Cái Ghế Trống
CHƯƠNG 3
Rhyme có thể nhận ra những nét giống nhau khi anh tập trung hơn vào vị khách.
Cùng cái vóc người rắn chắc, đôi bàn tay dài, mái tóc bắt đầu thưa, cùng cái vẻ dễ tính như của ông anh họ Roland ở New York. Cái anh chàng Bell này trong rám nắng và vạm vỡ hơn. Có lẽ đi câu kéo và săn bắn nhiều. Một chiếc mũ Stetso(8) hẳn sẽ phù hợp với anh ta hơn chiếc mũ cảnh sát quận. Bell ngồi xuống chiếc ghế dựa bên cạnh Thom.
(8) Một nhãn hiệu mũ do công ty John B.Stetson, Mỹ, sản xuất, đôi khi được sử dụng như một danh từ chung chỉ mũ của dân chăn bò (Cao bồi).
“Chúng tôi có một vấn đề, thưa sếp.”
“Xin cứ gọi tôi bằng tên.”
“Tiếp tục đi,” Sachs bảo Bell. “Hãy nói với anh ấy chuyện anh vừa nói với tôi.”
Rhyme liếc nhìn Sachs lạnh nhạt. Cô ấy mới gặp người đàn ông này ba phút trước và họ đã kịp cấu kết với nhau gì thế không biết.
“Tôi là cảnh sát trưởng quận Paquenoke. Cách đây chừng hai mươi dặm về phía đông. Chúng tôi gặp phải tình huống này và tôi suy nghĩ về những gì anh họ tôi nói với tôi – anh ấy không có đủ lời để đánh giá sếp cho hết được, thưa sếp…”
Rhyme sốt ruột gật đầu ra hiệu bảo Bell tiếp tục. Tự nhủ thầm vị bác sĩ của anh ở chỗ quái quỷ nào rồi? Chị ta phải đào bới bao nhiêu tờ khai thế không biết? Liệu chị ta có cùng tham gia vào cái âm mưu này không?
“Dù sao thì, tình huống này… Tôi nghĩ là mình sẽ đến và xem sếp có thể dành cho chút ít thời gian không.”
Rhyme cười to, tiếng cười hoàn toàn chẳng biểu lộ chút hài hước nào. “Tôi chuẩn bị lên bàn mổ rồi.”
“Ồ, tôi hiểu điều đó. Đời nào tôi lại can thiệp vào kế hoạch của sếp. Tôi chỉ muốn xin sếp mấy tiếng đồng hồ… Tôi hy vọng rằng chúng tôi không cần sếp phải giúp đỡ nhiều lắm. Sếp thấy đấy, anh Rol đã nói với tôi về một số việc sếp từng làm trong những cuộc điều tra trên miền Bắc. Chúng tôi có các thiết bị khám nghiệm hiện trường cơ bản, nhưng phần lớn công tác khám nghiệm vẫn được chuyển đến Elizabeth City – chỉ huy sở gần nhất của cảnh sát bang – hoặc Raleigh. Phải mất hàng tuần lễ mới có được câu trả lời. Và chúng tôi thì không có đến hàng tuần lễ. Thời gian của chúng tôi chỉ tính bằng tiếng đồng hồ thôi. Là lâu nhất.”
“Để làm gì?”
“Để tìm ra hai cô gái bị bắt cóc.”
“Bắt cóc thuộc trách nhiệm của liên bang,” Rhyme nêu ý kiến. “Hãy gọi FBI.”
“Tôi không thể nhớ nổi lần cuối cùng có một đặc vụ liên bang đến dây là bao giờ, trừ đám nhân viên ATF(9)lo bắt rượu lậu. Chờ được FBI đến đây và bắt đầu điều tra thì hai cô gái đó đã chẳng còn hy vọng gì.”
(9) ATF (viết tắt của Bureau of Alcohol, Tobacco, Firearms and Explosives): Vụ Thuốc lá, Rượu, Vũ khí và Chất nổ (thuộc Bộ Tư pháp, Mỹ).
“Hãy nói cho chúng tôi biết chuyện xảy ra như thế nào,” Sachs bảo. Cô đang vờ vịt đeo bộ mặt quan tâm, Rhyme thầm hoài nghi nhận xét – và kèm theo là sự bất mãn.
Bell nói:
“Ngày hôm qua, một nam sinh trung học của chúng tôi bị giết và một nữ sinh viên đại học bị bắt cóc. Rồi sáng nay, đối tượng quay lại bắt cóc một cô gái nữa.” Rhyme để ý thấy gương mặt người đàn ông tối sầm. “Hắn đặt bẫy và một cảnh sát của chúng tôi bị thương nặng. Ông ấy hiện đang nằm tại trung tâm y khoa này, trong tình trạng hôn mê.”
Rhyme nhận ra Sachs đã thôi chọc móng tay vào tóc gãi đầu và lắng nghe Bell nói một cách say mê. Chà, có lẽ họ chẳng phải những kẻ đồng mưu, nhưng Rhyme biết lý do tại sao cô lại quan tâm tới một vụ mà họ không còn thời gian tham gia như vậy. Và anh không thích cái lý do ấy chút nào. “Amelia,” anh lên tiếng, lạnh lùng liếc nhìn chiếc đồng hồ treo tường trong văn phòng Tiến sĩ Weaver.
“Tại sao lại không, Rhyme? Việc đó có thể làm hại gì chứ?” Cô hất mái tóc đỏ ra khỏi bờ vai, trên bờ vai cô nó đang buông dài tựa như một thác nước bất động.
Bell lại liếc qua dải xương sống đặt ở góc phòng. “Chúng tôi là một đồn nhỏ, thưa sếp. Chúng tôi đã làm những gì có thể – tất cả nhân viên của tôi và một số người khác nữa đã tìm kiếm suốt đêm. Nhưng, thực tế là, chúng tôi chẳng thể tìm thấy hắn hay Mary Beth. Chúng tôi cho rằng Ed, viên cảnh sát đang hôn mê, đã xem tấm bản đồ chỉ hướng thằng nhãi đi. Tuy nhiên, các bác sĩ không biết lúc nào ông ấy mới tỉnh lại, mà cũng không biết ông ấy có tỉnh lại được không nữa.” Anh ta nhìn lại vào mắt Rhyme, vẻ nài nỉ. “Chúng tôi chắc chắn rất biết ơn nếu sếp có thể xem những chứng cứ chúng tôi tìm thấy và cho chúng tôi bất cứ gợi ý nào về hướng thằng nhãi đi. Chúng tôi không giải quyết nổi vấn đề. Tôi rất cần sự giúp đỡ.”
Nhưng Rhyme không hiểu. Công việc của một nhà hình sự học là phân tích những chứng cứ để hỗ trợ các điều tra viên xác định thủ phạm và tiếp theo để buộc tội hắn trước toà. “Các anh biết đối tượng là ai, các anh biết nơi hắn sống. Uỷ viên công tố của các anh sẽ có một vụ thật kín kẽ.” Thậm chí nếu họ đã tiến hành khám nghiệm hiện trường chẳng đâu vào đâu – đám nhân viên thực thi pháp luật ở các thị trấn nhỏ thừa khả năng để xảy ra việc này – cũng còn vô khối chứng cứ cho tòa án kết án trọng tội.
“Không, không – không phải chuyện xét xử khiến chúng tôi lo lắng, thưa sếp. Vấn đề là tìm thấy hắn trước khi hắn giết hai cô gái kia. Hay ít nhất là Lydia. Chúng tôi nghĩ Mary Beth có thể đã chết rồi. Sếp thấy đấy, khi vụ việc này xảy ra, tôi đã giở cuốn hướng dẫn cảnh sát bang về điều tra trọng tội. Sách nói rằng trong một trường hợp bắt cóc cưỡng hiếp, thông thường anh có hai mươi tư tiếng đồng hồ để tìm thấy nạn nhân, sau khoảng thời gian đó nạn nhân trở nên mất tính người dưới con mắt kẻ bắt cóc và hắn sẽ giết họ chẳng cần suy nghĩ gì.”
Sachs hỏi:
“Anh gọi đối tượng là thằng nhãi. Hắn bao nhiêu tuổi?”
“Mười sáu.”
“Vị thành niên.”
“Về nguyên tắc là thế,” Bell nói. “Nhưng lịch sử phạm tội của hắn tồi tệ hơn phần lớn những kẻ gây tội đã thành niên ở đây.”
“Các anh làm việc với gia đình hắn rồi chứ?” Sachs hỏi, y như thể chắc chắn cô và Rhyme sẽ tham gia vụ án vậy.
“Cha mẹ đẻ đã chết. Hắn có cha mẹ nuôi. Chúng tôi tới nhà họ và xem xét phòng hắn. Không phát hiện thấy cái cửa lật bí mật nào, cũng không phát hiện thấy nhật ký hay bất cứ thứ gì.”
Chẳng bao giờ phát hiện được gì đâu, Lincoln Rhyme tự nhủ thầm, chân thành mong người đàn ông này sẽ mau mau mang những vấn đề của anh ta quay về với cái quận phát âm đến méo cả miệng.
“Em nghĩ chúng ta nên tham gia, Rhyme,” Sachs nói.
“Sachs, cuộc phẫu thuật…”
Cô tiếp tục: “Hai nạn nhân trong vòng hai ngày? Hắn có thể thuộc loại tội phạm thực hiện hàng loạt vụ.” Tội phạm thực hiện hàng loạt vụ giống như con nghiện. Ðể thỏa mãn nỗi khát thèm bạo lực ngày càng tăng, tần suất và mức độ nghiêm trọng trong những hành động của chúng sẽ ngày càng tăng.
Bell gật đầu. “Chị đúng đấy. Ngoài ra, còn những việc tôi chưa đề cập. Hai năm qua ở quận Paquenoke có ba cái chết khác nữa và mới vài ngày trước đây thôi có một vụ tự tử đáng nghi vấn. Chúng tôi nghĩ có thể thằng nhãi liên quan đến tất cả những trường hợp này. Chúng tôi chỉ không tìm thấy đủ bằng chứng để bắt hắn.”
Nhưng lúc bấy giờ tôi không tham gia vào cuộc điều tra, bây giờ, tôi có tham gia không nhỉ? Rhyme tự nhủ, trước khi ngẫm nghĩ ra rằng lòng kiêu hãnh rất có thể là thứ tội lỗi sẽ tấn công anh.
Anh miễn cưỡng cảm thấy cái hộp số trong đầu óc mình bắt đầu chuyển động, mà yếu tố kích thích là những vấn đề hóc búa của vụ án. Cái đã giữ cho Lincoln Rhyme không phát điên kể từ lúc gặp tai nạn – cái đã khiến anh không tìm đến một ông Jack Kevorkian (10) nào đấy để được trợ giúp tự tử – chính là những thách thức trí tuệ như thế này.
(10) Nhà bệnh lý học, công khai ủng hộ quyền được chết của một người mắc bệnh nan y thông qua việc tự tử có bác sĩ trợ giúp.
“Cuộc phẫu thuật của anh ngày kia mới tiến hành, Rhyme,” Sachs thuyết phục. “Và từ nay tới lúc phẫu thuật anh chỉ có các xét nghiệm đó thôi.”
A, những động cơ ngấm ngầm của em đang hiện ra kìa, Sachs…
Nhưng cô đã ghi được điểm. Rhyme đang nhìn vào khoảng thời gian nhàn rỗi xông xênh trước mắt. Và nó sẽ là khoảng thời gian nhàn rỗi trước phẫu thuật – tức sẽ không có rượu Scotch mười tám năm. Dù sao thì một người liệt tứ chi biết làm gì ở một thị trấn nhỏ của Bắc Carolina đây? Kẻ thù ghê gớm nhất của Rhyme không phải là các cơn co thắt, nỗi đau đớn tưởng tượng hay chứng tăng phản xạ vốn vẫn khiến những bệnh nhân mắc bệnh tủy sống khổ sở, mà nó là tâm trạng buồn tẻ.
“Tôi sẽ cho các anh một ngày,” cuối cùng Rhyme nói. “Miễn sao là nó không trì hoãn cuộc phẫu thuật. Tôi đã phải ở trong danh sách chờ mổ suốt mười bốn tháng.”
“Đồng ý, thưa sếp,” Bell trả lời. Gương mặt mệt mỏi của anh ta sáng lên.
Nhưng Thom lắc đầu. “Nghe này, Lincoln, chúng ta không ở đây để làm việc. Chúng ta ở đây để mổ cho anh và rồi trở về nhà. Tôi đâu có được một nửa số thiết bị cần thiết để chăm sóc anh nếu anh làm việc.”
“Chúng ta đang ở trong một bệnh viện, Thom. Tôi chẳng ngạc nhiên nếu tìm thấy hầu hết những gì cậu cần ở đây. Chúng ta sẽ trao đổi với Tiến sĩ Weaver. Tôi chắc chắn chị ấy sẽ vui vẻ giúp đỡ chúng ta.”
Anh chàng phụ tá, đỏm dáng trong chiếc áo sơ mi trắng, quần và cà vạt màu nâu vàng là phẳng phiu, nói: “Xin nhớ cho, tôi không nghĩ đây là ý kiến hay đâu.”
“Nhưng cũng giống như các tay thợ săn ở mọi nơi – dù đi lại được hay không – một khi Lincoln Rhyme đã quyết định đuổi theo con mồi, không có gì là vấn đề nữa. Lúc này, anh phớt lờ Thom và bắt đầu thẩm vấn Jim Bell.
“Hắn chạy trốn bao lâu rồi?”
“Mới vài tiếng đồng hồ,” Bell nói. “Việc tôi sẽ làm là yêu cầu một cảnh sát đem đến các chứng cứ mà chúng tôi đã tìm thấy và có thể cả bản đồ vùng này. Tôi đang nghĩ…”
Nhưng giọng Bell nhỏ đến khi Rhyme lắc đầu và cau mày. Sachs nín cười, cô biết điều gì chuẩn bị tới.
“Không,” Rhyme đáp dứt khoát. “Chúng tôi sẽ tới chỗ các anh. Các anh sẽ phải bố trí địa điểm cho chúng tôi – nói lại xem quận lỵ ở đâu nhỉ?”
“Ừm, Tanner’s Corner.”
“Bố trí địa điểm để chúng tôi có thể làm việc. Tôi sẽ cần một trợ lý khám nghiệm hiện trường… Các anh có la-bô (11) tại trụ sở chứ?”
(11) Nguyên văn là “lab”: phòng thí nghiệm.
“Chúng tôi ấy à?” viên cảnh sát trường bối rối hỏi. “Hầu như không có gì.”
“Được rồi, chúng tôi sẽ cho anh danh sách các thiết bị chúng tôi cần. Anh có thể mượn từ cảnh sát bang.” Rhyme nhìn đồng hồ treo tường. “Chúng tôi có thể tới đó sau nửa tiếng. Ðúng không, Thom?”
“Lincoln.”
“Đúng không?”
“Nửa tiếng,” anh chàng phụ tá nhẫn nhục lẩm bẩm.
Bây giờ thì ai ở trong tâm trạng không vui đây?
“Hãy lấy các tờ khai ở chỗ Tiến sĩ Weaver. Mang chúng theo. Cậu có thể điền thông tin trong lúc Sachs và tôi làm việc.”
“Được rồi, được rồi.”
Sachs đang ghi một danh sách các thiết bị khám nghiệm hiện trường cơ bản. Cô giơ lên cho Rhyme đọc. Anh gật đầu, rồi nói: “Bổ sung thêm thiết bị xác định mật độ. Những cái khác có vẻ ổn rồi.”
Sachs bổ sung thêm vào danh sách rồi đưa cho Bell. Anh ta đọc, ngập ngừng gật đầu:
“Vâng, tôi sẽ cố gắng. Nhưng tôi thực không muốn sếp bị phiền phức quá….”
“Jim, hy vọng tôi có thể phát biểu thẳng thắn.”
“Tất nhiên ạ.”
Nhà hình sự hạ thấp giọng: “Chỉ xem xét một chút chứng cứ sẽ không đem đến tác dụng gì. Nếu việc này được thực hiện, Amelia và tôi sẽ chịu trách nhiệm săn đuổi đối tượng. Chịu trách nhiệm một trăm phần trăm. Bây giờ, anh thành thật nói xem – như thế có gây rắc rối gì cho ai không?”
“Tôi xin đảm bảo là không,” Bell trả lời.
“Tốt. Bây giờ thì anh nên đi lấy các thiết bị đó. Chúng tôi phải di chuyển đây.”
Và cảnh sát trưởng Bell còn đứng đó một lát, gật đầu, một tay cầm mũ, một tay cầm bản danh sách Sachs đưa, trước khi bước về phía cửa. Rhyme chắc chắn rằng ông anh họ Roland, một người mang nhiều đặc tính của dân miền Nam, có vẻ mặt hoàn toàn giống vẻ mặt viên cảnh sát trưởng. Rhyme không nhớ chính xác câu thành ngữ đó thế nào, nhưng đại khái nó liên quan đến đuôi con gấu (12).
(12) Câu thành ngữ đó là: “Have a bear by the tail” (Nắm đuôi con gấu), ý nói ở vào hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm.
“Ồ, còn một điều nữa,” Sachs nói, gọi theo Bell vừa bước qua cửa. Anh ta dừng chân, quay đầu lại. “Đối tượng? Tên hắn là gì?”
“Garrett Hanlon. Nhưng ở Tanner’s Corner người ta gọi hắn là Thằng Bọ.”
***
Paquenoke là một quận nhỏ nằm ở mạn đông bắc Bắc Carolina. Tanner’s Corner, gần như ở trung tâm của quận, là thị trấn lớn nhất và được vây bọc bởi từng cụm những khu dân cư cũng như những khu buôn bán nhỏ hơn, chưa chính thức thuộc phạm vi chính quyền quản lý, ví dụ khu Bến tàu kênh Nước đen co cụm bên sông Paquenoke – mà hầu hết dân địa phương gọi là sông Paquo – cách quận lỵ vài dặm về phía bắc.
Về phía nam con sông tập trung phần lớn các khu vực dân cư và buôn bán của quận. Phía này rải rác những đầm lầy, những cánh rừng, đồng ruộng và những cái ao tĩnh lặng. Gần như tất cả dân cư đều sinh sống ở phía này cả. Ngược lại, phía bắc Sông Paquo, địa hình rất nguy hiểm. Đầm lầy Sầu Thảm từng lấn vào, nuốt mất những khu nhà lưu động, những khu nhà cố định, vài nhà máy xay và xí nghiệp bên bờ sông. Các bãi lầy uốn khúc đã thay thế cho những cái ao, những đồng ruộng và rừng, chủ yếu là rừng già, thì không thể vào được, trừ phi người ta đủ may mắn để tìm thấy một lối mòn. Chẳng ai sinh sống ở phía ấy của con sông trừ đám rượu lậu, ma túy và những kẻ dở hơi rồ dại. Thậm chí cánh thợ săn cũng tránh khu vực này sau sự việc bầy lợn lòi đuổi theo Tal Harper cách đây hai năm, nửa bầy đã bị bắn chết vẫn không khiến số còn lại ngừng ngấu nghiến cắn xé anh ta trước khi có sự trợ giúp.
Giống như hầu hết người trong quận, Lydia Johansson hiếm khi đi về phía bắc sông Paquo, và nếu đi thì không bao giờ đi quá xa khỏi thị trấn. Lúc này, với nỗi tuyệt vọng cùng cực, cô nhận ra rằng cô đã bước qua cái ranh giới nào đấy để đặt chân sang một chốn mà từ đó có lẽ cô sẽ không bao giờ trở về – cái ranh giới không chỉ đơn thuần về địa lý, nó còn là ranh giới về tinh thần.
Tất nhiên, cô khiếp sợ bị kéo lê đằng sau cái sinh vật này – khiếp sợ cái cách gã nhìn ngó khắp cơ thể cô, khiếp sợ sự đụng chạm của gã, khiếp sợ bị chết bởi cái nóng – hoặc bởi say nắng, bởi rắn cắn – nhưng điều khiến cô khiếp sợ nhất là cô ý thức được rằng cô đã bỏ lại sau lưng, phía nam con sống, đời sống dễ chịu, mong manh, nhỏ bé của mình: vài bạn bè và các y tá cùng làm việc tại phòng bệnh, anh chàng bác sĩ mà cô mất công tán tỉnh vô ích, những bữa tiệc pizza, bộ phim Sièneld chiếu lại trên truyền hình, mấy cuốn truyện kinh dị, món kem lạnh, đám cháu con chị gái cô. Cô thậm chí còn khao khát ngoảnh lại những quãng thời gian khổ sở trong cuộc đời – cuộc vật lộn với cân nặng, cuộc đấu tranh để bỏ thuốc lá, những đêm đơn côi, sự thiếu vắng đằng đẵng những cú điện thoại từ người đàn ông cô thi thoảng gặp (cô gọi anh ta là “bạn trai,” tuy cô biết rằng đó chỉ là mơ tưởng)… Giờ đây ngay cả những điều này cũng dường như gây nên nỗi đau xót mãnh liệt, đơn giản bởi chúng quá thân thuộc.
Nhưng bên Lydia giờ đây không có lấy một chút an ủi nào.
Cô nhớ cái cảnh tượng khủng khiếp tại căn chòi săn – Ed Schaeffer nằm bất tỉnh nhân sự trên nền đất, hai cánh tay và khuôn mặt bị bầy ong bắp cày đốt sưng vù một cách quái dị. Garrett đã lầm bầm: “Đáng lẽ lão ta không được động vào chúng. Đám ong bắp cày chỉ tấn công khi gặp nguy hiểm thôi. Đó là lỗi của lão ta.” Gã từ từ bước vào bên trong căn chòi nhặt nhạnh những thứ gì đó, đám ong phớt lờ hắn. Gã trói tay Lydia ra phía trước bằng băng dính nhựa, rồi dẫn cô đi xuyên qua rừng cho tới lúc này đã đươc vài dặm.
Gã trai bối rối di chuyển, kéo giật cô về một hướng, rồi lại kéo giật cô về một hướng khác. Gã tự nói với mình. Gã gãi những vết đỏ trên mặt. Một lần, gã dừng chân bên một vũng nước và nhìn chằm chằm. Gã đợi cho mấy con rệp hay nhện gì đó nhảy khỏi mặt nước, rồi áp mặt mình xuống nước, ngâm làn da đang ngứa rát. Gã nhìn xuống bàn chân, cởi chiếc giày còn lại ra và lẳng đi. Hai người tiếp tục xuyên qua rừng trong buối sáng nóng nực.
Lydia liếc nhìn tâm bản đồ thò ra bên ngoài túi quần gã trai.
“Chúng ta đi đâu đây?” cô hỏi.
“Câm mồm. Nghe không?”
Mười phút sau, gã trai bắt Lydia cởi giày và hai người lội qua một con suối nông, bẩn thỉu. Khi lội qua con suối rồi, gã đẩy cô ngồi bệt xuống. Garrett ngồi trước mặt cô và trong lúc quan sát đôi chân, khe ngực cô, gã chậm rãi lau khô bàn chân cô bằng nắm giấy ăn nhãn hiệu Kleenex mà gã lôi từ túi quần ra. Cô cảm thấy ghê tởm trước sự đụng chạm của gã giống như lần đầu tiên cô phải lấy mẫu mô từ một xác chết trong nhà xác bệnh viện. Gã xỏ lại đôi giày màu trắng cho cô, buộc dây chặt chẽ, nắm bụng chân cô lâu hơn mức cần thiết. Sau đó, gã xem xét tấm bản đồ và lại lôi cô vào rừng.
Gã búng móng tay, gãi má…
Đầm lầy dần dần chằng chịt hơn, nước đen hơn và sâu hơn. Lydia đồ là họ đang đi về phía đầm lầy Sầu Thảm, tuy cô không tưởng tượng nổi lý do tại sao. Chỉ khi không thể đi xa thêm vì bị những bãi lầy chặn lại, Garrett mới ngoặt vào một cánh rừng thông lớn mát mẻ hơn nhiều so với đất lộ ra trên những bãi lầy, khiến Lydia nhẹ cả người.
Gã trai tìm thấy một lối mòn khác. Gã dẫn cô đi dọc theo đó cho tới lúc gặp một quả đồi dốc đứng. Những tảng đá xếp thành dãy từ chân đồi đến đỉnh đồi.
“Tôi không thể trèo được,” Lydia nói, cố gắng lấy giọng ngang ngạnh. “Không thể với hai bàn tay bị trói như thế này. Tôi sẽ ngã mất.”
“Vớ vẩn.” Gã trai lẩm bẩm, y như thể Lydia là một kẻ ngu ngốc. “Mày đã đi đôi giày y tá vào rồi còn gì. Chúng sẽ giữ cho mày bước vững. Nhìn tao đây. Tao, đi chân đất và tao có thể trèo tốt. Nhìn bản chân tao đây, nhìn đi!” Gã giơ bàn chân lên. Bàn chân gã đầy vết chai, vàng khè. “Nào, đi lên trên kia. Chỉ cần lên đến đỉnh đồi rồi thì mày dừng lại. Mày nghe thấy tao nói không? Này, mày đang lắng nghe đấy chứ?” Gã lại rít lên, một hạt nước bọt bắn vào má cô và dường như nó đốt cháy da cô tựa axit sunfuric.
Lạy Chúa, tao căm thù mày, Lydia nghĩ.
Lydia bắt đầu trèo. Cô dừng lại nửa chừng, ngoảnh nhìn đằng sau. Garrett đang vừa thận trọng quan sát cô vừa búng móng tay tanh tách. Dán mắt vào đôi chân đi bít tất dài màu trắng của cô, lưỡi gã thè ra qua đám răng cửa. Rồi ánh mắt gã đưa lên, soi phía dưới váy cô.
Lydia tiếp tục trèo. Cô nghe thấy hơi thở gã trai rít lên trong lúc gã bắt đầu trèo đằng sau cô.
Trên đỉnh đồi là khoảng đất trống và từ đó có một lối mòn duy nhất dẫn vào cánh rừng thông rậm rạp. Cô bước dọc theo lối mòn, về phía bóng mát.
“Này!” Garrett hét to. “Lúc nãy mày không nghe thấy tao nói à? Tao đã bảo mày đừng có nhúc nhích!”
“Tôi có định bỏ trốn đâu!” Lydia kêu lên. “Trời nóng. Tôi muốn tránh ánh nắng mặt trời.”
Gã trai đưa tay chỉ ra cách đấy chứng hai mươi feet. Có một lớp cành thông dày phủ giữa lối mòn. “Mày mà không dừng lại thì sa xuống đó rồi.” Giọng gã the thé. “Mày sẽ làm hỏng nó.”
Lydia thận trọng nhìn. Những chiếc là thông hình kim che một cái hố rộng.
“Bên dưới đó có gì?”
“Một cái bẫy sập.”
“Bên trong có gì?”
“Mày biết đấy – nó là sự bất ngờ dành cho đứa nào đuổi theo chúng ta.” Gã trai nói vẻ tự hào, mỉm nụ cười đầy ngạo mạn, y như gã đã phải rất thông minh mới nghĩ ra được cái bẫy.
“Nhưng bất cứ ai cũng có thể bị sa xuống!”
“Mẹ kiếp!” gã trai lầm bầm. “Đây là phía bắc sông Paquo. Chỉ những đứa đuổi theo chúng ta mới đi đường này. Và bọn chúng xứng đáng lãnh lấy bất cứ điều gì xảy ra. Tiếp tục thôi.” Gã trai lại rít lên. Gã tóm cổ tay cô và dắt cô đi vòng tránh cái bẫy.
“Cậu không phải giữ tôi chặt như thế!” Lydia phản đối.
Garrett liếc nhìn cô rồi nới lỏng tay hơn một chút – nhưng việc nới lỏng này lại hóa ra gây khó chịu nhiều hơn. Gã vuốt ve cổ tay cô bằng ngón giữa, khiến cô liên tưởng tới một con ve hút máu to tướng đang tìm kiếm chỗ để chích vào da thịt cô.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.