Hãy Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa

PHẦN 2- CHƯƠNG 1 –



Đã từ lâu, tôi vẫn ước mơ có một văn phòng thật đầy đủ tiện nghi để gây ấn tượng với khách hàng, nghĩa là một văn phòng sang trọng tân kì. Paula đã phải bỏ ra những xấp tiền khó nhọc lắm chúng tôi mới kiếm được để mua sắm đồ đạc, từ tủ, bàn, kệ sách, thảm chân, rèm cửa cho đến cả dăm bức họa treo tường của mấy họa sĩ trẻ nhưng có nét vẽ có thể nhập nhằng với một họa sĩ danh tiếng thời xưa. Sau khi hoàn thành công việc trang trí nội thất xong, tôi cũng để ý đi tới một số văn phòng của các hãng đặt ở Orchid Building để nhận xét. Có vài nơi khá hơn trụ sở của chúng tôi, nhưng có nhiều nơi không bằng. Nói chung không có nơi nào làm cho tôi phải ganh tị thèm muốn. Cho tới hôm bước vào phòng của Mafrend Willet, chủ tịch hiệp hội luật sư Glynn và Coppley tôi mới vỡ lẽ ra rằng, muốn có được một văn phòng lý tưởng, còn phải dày công kiếm nhiều đôla hơn nữa. So sánh nơi tôi vừa đến với văn phòng của công ty tôi như so sánh cái chòi lá với tòa lâu đài vậy.
Trong căn phòng rộng rãi có trần cao vút, một cái bàn giấy đặt ở cuối phòng phía xa xa, đối diện với ba cửa sổ lớn. Cái bàn chắc chắn, to bằng hai cái bàn bida ghép lại, còn có mấy cái cửa sổ có dáng thật thanh tú, vậy mà lại cao gần tới trần. Bốn năm chiếc ghế bành lớn và một chiếc ghế nệm dài được bố trí quây quần với nhau bên cạnh một lò sưởi đủ rộng, để cho mấy con voi chơi trò đi trốn tìm. Tấm thảm lớn trải trên sàn có những sợi lông như những lá cỏ đã tới ngày xén. Mặt lò sưởi và những bàn nhỏ đặt tại các góc, có rất nhiều pho tượng bằng ngọc thạch. Đồ dùng văn phòng để trên bàn làm việc đều bằng bạc chạm trổ tinh vi. Những mảnh kính mờ màu kem lẩn trong tường và trên trần tỏa ánh sáng êm dịu xuống căn phòng đã được điều hòa nhiệt độ. Các cánh cửa đều được viền cao su, đảm bảo việc cách âm được hoàn hảo. Trong phòng này, một tiếng đằng hắng nhỏ cũng vang lên như đá sỏi rơi xuống cái mái nhà lợp bằng tôn vậy.
Mafrend Willet ngồi trên chiếc ghế quay có nệm tựa lưng, sau cái bàn rộng lớn. Ông đang hút một điếu thuốc lá dẹt, đầu ngậm mạ vàng. Cao lớn và vạm vỡ, vào khoảng bốn mươi lăm tuổi, tóc màu xám, ông có bộ mặt có nhiều nét đẹp như tạc tượng. Trong bộ đồ cắt may theo đúng mốt Ønglê, chiếc áo sơ mi ông mặc có màu trắng như những bông tuyết đầu mùa. Mafrend Willet cứ để cho tôi nói. Hai mắt ông không rời lọ mực để trên bàn, nét mặt lạnh lùng, không biểu hiện một chút cảm xúc gì.
Tôi kể lại cho ông nghe, bắt đầu từ lá thư của Janet, tình trạng ngôi biệt thự của gia đình Crosby ở Crestways, cho tới lời đồn về Maureen đi cai nghiện, sự ngạc nhiên của tôi về cái chết của Janet về bệnh tim mà trước đó hai hôm cô vẫn chơi quần vợt và đi khiêu vũ. Tôi đề cập tới việc ông bác sĩ già Bewley chứng nhận cái chết của ông Crosby như thế nào, việc tôi chứng kiến cô người hầu Eudora Drew bị tên Dwan, tay chân của Salzer và Maureen, về việc hai trung sĩ cảnh sát Graw và Hartsell có mặt lúc Dawn thú nhận mưu hại tôi, nhưng kết cuộc lại là cái chết của Dwan có liên quan đến những vết xe để lại của hai người đó và cuối cùng là việc cô y tá Gurney bị bắt cóc. Dù có tóm tắt các sự việc xảy ra, tôi cũng phải mất một thời gian khá dài để trình bày. Vậy mà ông chỉ ngồi im lặng, không ngắt lời, không hỏi thêm một câu nào. Nhưng tôi biết, đằng sau bộ mặt bình thản ấy, bộ óc ông không ngừng ghi nhận và xét đoán. Tôi kết luận:
– Thưa ngài, tôi nghĩ rằng ở cương vị là người quản lí tài sản, những sự việc tôi vừa kể rất đáng để ngài quan tâm. Sau nữa, ông đại úy Brandon đã gợi ý cho tôi tới đây để trao trả năm trăm đô la tôi đã nhận được của cô Janet.
Tôi rút ví tiền đặt trước mặt Mafrend Willet rồi nói tiếp:
– Đúng ra, sau khi hoàn lại số tiền, tôi cũng chẳng còn nhiệm vụ gì về việc này nữa. Nhưng nếu ngài muốn công ty của tôi tiếp tục cuộc điều tra thì chúng tôi xin sẵn sàng phục vụ. Xin thú thật rằng, bản thân tôi sẽ rất thích thú.
Ông ta im lặng nhìn tôi. Nhiều phút trôi qua, tôi có cảm tưởng là tuy hai mắt hướng về tôi, nhưng ông không nghĩ tới sự hiện diện của tôi nữa. Bất chợt ông lên tiếng:
– Những sự việc đó quả thật là không bình thường. Tôi đã được nghe những người khách hàng của tôi nói tới công ty của ông với nhiều lời khen nên, sau khi nghe ông kể, tôi nghĩ rằng chúng ta có quyền mở một cuộc điều tra. Tôi muốn trao việc đó cho ông (ông ta đẩy lui ghế ra xa bàn) nhưng ông phải tiến hành thật kín đáo, không để cho ai biết tôi chủ trương làm việc này, vì nhiệm vụ của tôi rất tế nhị. Tôi chỉ được có ý kiến và quyết định sau khi có những bằng chứng xác đáng về những hành vi đáng chê trách của cô Maureen. Vậy mà chúng ta chưa có trong tay một điều gì rõ rệt cả.
– Như thế thật khó khăn cho tôi, vì tôi định nhờ vào uy thế của ngài để khỏi bị Brandon làm khó dễ.
– Tình thế phải xử sự như vậy và nghề nghiệp của ông cũng đòi hỏi cho cuộc điều tra. Còn nếu ông gặp khó khăn ở tòa án, tôi sẽ đảm nhiệm công việc của ông mà không lấy tiền thù lao.
Ông ta nói một cách dứt khoát để cho tôi hiểu, không thể yêu cầu ông giúp đỡ thêm một điều gì nữa.
– Thôi được, tôi đồng ý nhận việc này. Nhưng tôi muốn hỏi ngài thêm một ít điều: ngài đã gặp cô Maureen lần cuối cùng vào lúc nào?
– Trong đám tang Janet. Từ ngày đó, tôi không gặp cô ta nữa mà chỉ tiếp xúc với cô ta qua thư từ.
– Ngài có biết gì về bệnh trạng hiện nay của cô ấy không?
Ông ta lắc đầu.
– Ngài có tin chắc chắn rằng ông Crosby bị chết vì tai nạn rủi ro không?
Ông ta ngạc nhiên, đưa mắt nhìn tôi:
– Ý ông định nói gì? Hiển nhiên đó là một tai nạn rồi.
– Có thể là một vụ tự sát lắm chứ?
– Ông ta cần gì phải hành động như vậy? Vả lại, người ta không tự tử bằng súng trường nếu có một khẩu súng lục.
– Nếu ông Crosby tự tử, chắc chắn món tiền bảo hiểm sinh mạng của ông ta sẽ bị cắt.
– Trời! Vậy mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều này. Món tiền bảo hiểm ấy lên tới một triệu rưỡi đô la đấy.
– Ai được hưởng món tiền đó?
Mafrend Willet đứng lên, rồi lại ngồi xuống, nói:
– Tôi không biết ông định dẫn tôi tới đâu? Ông hãy nói ý nghĩ của ông như thế nào về việc này đi.
– Việc ông Salzer không phải là bác sĩ y khoa lại ký tên chứng nhận trong tờ giấy khai tử của ông Crosby với sự đồng tình của Brandon và người lập biên bản, khiến tôi nảy ra một giả thiết. Nếu ông Crosby vì lý do nào đó mà tự tử, thì việc giấu kín chuyện này sẽ có lợi cho người thừa kế một món tiền rất lớn: một triệu rưỡi đô la. Người đó là Janet. Khi Janet chết, người được hưởng lợi chính là Maureen.
– Đúng vậy, trước đây tôi có khuyên cô Janet dùng số tiền đó mua các cổ phiếu. Nhưng cô không nghe và vẫn gửi ở ngân hàng.
– Bây giờ món tiền đó còn ở ngân hàng không?
– Đấy là món tiền riêng của cô Maureen nên tôi không quản lí.
– Tôi nghĩ rằng, nếu cô Maureen phải đút lót cho ông Brandon và Franklin Lessways, người lập biên bản về cái chết của ông Crosby thì số tiền đó đã vơi đi đáng kể.
– Được, tôi có thể xem xét vấn đề này.
– Ngài có biết rõ về cô Janet không?
– Tôi chỉ gặp cô ta hai, ba lần.
– Ồ, tiếc quá. Tôi chưa gặp cô ta bao giờ, nhưng tôi cho rằng cô ta không thể chết vì bệnh tim được.
Willet rướn lông mày, nhìn tôi như nhìn một vật lạ.
– Ông lại có ý kiến gì nữa đấy?
– Bây giờ thì tôi chưa thể nói ra. Nhưng một người yếu tim không thể thường xuyên chơi quần vợt và đi khiêu vũ. Đó là điều chắc chắn: Còn cô Maureen, theo cô y tá Gurney thì có lẽ cô ta không có mặt trong căn nhà ở Grestways. Vậy cô ta ở đâu?
– Đúng thế. Cô ta ở đâu nhỉ?
– Có thể cô ta bị giữ chân trong viện an dưỡng Salzer chăng?
– Việc này thì ông tưởng tượng quá đáng đấy. Tôi vừa gửi cho cô ta một số giấy tờ để cô ta ký. Vừa tuần trước, tôi đã nhận đầy đủ số giấy tờ trên, có dấu bưu điện Crestways.
– Như vậy cũng không chứng minh được là cô ta có tự do hay không. – Willet suy nghĩ một lát, rồi bảo tôi:
– Được rồi, tôi sẽ nghĩ ra một công việc để mời cô ta đến văn phòng của tôi.
– Thật là một ý kiến hay, xin ngài báo cho tôi, khi nào cô ta đến. Tôi sẽ theo dõi, để coi cô ấy đi đâu. Bây giờ, tôi xin phép tạm biệt ngài để đi tìm cô Gurney. Tôi rất mong cô ấy còn sống, vì tôi rất mến cô ấy.
Khi tôi bắt tay từ biệt, Mafrend Willet không giữ được vẻ bình tĩnh lạnh lùng như trước nữa. Nét mặt của ông biểu hiện sự lo âu. Tôi hiểu, ông là một người cứng rắn nhưng vẫn còn nhiều tình người.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.