Osgood đã quan sát tôi rất chăm chú, anh ta lên tiếng:
– Ông tỏ vẻ hài lòng thì phải, mặc dù trông ông có vẻ ngạc nhiên.
– Đúng là tôi vừa hài lòng vừa ngạc nhiên. – Tôi không đứng ỳ ra một chỗ nữa, mà đi về phía trước, đi sâu vào luồng khí lạnh lẽo trong nhà xác, một luồng khí vừa đột ngột trở thành quá lạnh.
Xác chết nằm trên bàn. Một cái bàn nhựa màu xám. Cô ta mặc một chiếc váy dài màu trắng, những vệt son phấn vẫn còn nguyên trên mặt, mái tóc đỏ được buộc lên cao. Chỉ có điều tôi không phát hiện thấy con dao găm đâu cả. Khuôn mặt trông nhợt nhạt đờ dại, da như đã trở thành trong suốt. Màu xanh nhạt của đôi con ngươi gây ấn tượng như một vũng nước yên lặng, yên lặng đến nỗi một chút gió thoảng cũng không có. Cô ta đang nằm kia, có lẽ đã chết rồi mà cũng có lẽ không, nhưng tôi tin chắc là người đàn bà này có điều không ổn. Xác chết nào trước khi làm đám ma cũng được rửa ráy, được sửa đổi, tân trang lại, và được mặc một chiếc áo dài chui đầu, tất cả những chuyện đó đều không được thực hiện trong trường hợp này.
Tôi xoay người. Osgood vẫn đứng lại bên cánh cửa. Nụ cười của anh ta sao quá kỳ quặc, khiến tôi không vừa ý.
– Ông đã hài lòng chưa, ông Singlair?
Tôi lắc đầu thật chậm.
– Hoàn toàn không hài lòng, ông Osgood, hoàn toàn không.
– Tại sao không?
– Cái đó thì ông phải biết hơn tôi. Ở đây ông mới là chuyên gia. Hay ông có thói quen chôn người ta với khuôn mặt còn nguyên phấn son, trong những bộ quần áo mà người chết thường mặc khi còn sống.
– Chuyện này đâu có ai quy định rõ. Nếu người ta muốn như vậy, người ta cũng sẽ được chôn như thế.
– Ra ở đây người chết đã muốn như vậy?
Người đàn ông trước mặt tôi nhếch một bên miệng để cười.
– Chí ít thì tôi cũng chưa nghe thấy một lời phản đối nào.
– Cho tôi sờ vào người cô ta chứ?
– Không phải chuyện của tôi.
Xác chết rất lạnh, cứng và nặng. Tôi phải cố gắng lắm mới có thể xoay và lật được lưng người đàn bà lên trên. Cả bây giờ, vệt máu màu đỏ vẫn rất lớn và hiện thật rõ trên nền vải trắng của chiếc áo dài.
Đúng là cô ta!
Tôi đặt xác chết trở lại vị trí cũ, nghe tiếng Osgood hắng giọng, rồi anh ta hỏi:
– Tôi còn làm được gì cho ông nữa không?
Tôi không trả lời ngay lập tức, bởi tôi cần suy nghĩ. Hồi lâu tôi gật đầu sau khi đã quyết định xong.
– Có, ông Osgood. Tôi rất muốn nhìn cái mộ sẽ là nơi an nghỉ cuối cùng của người đàn bà này. Có được không?
– Ngay bây giờ ư?
– Đúng.
– Tôi không muốn tranh cãi với ông, ông Singlair…
– Ông đang tranh cãi rồi đó.
– Thôi được rồi, thôi được, đồng ý. Nhưng trời sắp tối, ông sẽ chẳng nhìn thấy gì đâu, cả ánh hoàng hôn cũng sẽ chẳng giúp gì cho ông cả.
– Huyệt đã được đào chưa?
– Đào rồi.
– Thế thì ta đi.
Osgood lắc đầu. Tôi không biết liệu anh ta không hiểu hay chỉ làm ra vẻ không hiểu những gì tôi muốn. Nếu đúng thế thì anh ta là một diễn viên xuất sắc.
Osgood đóng cửa nhà xác lại sau lưng chúng tôi nhưng không khóa, rồi dẫn tôi đi xuyên qua căn hộ của anh ta. Ra tới ngoài trời mà tôi vẫn còn nguyên cảm giác ngộp thở vì hương hoa trong nhà xác. Thêm vào đó, không gian bây giờ còn oi nồng và nặng nề hơn lúc trước. Khúc lượn của dòng sông Themse nằm ở phía Tây, bây giờ đã có những dải sương mù đầu tiên của buổi tối bốc lên, tôi ngửi thấy rất rõ mùi ẩm ướt do gió đưa lại.
Bầu trời trên đầu tôi rất sáng. Trông như một biển hơi nước khổng lồ.
– Cơn bão này chắc sẽ lớn lắm đây. – Osgood giải thích – Tôi quá rõ cái thời tiết tháng năm. Hy vọng là khi ta quay trở lại không bị ướt. Hay ông còn nhiều việc phải làm ở chỗ đó, ông Singlair?
Tôi đưa ra một câu trả lời né tránh.
– Cũng còn tùy, ông Osgood.
Người đàn ông không buông tha.
– Tùy vào chuyện gì kia, ông Singlair?
– Có lẽ tùy vào ngôi mộ mà ông đã đào nên. – Tôi lạnh lùng nhìn anh ta trả lời.
Tỏ ra bình tĩnh, Osgood nhìn xuống mặt đất, đưa chân đá phăng một viên đất nhỏ.
– Thôi, đi thôi! Nếu không thì chúng ta sẽ gặp bão giữa đường mất. Lúc này sương mù đã bắt đầu dày lên. Chúng đang từ từ trôi vào nghĩa trang rồi đấy. Chỗ này mà dùng để quay phim rùng rợn thì rất hợp.
Không biết những câu khác anh ta có nói dối không, nhưng những câu về thời tiết vừa rồi thì đúng. Khu nghĩa địa cổ lỗ đang trải ra trước mắt tôi một hậu trường hầu như ma quái. Nét ma quái toát ra từ thân cây, từ những bụi cây, từ những rặng bờ rào trùng điệp gấp khúc vào nhau, tạo thành một bức tranh mang màu sắc đe dọa nhưng vẫn dành đủ không gian nổi bật cho những ngôi mộ.
Những bia mộ chui lên từ mặt đất cái cao cái thấp. Tôi nhận thấy chẳng bia mộ nào có hình cây thánh giá, kể cả trong nhà xác cũng không hề thấy cây thánh giá nào. Tôi quyết định hỏi thẳng Osgood. Hắn đáp bằng giọng bình thường:
– Thì bởi những người muốn được chôn hay đốt xác ở đây không theo đạo Thiên Chúa giáo.
– Vậy à!
– Có rất nhiều người nổi tiếng đã chọn nơi đây làm nơi an nghỉ cuối cùng, ông cứ tin tôi đi. Ông phải đến đây vào ban ngày, và phải đọc tên trên những bia mộ mà xem. Giống như khi đọc một quyển sách viết về các danh nhân nổi tiếng. – Osgood lại nói.
Chẳng cần xem xét lúc ban ngày tôi cũng tin vào lời anh ta nói. Chỉ có điều tôi không quan tâm tới những người đã được chôn, yếu tố duy nhất tôi để ý đến là một ngôi mộ đặc biệt, được dành cho Cynthia Manson. Nói cho chính xác, đến giờ tôi hầu như không tin rằng nó sẽ được dùng để chôn cô ta. Câu chuyện này là điểm hội tụ của quá nhiều những yếu tố và sự kiện rối rắm bí hiểm, cần phải được gỡ toang ra cho rành mạch.
Nghĩa trang này không được chia làm một phần cũ và một phần mới như đại đa số các nghĩa trang khác của London. Góc nào trông cũng giống góc nào. Đường trong nghĩa trang không được rải sỏi. Có những đoạn cỏ đã mọc cao ngang mắt cá chân và mang lại cho những bước chân của chúng tôi một âm hưởng trầm nặng.
Độ ẩm trong không khí còn tăng lên nữa. Với mỗi hơi thở, tôi có cảm giác như không khí đang cào vào họng mình. Không gian oi ả bám lấy phần trên của nghĩa trang như được phá bởi hơi thở của một con ma. Ở phía xa xa về hướng tây, tôi nhìn thấy những đám mây đang cháy lên lần cuối cùng trong ngày, rồi thấy những tia chớp nhợt nhạt đang giật mình trên bầu trời.
Osgood cũng nhận ra, hắn buột miệng:
– Chẳng bao lâu cơn mưa sẽ tới đây, nó sẽ rất mạnh.
Tôi không bắt vào chủ đề đang được người đàn ông đó gọi mời.
– Đến chỗ đó còn lâu không?
– Ngay sau rặng cây kia thôi. Tôi đã cho dọn dẹp sẵn một khoảng đất ở đó.
– Cho dọn dẹp là nghĩa sao?
Người đàn ông nhăn răng cười.
– Tôi nhờ người khác làm việc. Hay là ông tưởng tôi phải tự tay đào đất ở đây?
– Nếu đằng nào cũng có rất ít đám ma..
– Tôi còn những công việc khác.
Tôi nuốt câu hỏi tiếp nối xuống cổ họng và theo anh ta đi vòng quanh một bụi cây. Những chiếc lá con con quệt ngang bờ vai trái của tôi, thế rồi tôi đi qua khỏi bụi cây và nhìn vào khoảng đất mà Osgood vừa nhắc tới.
Khoảng đất không rộng. Chỉ vừa đủ cho người ta đào bốn huyệt mộ kề nhau.
Trên nền đất đã mở ra một lỗ. Một lỗ hình chữ nhật, một phần của nó được phủ bên trên bằng những tấm ván, chắc vì những lý do an toàn.
Tôi đi thẳng vào hướng nấm huyệt. Lần này thì Osgood hỏi tôi.
– Thế nào? Ông vừa lòng chưa?
– Cynthia sẽ được chôn ở đây?
– Đúng.
– Cho tôi bỏ những tấm ván này sang bên nhé?
Người đàn ông cười nhẹ.
– Để làm gì?
Tôi không trả lời, nhìn khoan xoáy vào khuôn mặt anh ta, mỗi lúc cảm giác không hài lòng một dâng cao hơn trong tôi. Ánh mắt Osgood đang chuyển động quá hốt hoảng. Tôi hầu như tin chắc là anh ta đang âm mưu chuyện gì đó. Cả cái thế đứng kia sao cũng gây ấn tượng đang rình mò, chờ đợi.
– Thật ra thì ông là người chịu trách nhiệm ở đây. Làm ơn bỏ những tấm ván kia sang một bên.
Osgood nở một nụ cười thật dễ thương, khiến tôi suýt chút nữa đã xấu hổ vì sự nghi ngờ trong lòng mình.
– Thôi được, ông Singlair, tôi sẽ làm cho ông yên tâm. – Rồi anh ta nheo mắt lại – Tôi có cảm giác là ông không thích tôi thì phải.
– Tại sao ông lại nghĩ như vậy?
– Chỉ là cảm giác thôi. Ông biết chứ?
Tôi im lặng nhún vai, quyết định không giải thích. Tôi không quan tâm đến cảm giác của anh ta. Có bốn tấm ván được đặt ngang trên bờ huyệt. Người đàn ông cúi xuống, kéo tấm ván đầu tiên ra. Khi anh ta sờ tay đến tấm ván thứ hai thì tôi đưa mắt sang chỗ khác.
Ánh sáng đã dần dần nhường chỗ cho trời chiều nhập nhoạng, những đường nét chân mây mờ dần đi, chuyển thành một thứ màu xám trong suốt như sữa. Tuy nhiên hiện thời tôi vẫn còn phân biệt được các đường viền ấy và tôi nhìn thấy một dáng người đang trồi ra từ phía sau một thân cây rất lớn. Dáng người đầu tiên gây ấn tượng như một con ma, bởi nó mặc một cái váy dài sát đất.
Nhưng đó không phải một con ma.
Có lẽ là một cương thi, một người đàn bà với mái tóc màu đỏ được chải bốc lên trên, có một mảng trán được bôi phấn xanh và một con dao với cái lưỡi dính máu trong bàn tay phải.
– Chào John. – Cô ta khẽ nói…