Yêu là chăm lo nỗi cô đơn của người khác mà không bao giờ thỏa mãn nó, thậm chí không biết đến nó.
Christian BOBIN
Mark thậm chí không nghe lại tin nhắn một lần nữa. Layla còn sống! Mới phút trước thôi, anh như người đang chuẩn bị bước vào cõi chết, nhưng giờ đây, anh cảm thấy như được tái sinh, được kích động bởi tin tức vừa được nghe.
Anh rời khu cư xá, chạy dọc theo phố Stanton muốn hụt hơi để đến Little Italy. Rất nhiều lần, anh cố thử vẫy một chiếc taxi, nhưng không chiếc nào chấp nhận chở anh. Dù sao đi nữa, anh cũng chẳng có xu nào trong túi. Thây kệ, anh đi lậu vé tàu điện ngầm cho đến tận Brooklyn.
Trong toa tàu điện ngầm, anh ngồi phịch xuống một chiếc ghế để lấy lại hơi. Anh không thể thở được nữa, mắt anh mờ đi, nhưng anh không được phép suy sụp. Không phải lúc này. Anh phải trấn tĩnh lại, dần dần lấy lại trí lực của mình. Ngay cả khi đầu anh sắp nổ tung và tim anh đập dồn một trăm sáu mươi nhịp một phút.
HÃY HỒI SINH! Mày cần phải trở về là mày trước kia. Hãy làm điều đó vì Layla. Con bé còn SỐNG. Mày luôn biết điều đó mà. Mày không biết rõ tại sao, nhưng mày LUÔN biết điều đó.
Anh nhắm mắt lại và cố gắng sắp xếp các ý nghĩ theo trật tự.
Chính vì điều đó mà mày đã cưỡng lại mong muốn đặt dấu chấm hết cho tất cả. Được ở đó khi người ta tìm thấy con bé. Bây giờ, mày sẽ phải giúp đỡ con bé. Mày phải đầy nghị lực vì CON BÉ.
Anh giữ nguyên tư thế này một lúc lâu, và chỉ mở mắt để xem tên trạm dừng khi tàu vào ga.
Trong mớ hỗn độn đang ngự trị trong đầu anh, một điều gì đó bỗng đột nhiên lóe lên. Một trực cảm hơn là sự suy diễn thật sự.
Ngày tháng! Kiểm tra lại ngày tháng!
Trên một trong những chiếc ghế trước mặt Mark có tờ New York Post số ra buổi sáng. Anh vồ lấy tờ báo, cuống cuồng liếc nhanh để xem ngày: thứ Bảy, ngày 24 tháng Ba 2007. Tin nhắn điện thoại của Nicole là vào tối qua. Vậy là người ta đã tìm thấy Layla vào ngày hôm qua.
Ngày 23 tháng Ba 2007!
Tự thân nó, ngày này không hề gợi lên điều gì đặc biệt cả, nhưng đối với anh, ngày này được đánh dấu bằng một vệt sắt nung đỏ, trong trái tim và trong đầu óc anh.
Vào chính ngày 23 tháng Ba 2002, Layla mất tích.
Năm năm trước.
Chính xác không hơn không kém một ngày.
o O o
Mark bước vào con phố nhỏ yên bình của Brooklyn nơi có ngôi nhà từng là “nhà của anh”, nhưng giờ nó không còn là nhà của anh nữa. Trên vỉa hè, anh nhận thấy có xe cảnh sát đậu ở vị trí cấm dừng đó.
Chỉ bằng hai bước chạy, anh đã bước lên bậc thềm nhà rồi gõ gõ vào cửa mà không chịu khó bấm chuông.
Khuôn mặt Nicole hiện ra nơi ngưỡng cửa. Chỉ một ánh mắt của cô đã nói lên tất cả: nỗi đau đớn vì sự vắng mặt, sức mạnh của tình cảm gắn bó chân thành… Rồi cái ôm siết đầu tiên bị cắt ngang bởi sự xuất hiện của một nhân viên FBI, khuất sau bóng vợ anh.
– Xin chào bác sĩ Hathaway, vừa nói viên cảnh sát vừa trình thẻ cảnh sát của mình. Frank Masrshall, văn phòng FBI California, tôi nghĩ là anh vẫn còn nhớ tôi.
Mark quay về phía viên cảnh sát. Có lẽ Nicole đã báo trước cho anh ta bởi anh ta không có vẻ ngạc nhiên khi thấy một tên lang thang đầu đường xó chợ đứng trước mặt mình. Anh ta có thân hình rắn roi kiểu như tài tử Ed Harris: béo lùn, tóc húi cua, vẻ mặt có phần nhân từ. Chính anh ta là người giám sát cuộc điều tra vụ mất tích của Layla.
– Con bé ở đâu rồi? Mark thốt lên. Layla ở đâu rồi?
Nicole mở miệng định nói nhưng Marshall đã trả lời thay cô:
– Cần phải hết sức thận trọng, bác sĩ Hathaway, vừa nhắc anh ta vừa đi về phía chiếc máy tính xách tay đang đặt trên bàn trong phòng khách. Hiện tại, chúng tôi không chắc chắn 100% đó có phải con gái anh không. Quá trình xét nghiệm ADN đang được tiến hành sẽ nói cho chúng ta nhiều điều hơn nữa.
Marshall nhấn một phím trên bàn phím và khuôn mặt một bé gái xuất hiện trên màn hình.
– Bức ảnh này được chụp vào hôm qua, vài tiếng sau khi cô bé tái xuất hiện.
Mark cúi sát xuống màn hình.
– Đó là Layla! Anh khẳng định không chút do dự. Đó là con gái của chúng tôi!
– Đó là điều tôi hy vọng, Marshall trả lời.
– Tôi muốn gặp con bé!
– Cô bé hiện giờ không ở New York, bác sĩ ạ.
Mark tiến về phía Marshall.
– Con bé đang ở đâu?
– Ở Los Angeles, trong một trung tâm chăm sóc y tế, bệnh viện Saint Francis Memorial.
– Như thế nào… con bé như thế nào rồi?
– Khó có thể nói được. Bác sĩ đang làm tất cả các xét nghiệm. Còn quá sớm để…
– Nó đã bị đánh đập, bị cưỡng hiếp?…
– Thẳng thắn mà nói, chúng tôi không biết gì về điều đó cả.
Mark bùng nổ:
– Sao cơ, các anh không biết gì về điều đó hả?
Anh tiến lại sát gần viên cảnh sát cho đến khi chạm vào anh ta và khinh bỉ nhìn anh ta bằng vẻ đe dọa.
– Bình tĩnh lại nào, vừa nói Marshall vừa lùi lại. Tôi sẽ đưa mọi việc vào trật tự như tôi đã làm với vợ anh.
Nicole dẫn hai người vào bếp và chuẩn bị cà phê cho cả hai. Hai người đàn ông ngồi sát cạnh nhau và Marshall lấy quyển sổ tay ghi chép trong túi ra để chắc chắn không bỏ sót điều gì.
– Một cô bé khoảng mười tuổi đã được tìm thấy ngày hôm qua, vào tầm mười bảy giờ, đang đi lang thang tại một trong những lối đi của SunShinePlaza ở Quận Cam, LA.
Mark lấy tay ôm đầu. Marshall tiếp tục:
– Độ tuổi, đường nét giống nhau, dấu vết khi sinh, vết sẹo ở cằm của cô bé: tất cả khiến chúng tôi nghĩ rằng đó là con gái anh.
– Trung tâm thương mại đó, Mark thở dồn, chính tại nơi đó…
– … cô bé đã mất tích, cách đây tròn năm năm, chính xác không hơn không kém một ngày, Marshall bổ sung.
Một thoáng hoài nghi xuất hiện trên gương mặt Mark.
– Cùng một giờ, cùng một địa điểm, cách nhau đúng năm năm…
– Gọi đó là một sự tình cờ thật không chính xác, tôi đồng ý với anh.
– Thế còn Layla, con bé đã nói gì với anh?
– Vấn đề nằm ở chỗ đó, bác sĩ Hathaway, con gái anh không nói gì cả.
Mark nhíu mày.
– Con gái anh đến một từ cũng chẳng nói, Frank giải thích, không nói với chúng tôi cũng như không nói với các nhân viên y tế chăm sóc cô bé từ tối hôm qua.
Chứng lặng thinh hoàn toàn?
Mark đã suy nghĩ trong vai trò một bác sĩ. Rất nhiều lần, trong nghề của mình, anh đã chăm sóc những đứa trẻ bị chứng lặng thinh loạn tâm thần.
– Tôi nghe thế đủ rồi! vừa nói anh vừa đứng bật dậy. Tôi sẽ đi Los Angeles, tôi sẽ đi tìm Layla.
– Chúng tôi đã đặt sẵn chỗ cho anh vào ngày hôm nay hoặc ngày mai, Frank vừa nói vừa đến lượt mình đứng lên. Hãy gọi cho tôi khi anh đã sẵn sàng. Một trong những chiếc xe của chúng tôi sẽ chở anh ra sân banh ấy.
– Chúng tôi đã sẵn sàng, Mark dứt khoát. Không cần phải chờ đợi.
Bầu không khí im lặng gượng ép bỗng nhiên bao trùm cả căn phòng, rồi Nicole lên tiếng:
– Không!
Mark quay về phía vợ mình ra dấu không hiểu.
Thay cho câu trả lời, Nicole chỉ tay về phía vách kính. Mark nhìn tấm kính và nhìn hình ảnh phản chiếu trong đó như trong chiếc gương soi. Đó là hình ảnh một con người xa lạ, gầy gò, cáu bẩn, tóc dài thượt và bẩn thỉu, râu ria xồm xoàm, mặt hốc hác, mắt vằn máu. Anh khiến người khác sợ.
– Anh không muốn con bé gặp anh trong bộ dạng như vậy chứ, đúng không?
Xấu hổ, Mark cúi đầu, ra hiệu đồng ý.
o O o
– May mắn là tất cả các khách hàng của tôi không làm giống anh! Jo Callahan, một trong những barbershop truyền thống cuối cùng ở Brooklyn lẩm bẩm. Mất HAI NĂM mới đi cắt tóc một lần, thật không hợp lẽ chút nào, bác sĩ Hathaway! Và tôi thậm chí còn chưa nói đến bộ râu đâu đấy!
Người thợ cắt tóc già phải mất một tiếng nỗ lực mới hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của mình. Vốn làm việc cẩn thận, ông đặt một tấm gương hình oval phía sau gáy Mark để anh có thể đánh giá kiểu tóc mới của anh.
– Lần tới, tôi hy vọng không phải để quá lâu như vậy, Mark hứa.
Với mười phân tóc được cắt đi và bộ râu được cạo nhẵn nhụi, anh tự khám phá khuôn mặt mà anh phải khó khăn lắm mới nhận ra.
Sau khi rời khỏi tiệm cắt tóc, Mark lượn nhanh một vòng trong cửa hàng sang trọng ở Park Slope nơi anh từng thường xuyên lui tới khi vẫn còn là một bác sĩ trẻ đầy triển vọng và đầy tham vọng. Một chiếc quần âu, một chiếc áo vest cắt may rất khéo, và cuối cùng là chiếc áo phông có cổ thời trang có trang trí hình con cá sấu mạ bạc… hiển nhiên là quần áo làm nên thầy tu. Mới cách đây vài giờ thôi, anh chỉ là một kẻ thân tàn ma dại lang thang trong những khu ổ chuột nhếch nhác, thế mà giờ đây, chỉ với chút mỹ phẩm và vài thay đổi, anh lại một lần nữa có thể lừa phỉnh người khác.
Anh đi bộ quay lại căn hộ. Trước cửa nhà, chiếc xe cảnh sát đã biến mất.
Thế là rảnh rang!
Khi anh định bấm chuông thì sực nhớ ra là Nicole đã đưa lại anh chùm chìa khóa riêng. Anh mở cửa và bước vào hành lang. Các cửa sổ mở toang. Phòng khách chìm trong làn ánh sáng mùa xuân, tỏa ngát hương chanh và hương hoa cam. Một chiếc đĩa CD nhạc Keith Jarrett đang chạy trong dàn hi-fi, truyền khắp căn phòng một cơn mưa những âm thanh trong như pha lê. The Köln Concert: sự phong thần dành cho Jarrett, bản hòa âm ứng tấu hay nhất mọi thời đại, đĩa nhạc jazz thậm chí còn khiến cả những ai không yêu thích nhạc jazz cũng phải hài lòng. Mark đã bị cuốn theo dòng cảm xúc. Đối với Mark, chiếc đĩa nhạc có một giá trị tình cảm đặc biệt: Nicole đã tặng anh chiếc đĩa này vào thời điểm bắt đầu câu chuyện tình yêu của hai người.
– Nicole? Mark gọi.
Không tiếng trả lời. Chắc cô ấy đang ở trên gác.
Anh vội vàng bước lên cầu thang mấy bậc một.
– Nicole?
Anh mở cửa phòng tắm.
Tịnh không một ai.
Anh dừng lại trước ngưỡng cửa phòng ngủ. Gắn trên cánh cửa phòng là một tấm bưu thiếp có hai hình bóng quấn chặt lấy nhau bồng bềnh trong làn hơi nước mờ ảo. Mark nhận ngay ra đó là La Valse, bức tượng của Camille Claudel mà cả hai đã cùng chiêm ngưỡng ở bảo tàng Rodin trong chuyến du lịch đầu tiên tới Paris.
Âm nhạc của Jarrett, tình yêu đầy đam mê của Camille Claudel. Hai “chiếc bánh madeleine” do Nicole để lại kéo anh về với quá khứ xa xôi.
Nhưng vợ anh đâu rồi?
Lúng túng, anh gỡ tấm bưu thiếp ra khỏi cửa và nhận thấy ở mặt sau vài chữ viết vội:
Mark, tình yêu của em,
Đừng lo lắng gì cho em cả. Em vẫn ổn, tuy vậy em không thể đi Los Angeles bây giờ được.
Nhưng có một điều khiến em hết sức quan tâm: lại một lần nữa được ở bên anh và con gái của chúng ta.
Nhưng em không thể làm vậy.
Chuyến đi này anh phải tự đi một mình.
Mong anh thứ lỗi vì không thể nói nhiều hơn được nữa.
Sau này anh sẽ hiểu.
Cho dù sau này có xảy ra chuyện gì đi nữa, anh vẫn biết là em đã luôn yêu anh và sẽ mãi yêu anh.
Nicole