Điểm Dối Lừa

CHƯƠNG 89



Trên bầu trời xứ Main, chiếc máy bay G4 vẫn đang tăng tốc tiến về Washington. Trên máy bay, Michael Tolland và Corky Marlinson chăm chú lắng nghe Rachel Sexton thuyết minh cho giả thuyết của cô về lý do khiến cho hàm lượng hydro trong lớp vỏ nóng chảy của tảng thiên thạch.
– NASA có một cơ sở kiểm tra của riêng họ, mang tên trạm Plum Brook. – Rachel nói, chính cô cũng không dám tin là bản thân mình đang tiết lộ bí mật quốc gia. Cô chưa bao giờ tiết lộ bí mật cho những ai không có quyền tiếp cận thông tin. Nhưng trong tình huống này, Tolland và Corky có quyền được biết. – Plum Brook là nơi NASA tiến hành chạy thử tất cả các loại động cơ mà họ mới chế tạo được. Cách đây hai năm, chính tay tôi đã viết một tóm tắt tin nói về loại động cơ mà NASA đang cho chạy thử ở đó – hình như là một loại động cơ chu kỳ rộng thì phải.
Corky nhìn cô nghi hoặc:
– Động cơ chu kỳ rộng vẫn còn trong giai đoạn lý thuyết. Mới có trên giấy thôi. Chưa có ai chạy thử được thứ đó. Phải vài thập niên nữa.
Rachel lắc đầu:
– Xin lỗi anh, Corky, NASA quả thực đã có mô hình đó trong tay rồi. Họ đang trong giai đoạn thử nghiệm mà.
– Cái gì? – Corky vẫn hoài nghi. – Loại động cơ đó chạy bằng khí oxy hydro hoá lỏng, mà khí đó lên đến vũ trụ thì đông đặc lại ngay, cho nên NASA có dùng được đâu! Họ đã thông báo là sẽ không chế tạo động cơ đó cho đến khi khắc phục được vấn đề nhiên liệu đông cứng cơ mà?
– Họ đã khắc phục được rồi. Họ bỏ thành phần oxy đi, rồi đưa khí hydro vào một dạng hỗn hợp bùn – tức là một hỗn hợp nhiên liệu đông lạnh có chứa hydro ở tình trạng bán đông lạnh. Động cơ này cực mạnh, và cháy rất sạch. Và rất có thể được sử dụng nếu NASA cho phóng tàu vũ trụ lên sao Hoả.
Corky vẫn chưa hết kinh ngạc:
– Không thể nào!
– Hoàn toàn là sự thật đấy. Tôi đã tóm tắt, tin cho Tổng thống mà. Và Giám đốc của tôi đã phải lao tâm khổ tứ vì NASA muốn công bố rộng rãi thành công vang dội đó của họ, còn Pickering thì muốn Nhà Trắng buộc NASA giữ bí mật về thế hệ động cơ này.
– Tại sao?
– Cái đó không quan trọng. – Rachel nói.
Cô đã tiết lộ thông tin mật vì buộc phải làm thế, và không có ý định tiến xa hơn nữa. Sự thật là Pickering muốn giữ bí mật loại động cơ này là do hiện đang có mối quan ngại về an ninh quốc gia ngày càng gia tăng – Trung Quốc đang phát triển khoa học và công nghệ vũ trụ với tốc độ nhanh chóng khôn lường. Gần đây Trung quốc còn cho xây dựng một sân bay vũ trụ “cho thuê” và ai bỏ giá thầu lớn thì sẽ mua được quyền sử dụng, mà hầu hết những nhà thầu đó chắc chắn sẽ là kẻ thù của Mỹ. Cho nên an ninh quốc gia của Mỹ đang bị uy hiếp.
May mắn thay, NRO biết được rằng Trung Quốc đang nghiên cứu chế tạo động cơ nhiên liệu đẩy để sử dụng cho sân bay vũ trụ đó. Cho nên Pickering thấy không có lý do gì để đánh động cho Trung Quốc biết NASA đã có thứ họ đang ao ước.
– Tức là, – Tolland nói, vẻ rất không thoải mái – cô nói rằng NASA đã có trong tay loại động cơ đẩy dùng khí hydro tinh khiết làm nhiên liệu à?
Rachel gật đầu.
– Tới không có con số chính xác, nhưng nhiệt độ khí thải của loại động cơ này cao hơn nhiệt độ của bất kỳ thứ gì con người từng tạo ra được trong lịch sử. Cho nên NASA đã phải nghiên cứu một loại ống xả bằng chất liệu đặc biệt. – Cô ngừng một lát – Để một tảng đá lớn đằng sau động cơ nổ đẩy kiểu này, tảng đá đó sẽ bị nóng chảy bởi khí thải ở nhiệt độ cực kỳ lớn phả ra từ động cơ thể là có một lớp vỏ nóng chảy.
– Thế đấy! – Corky nói. – Cô lại quay về với giả thuyết tảng thiên thạch giả rồi.
Tolland chợt trầm tư.
– Ý tưởng đó rất đáng suy nghĩ đấy. Cũng tương tự như việc đặt tảng đá bên dưới bệ phóng tên lửa trong một lần phóng vệ tinh lên vũ trụ thôi mà.
– Lạy Chúa tôi, – Corky ca cẩm, – Tôi đang bay cùng hai kẻ gàn dở không can nổi.
– Corky này. – Tolland nói tiếp. – trên lý thuyết thì khi đặt tảng đá trước luồng khí thải của động cơ nóng như vậy cũng sẽ tạo ra các vằn dọc giống như khi tảng thiên thạch rơi tự do trong bầu khí quyển, đúng không nào? Bề ngoài sẽ giống nhau, cả vằn dọc lẫn những lớp bề mặt nóng chảy bị thổi tạt về phía sau.
Corky làu bàu:
– Chắc thế.
– Và động cơ sử dụng khí hydro tinh khiết cũng sẽ không để lại cặn bã gì hết. Chỉ duy nhất khí hydro thôi. Hàm lượng hydro bị ion hoá trên lớp bề mặt nóng chảy sẽ cao hơn bình thường.
Corky trợn trừng mắt:
– Nghe này, nếu những động cơ đẩy đó là có thật và chạy bằng nguyên liệu hydro tinh khiết thật, thì điều đó là có thể. Nhưng những động đó còn lâu chúng ta mới có được!
– Tại sao? – Tolland cật vấn. – Quy trình cũng khá đơn giản mà.
Rachel gật đầu tán đồng:
– Tất cả những gì ta cần là một tảng đá có hoá thạch niên đại 190 triệu năm. Đem nung nóng bằng động cơ đẩy Sau đó vùi vào trong băng hà. Thế là có thiên thạch ăn liền.
– Có thể khách du lịch sẽ tin vào câu chuyện đó. – Corky phản đối – Nhưng không thể nói thế với các nhà khoa học của NASA được. Thế các chrondrule thì giải thích sao đây?
Rachel cố nhớ lại xem Corky đã giải thích với cô về các chrondrule thế nào.
– Anh đã nói rằng các chrondrule được hình thành do quá trình nung nóng và làm lạnh trong vũ trụ đúng không nào?
Corky thở dài:
– Chrondrule hình thành khi một tảng đá, có nhiệt độ rất thấp ngang với nhiệt độ môi trường trong vũ trụ, đột ngột bị nung lên đến nhiệt độ nóng chảy không toàn phần – 1550 độ C.
Sau đó tảng đá nguội đi, cực kỳ nhanh, làm cho các túi đá nóng chảy đông cứng ngay lại thành các chrondrule.
Tolland chằm chằm nhìn ông bạn:
– Và tất cả quá trình đó không thể xảy ra trên mặt đất được sao?
– Không thể. – Corky tuyên bố. – Môi trường nhiệt trên trái đất không cho phép điều đó xảy ra. Chúng ta đang nói tới nhiệt độ trong lò phản ứng hạt nhân và độ không tuyệt đối trong môi trường chân không. Những thái cực đó không có được trên hành tinh của chúng ta đâu.
Rachel tỏ ra băn khoăn:
– Ít ra là không có được trong tự nhiên.
Corky quay sang cô:
– Thế có nghĩa là sao?
– Tại sao quá mình nung nóng và làm lạnh đó không thể xảy ra trong điều kiện nhân tạo trên trái đất được? – Rachel chất vấn. – Người ta có thể dùng động cơ nổ đẩy để nung nóng nó lên, rồi đặt vào thiết bị làm lạnh.
Corky trợn mắt:
– Các chrondrule nhân tạo sao?
– Biết đâu đấy.
– Một ý tưởng kỳ quặc. – Corky đáp liền, giằng mẫu đá trên tay Rachel. – Chắc cô đã quên mất chi tiết rằng những chrondrule này có niên đại 190 triệu năm. – Ông ta nhấn mạnh từng tiếng – Theo như tôi hiểu, thưa cô Sexton, cách đây 190 triệu năm không có người nào trên trái đất này điều khiển động cơ nổ đẩy và thiết bị làm lạnh nào hết.
Dù gì đi nữa, Tolland thầm nghĩ, mỗi lúc chứng cứ một nhiều lên.
Ông đã yên lặng khá lâu sau khi nghe Rachel nói về loại động cơ nổ đẩy dạng sóng. Giả thuyết của cô, dù vô cùng táo bạo, đã mở ra mọi cánh cửa, khiến cho ý nghĩ của ông chạy lan man theo mọi hướng. Nếu lớp vỏ bị nóng chảy có thể nhân tạo được, thì liệu còn gì khác nữa không?
– Sao anh yên lặng thế? – Rachel hỏi ông.
Tolland nhìn cô gái. Trong khoảnh khắc, dưới ánh đèn từ trần cabin phả xuống, ông chợt thấy trong mắt Rachel ánh lên cái nhìn hiển dịu của Celia. Ông lắc đầu, gạt ký ức ra khỏi tâm trí, rồi thở dài mệt mỏi.
– À, tôi chỉ đang nghĩ…
– Về tảng thiên thạch phải không? – Cô mỉm cười. -Còn chi tiết nào nữa đây? Anh đang cố nghĩ xem còn chi tiết nào bị bỏ sót không chứ gì?
– Đại loại thế…
– Thế anh có nghĩ ra cái gì không?
– Chưa có gì đặc biệt. Nhưng tôi không được thoải mái lắm khi thấy nhiều chi tiết bị đổ đến như thế, đơn thuần chỉ vì chúng ta biết được lỗ khoan bên dưới tảng thiên thạch?
– Tập hợp dữ liệu thu được dựa trên những yếu tố được mặc định trước luôn là thế. – Rachel nói. – Chỉ cần lật lại chi tiết đầu tiên, thế là tất cả lung lay. Vị trí của tảng thiên thạch là chi tiết đầu tiên của chúng ta..
Mình sẽ nói cho cô ấy biết.
– Khi tôi đặt chân lên phiến băng Milne, ông Giám đốc đã nói rằng họ vừa tìm thấy một tảng thiên thạch nằm trong túi băng hoàn toàn kín. Tảng đá đó có độ đậm đặc cao hơn tất cả các loại đá khác trong vùng. Và tôi đã coi đó là bằng chứng về nguồn gốc vũ trụ của tảng đá.
– Và chúng tôi nữa chứ.
– Hàm lượng nickel trung bình, dù cũng là một căn cứ, nhưng vẫn chưa đủ để kết luận.
– Hàm lượng đó rất gần mức trung bình mà. – Corky chêm vào, hoá ra ông ta vẫn lắng nghe tất cả.
– Nhưng không hoàn toàn chính xác.
Corky gật đầu đồng tình, nhưng khá miễn cưỡng:
– Lại nữa, – Tolland nói – những con bọ vũ trụ chưa ai thấy bao giờ đó. Dù rất dị thường, có thể chỉ là một loài giáp xác tầm thường trong đại dương.
Rachel gật đầu:
– Và bây giờ đến lượt lớp vỏ bị nóng chảy…
Tôi không muốn thừa nhận điều này chút nào, – Tolland quay sang nói với Corky – nhưng dường như những bằng chứng tiêu cực bắt đầu trở thành đa số mất rồi.
– Không thể dựa vào linh cảm để làm khoa học được. – Corky nói – phải căn cứ vào các dữ liệu cụ thể chứ. Các chrondrule ở tảng đá này khẳng định nó chính là thiên thạch. Tôi thừa nhận là có rất nhiều chi tiết khiến chúng ta phải suy nghĩ, nhưng không thể bỏ qua các chrondrule. Những bằng chứng tích cực đều rất quan trọng, đã thế những bằng chứng chống lại tảng thiên thạch đều chỉ dựa trên suy diễn mà thôi.
Rachel nhíu mày:
– Thế thì ta phải kết luận thế nào đây?
– Chẳng thế nào cả. – Corky nói. – Các chrondrule đã chứng tỏ chúng ta có trong tay tảng thiên thạch. Vấn đề chỉ là tạỉ sao nó lại được đưa vào trong lòng băng hà mà thôi.
Dù rất muốn tin vào lập luận của bạn mình, Tolland vẫn cảm thấy có gì đó không ổn.
– Anh có vẻ vẫn chưa tin hẳn. Mike ạ. – Corky nhận xét.
Tolland bối rối nhìn Corky:
– Tôi cũng chẳng biết nữa. Hai trong số ba dữ liệu không hề ít đâu. Chúng ta chỉ còn sử dụng được một trong ba dữ liệu quan trọng. Có lẽ chúng ta vẫn bỏ sót chi hết nào đó.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.