia đình, những lần nếp thử bánh kếp và những bữa tối ngập tràn tình yêu thương. Nhưng đã lâu lắm rồi chẳng còn ai nấu nướng tại đây nữa.
– Em đã chuẩn bị cho anh món trứng ốp lết và vài lát bánh mì nướng rồi, vừa nói Nicole vừa rót cà phê vẫn còn bốc khói nghi ngút vào cốc cho chồng.
Mark ngồi xuống trước đĩa thức ăn của mình rồi bật đứng dậy gần như ngay lập tức. Đôi bàn tay bắt đầu run run. Trước khi động đến đồ ăn, anh cần phải uống. Uống rượu.
Dưới ánh mắt sửng sốt kinh ngạc của Nicole, anh cuống cuồng mở nút chai rượu đầu tiên rơi vào tay mình và tu hết nửa chai chỉ trong vòng hai ngụm. Trong chốc lát, khi cơn run rẩy đã nguôi ngoai, anh bắt đầu ngồi ăn phần ăn của mình trong khi vẫn giữ im lặng cho đến khi cuối cùng Nicole dám lên tiếng hỏi anh:
– Anh đã ở đâu vậy, Mark?
– Trong phòng tắm, anh trả lời mà không nhìn cô.
– Không, anh đã ở đâu trong hai năm qua?
– Bên dưới.
– Bên dưới nào cơ?
– Trong những đường hầm tàu điện ngầm, trong cống, trong đường ống dẫn nước, cùng với những người vô gia cư khác.
Hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi, Nicole lắc đầu ra dấu không hiểu.
– Nhưng tại sao?
– Em biết rõ tại sao, anh cao giọng nói.
Nicole lại gần chồng, để cầm lấy tay anh.
– Nhưng anh có một người vợ, Mark, một công việc, những người bạn…
Anh rút tay ra và đứng dậy:
– Hãy để anh yên!
– Hãy giải thích cho em một điều, cô hét lên để giữ anh lại, cái gì đã khiến anh sống như một kẻ vô gia cư?
Anh nhìn cô đăm đăm.
– Tôi sống như vậy bởi vì tôi không thể sống khác được. Cô có thể, còn thì không.
– Đừng tìm cách đổ lỗi cho em, Mark.
– Tôi không trách móc gì cô cả. Cứ việc làm lại cuộc đời nếu như cô muốn. Còn tôi, đó là một nỗi đau mà tôi không thể vượt qua.
– Anh là nhà tâm lý học, Mark. Anh đã giúp đỡ mọi người vượt qua tất cả các loại thảm họa.
– Nỗi đau này, tôi không muốn vượt qua, bởi đó là điều duy nhất níu kéo tôi với cuộc sống. Đó là tất cả những gì còn lại của con bé ở trong tôi, cô có hiểu không? Không có giây phút nào tôi không nghĩ đến con bé mà không tự hỏi kẻ bắt cóc đã làm gì con bé, con bé có thể ở đâu vào lúc này.
– Con bé đã chết, Mark, Nicole lạnh lùng ngắt lời.
Câu nói đó vượt quá sức chịu đựng của anh. Mark đưa tay về phía Nicole, tóm lấy cổ họng cô như thể sẽ bóp cổ cô.
– Làm sao cô có thể nói một điều như vậy?
– Đã năm năm rồi, Mark! Cô vừa hét lên vừa vùng thoát khỏi bàn tay anh. Năm năm không có một chút dấu vết dù nhỏ nhất, năm năm không có bất kỳ yêu cầu đòi tiền chuộc nào!
– Vẫn luôn có một cơ may nào đó…
– Không, Mark ạ, tất cả đã kết thúc. Chẳng còn một tia hy vọng hợp lẽ nào đâu. Con bé sẽ không xuất hiện lại trong một sớm một chiều. Điều đó không bao giờ xảy ra, anh hiểu chứ, KHÔNG BAO GIỜ!
– Cô im đi!
– Nếu người ta tìm ra điều gì, thì đó sẽ là cái xác của con bé, chẳng có gì khá nữa đâu.
– KHÔNG!
– Đúng vậy đấy! Và đừng nghĩ là chỉ có mình anh đau khổ vì chuyện đó. Em sẽ phải nói gì với anh đây, chính em, ngoài đứa con gái, em còn mất cả chồng của mình nữa?
Không trả lời, Mark vội vàng rời khỏi nhà bếp. Nicole theo sau anh, cô quyết tâm dồn anh vào chân tường:
– Anh không bao giờ nghĩ rằng chúng ta có thể có những đứa con khác à? Anh chưa từng bao giờ tự nhủ rằng cùng với thời gian, cuộc sống sẽ hồi sinh dưới ngôi nhà này chắc?
– Trước khi có những đứa con khác, tôi muốn tìm lại con gái tôi.
– Hãy để em gọi Connor. Kể từ hai năm nay, anh ấy tìm anh khắp nơi. Anh ấy có thể giúp anh vượt qua khó khăn để tiếp tục tiến lên.
– Tôi không muốn vượt qua khó khăn để tiếp tục tiến lên. Con gái tôi đang phải chịu đựng đau khổ và tôi muốn cùng chịu khổ với nó.
– Nếu anh vẫn tiếp tục sống ở ngoài kia, anh sẽ chết! Đó là điều anh muốn phải không? Vậy thì hãy làm thế đi! Anh hãy bắn một viên đạn vào đầu mình đi!
– Tôi không muốn chết, bởi vì tôi cần phải có mặt vào cái ngày người ta tìm ra con gái tôi.
Nicole cần sự giúp đỡ. Cô cầm điện thoại lên và nhấn số của Connor.
Nhấc máy đi, Connor, nhấc máy đi!
Ở đâu đó trong màn đêm đen kịt, rất nhiều tiếng chuông điện thoại vang vọng trong khoảng không. Nicole hiểu là Connor không trả lời điện thoại và cô đã thua trong cuộc chiến này. Một mình đơn độc, cô không thể giữ chồng mình lại.
Trong phòng khách, Mark nằm lại vào tràng kỷ và nghỉ thêm vài giờ nữa.
Anh thức dậy cùng ngày mới, lấy chiếc túi thể thao trong tủ quần áo để cho vào đó một chiếc khăn, một chiếc áo gió, vài gói bánh biscuit cùng khá nhiều rượu.
Nicole bổ sung vào bọc đồ này một chiếc điện thoại di động, một cục pin và một ổ sạc điện.
– Phòng khi anh quyết định gọi Connor, hay là nếu em tìm cách liên lạc với anh…
Khi Mark đẩy cánh cửa ra vào của ngôi nhà, tuyết đã ngừng rơi và những tia sáng đầu tiên của ngày mới đang điểm tô cho thành phố ánh phản chiếu phơn phớt xanh.
Ngay khi Mark đặt chân lên lớp tuyết phủ kín thành phố như một tấm áo choàng dày, chú chó Labrador đen tuyền bỗng hiên ra từ đằng sau thùng rác như có phép màu và bật ra những tràng sủa ăng ẳng. Mark trìu mến gãi nhẹ đầu chú chó. Anh chụm tay lại thổi thổi để sưởi ấm đôi bàn tay, quàng túi xách lên vai và nhằm thẳng hướng cầu Brooklyn.
Đứng trên ngưỡng cửa, Nicole ngắm nhìn người đàn ông của đời mình dần biến mất trong buổi sớm mai. Thế là cô chạy ra giữa phố để hét lên với anh:
– Em cần anh!
Loạng choạng, Mark quay lại cách cô khoảng chục mét rồi hơi nhấc cánh tay lên như thể anh đang tìm cách nói là anh rất lấy làm tiếc.
Rồi anh biến mất sau góc phố.
Chú thích
[1] Danh từ quốc tế hóa để chỉ những sinh viên được gửi sang nước ngoài sống như thành viên trong một gia đình nuôi hay trở thành anh chị cả trong gia đình nuôi người bản xứ để học ngôn ngữ và văn hóa.