Kho báu của vua Solomon
Chương 4 : ĐI VÀO SA MẠC
Chúng tôi bắn được chín con voi, phải mất hai ngày để cưa ngà, mang về trại và chôn kĩ dưới một gốc cây to cách xa mấy dặm đã nhìn thấy. Chúng tôi kiếm được một khối lượng rất lớn ngà voi quý, tôi chưa bao giờ nhìn thấy mỗi ngà nặng trung bình từ hai mươi đến hai mươi nhăm kilô. Còn ngà của con voi đầu đàn đã xéo xác Hiva thì theo sự ước đoán của chúng tôi, cân nặng hơn bảy mươi kilô.
Còn Hiva, hay đúng hơn, những mảnh xác còn lại của anh, được chúng tôi chôn trong một tổ kiến cùng cây giáo theo phong tục của bộ lạc Dulux, để anh có vũ khí tự vệ khi cần thiết trên con đường đi tới thiên đường.
Sang ngày thứ ba, chúng tôi lại lên đường, hi vọng nếu còn sống, sẽ quay lại đào kho báu của mình. Sau một chuyến đi dài, vất vả và gặp nhiều chuyện phiêu lưu khác mà tôi không có thời gian để kể tỉ mỉ ra đây, chúng tôi đã đến làng Xitandi ở gần sông Lucanga. Thực ra mà nói, chỉ từ đây mới bắt đầu cuộc hành trình đến núi Xulâyman của chúng tôi.
Tôi nhớ rất rõ chúng tôi đã tới Xitandi như thế nào. Phía bên phải là một khu làng nhỏ của người bản xứ gồm mấy chiếc lều thảm hại và chuồng nuôi súc vật ngăn bằng đá. Xuống phía dưới một chút, sát bờ sông thấp thoáng một vài miếng đất canh tác, họ gieo trồng để có số lương thực ít ỏi của mình. Tiếp đến là thảo nguyên bao la chạy tít tận chân trời, cỏ mọc tốt um tùm và thường có những con thú nhỏ đi lại.
Làng Xitandi ở ngay đầu vùng đất màu mỡ ấy. Còn phía trái là sa mạc. Thật khó mà giải thích nổi vì sao lại có sự thay đổi đột ngột về chất đất như vậy; sự tương phản quá lớn đến không thể không đập ngay vào mắt.
Chúng tôi đóng trại phía trên sông Lucanga một chút. Bên kia sông là một dốc đá thoai thoải, nơi hai mươi năm về trước, Xinvextơ đáng thương đã bò quay trở lại sau cái ý định điên rồ tìm tới kho báu của vua Xolomon thất bại. Sau dốc đá ấy là bắt đầu sa mạc mênh mông, khô cằn với những cây gai thưa thớt và thấp.
Trời đã ngả về chiều, khối cầu khổng lồ mặt trời đang chầm chậm khuất sau sa mạc và chiếu sáng nó bằng những tia sáng cuối cùng sặc sỡ.
Giao cho Huđơ chăm sóc việc đóng trại, tôi mời Henry đi dạo một lúc, rồi hai chúng tôi leo lên đỉnh của dốc đá phía bên kia sông, từ đó đưa mắt nhìn ra sa mạc. Không khí sạch và trong suốt, phía xa xa nơi chân trời có thể nhìn thấy đường xanh mờ của những đỉnh núi Xulâyman quanh năm phủ tuyết. – Ông nhìn kia, – Tôi nói sau một lúc im lặng. – Kia là bức tường bao quanh kho báu của vua Xolomon. Chỉ một mình chúa biết rằng liệu có lúc nào chúng ta tới được đấy hay không.
– Em trai tôi chắc phải ở đấy. Nếu thế thì nhất định tôi sẽ tới cho kì được. – Henry nói với vẻ tự tin bình thản mà ông vẫn có.
– Vâng, hi vọng rằng chúng ta sẽ thành công! – Tôi thở dài quay lại định đi về trại, nhưng bỗng nhận thấy có người đang đứng cạnh.
Sau lưng chúng tôi là Ambov. Anh chàng Dulux to khỏe và uy nghi ấy đang đứng chăm chú nhìn về phía những dãy núi xa xa. Thấy tôi nhìn, anh ta lên tiếng nói với Henry, người mà tôi nhận thấy anh ta rất quý mến.
– Có phải đấy là đất nước mà ông định tới không. Incubu? (Chữ này có nghĩa là “Con voi”; người bản xứ gọi Henry như vậy) – Ambov nói, tay chỉ về phía núi.
Tôi bực bội hỏi anh ta có quyền gì mà dám nói chuyện suồng sã như thế với ông chủ của mình. Người bản xứ có thể gọi nhau bằng bất cứ biệt hiệu nào họ muốn, nhưng hoàn toàn không thể cho phép và không lịch sự từ phía họ khi gọi người da trắng bằng những cái tên ngu ngốc như thế. Ambov khẽ cười, và điều ấy càng làm tôi tức giận hơn.
– Sao ông biết rằng tôi không ngang hàng với ông chủ mà tôi phục vụ? Tất nhiên ông chủ của tôi thuộc dòng dõi nhà vua: Điều ấy có thể nhận rõ qua diện mạo và chiều cao của ông ấy, nhưng biết đâu tôi cũng thuộc dòng dõi vua chúa? Ôi, Macumanzan, hãy làm đôi môi của tôi để nói với Incubu, ông chủ và là thủ lĩnh của tôi, rằng tôi muốn nói chuyện với ông ấy, và cả với ông nữa.
Tôi rất bực mình với Ambov, vì không quen nghe người bản xứ nói chuyện với tôi như thế, nhưng không hiểu sao tôi vẫn cảm thấy một sự kính trọng mà tôi không hiểu và không muốn có đối với anh ta. Hơn nữa, tôi cũng muốn biết anh ta định nói gì với chúng tôi nên liền dịch lời của anh ta cho Henry nghe, sau khi nói trước quan điểm của tôi, rằng anh ta là một gã trâng tráo và đã cư xử một cách không thể tha thứ được.
– Vâng, Ambov, – Henry nói, – Tôi muốn đi tới đất nước ấy.
– Sa mạc rất rộng, thiếu nước, còn núi thì cao và phủ đầy tuyết. Không một người nào có thể nói rõ cái gì ở phía sau những dãy núi kia, nơi mặt trời đang lặn. Ông định tới đó bằng cách nào, Incubu, và vì sao ông lại muốn tới đó?
Tôi lại dịch cả những lời này của anh ta.
– Hãy nói với anh ta, – Henry đáp, – Rằng tôi muốn tới đó vì tôi nghĩ một người cùng chung dòng máu với tôi từ lâu đã tới đó, và bây giờ tôi đi tìm người ấy…
– Incubu, ông nói đúng. Trên đường tới đây, tôi có gặp một người Gốttentốt, và anh ta kể với tôi rằng cách đây hai năm, có một người da trắng đi vào sa mạc, về phía những ngọn núi kia. Cùng đi có một người đầy tớ và là thợ săn. Họ chưa quay lại từ phía ấy.
– Sao anh biết rằng đấy là em trai tôi? – Henry hỏi.
– Tôi không biết điều ấy. Nhưng tôi đã hỏi người Gốttentốt kia ông ta hình dáng thế nào, và biết là ông ta có đôi mắt và bộ râu đen như của ông. Người thợ săn đi theo tên là Jim. Anh ta là người bộ lạc Besuan và trên người có quần áo.
– Không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là em trai ông! – Tôi kêu lên.- Tôi biết rõ anh chàng Jim ấy!
Henry trầm ngâm gật đầu.
– Tôi cũng tin là thế, – Ông nói. – George là người cương quyết, nếu đã định làm điều gì thì nhất định sẽ làm bằng được. Từ bé em tôi đã thế. Nếu em tôi quyết định vượt qua núi Xulâyman, thì nghĩa là đã vượt qua, tất nhiên nếu dọc đường không gặp tai họa. Vì vậy, chúng ta cần phải tìm George ở phía bên kia núi.
Ambov có biết chút ít tiếng Anh, nhưng ít khi nói bằng thứ ngôn ngữ ấy.
– Đến đấy xa lắm, Incubu, – anh ta nói.
Tôi dịch lời của anh ta.
– Vâng, Henry đáp. – Đường đến đấy rất xa. Nhưng trên đời này không có con đường nào mà con người không vượt qua, một khi anh ta cố hết sức để làm điều ấy. Nếu được tình yêu dẫn đường, Ambov ạ, thì sẽ không có gì là con người không làm nổi, không núi nào và sa mạc nào không vượt qua được. Vì cái tình yêu ấy, con người bất chấp hết tất cả, thậm chí có thể hi sinh cả tính mạng mình, nếu thượng đế yêu cầu phải thế.
Tôi dịch cả những lời này.
– Ông đã nói những từ rất đẹp, thưa thủ lĩnh! – Anh chàng người Dulux đáp (bao giờ tôi cũng gọi Ambov như thế, dù thực ra anh ta không phải là người Dulux) – Những từ vĩ đại, đẹp đẽ xứng đáng với đôi môi của một người đàn ông chân chính! Ông nói đúng, Incubu. Nhưng hãy lắng nghe tôi. Cuộc sống là gì? Là một chiếc lông, một hạt giống của cây cỏ mà gió thổi đi khắp bốn phía. Đôi lúc nó sinh sôi nẩy nở rồi chết, đôi lúc bay lên trời cao. Nhưng nếu hạt giống ấy khỏe, nó có thể dừng lại chút ít trên con đường mà người khác đã vạch sẵn cho nó. Vật lộn với cơn gió và dừng lại được ở con đường ấy là tốt. Nhưng con người phải chết. Trong trường hợp xấu nhất thì chỉ phải chết sớm hơn một chút. Tôi sẽ đi với ông vượt qua sa mạc và núi rừng, đi cho đến tận cùng, thưa thủ lĩnh, nếu giữa chừng tôi không chết!
Ambov im lặng, nhưng ngay lúc ấy liền nói tiếp bằng những lời hoa mĩ say sưa mà đôi khi người Dulux vẫn dùng. Điều ấy chứng tỏ rằng bộ tộc này không phải không có năng khiếu thơ ca và trí thông minh, tuy khi nói, họ hay lặp đi lặp lại quá nhiều và vô ích.
– Cuộc sống là gì? – Ambov nói tiếp. – Hãy nói cho tôi biết đi, hỡi những người da trắng! Các ông là những người thông minh, những người biết hết mọi bí mật của tạo hóa, mọi bí mật của trăng sao và tất cả những gì trên chúng và xung quanh chúng! Hỡi những người da trắng, những người mà trong nháy mắt có thể nói chuyện được với nhau từ xa mà không cần giọng nói, hãy cho tôi biết bí mật của cuộc sống chúng ta: Nó sẽ biến đi đâu và từ đâu xuất hiện?
Các ông không thể trả lời cho tôi biết; chính các ông cũng không biết điều ấy. Thế thì hãy nghe tôi nói đây: Từ bóng tối, chúng ta xuất hiện và rồi chúng ta lại đi vào bóng tối. Như con chim bị giông bão xua đuổi trong bóng tối, chúng ta bay ra từ cái hư vô. Trong một giây, đôi cánh của chúng ta xuất hiện trong ánh sáng của đống lửa, và rồi chúng ta lại bay vào hư vô. Đời chẳng là cái gì, và cũng là tất cả. Đời là cánh tay gạt bỏ Thần chết. Là con đom đóm nhấp nháy trong đêm để chết vào buổi sáng hôm sau. Là hơi thở màu trắng của đàn bò những ngày đông giá rét, là cái bóng mỏng manh thoáng qua trên bãi cỏ rồi biến mất cùng mặt trời lúc hoàng hôn.
– Anh là một người lạ lùng, Ambov ạ.- Henry nói khi anh ta im lặng.
Ambov cười to:
– Tôi có cảm giác rằng chúng ta rất giống nhau, Incubu. Có thể tôi cũng sẽ tìm em trai của tôi ở phía bên kia núi.
Tôi nhìn anh ta vẻ nghi ngờ.
– Anh nói như thế nghĩa là thế nào? – Tôi hỏi. – Anh biết gì về những dãy núi ấy?
– Ít, rất ít. Nghe nói phía bên kia có một đất nước tuyệt đẹp, bí hiểm, đất nước của những điều kì diệu và phép lạ, đất nước của những chiến binh dũng cảm, những rừng cây cao, những dòng lũ lớn, những đỉnh núi phủ tuyết, đất nước của con đường màu trắng vĩ đại. Tôi đã được nghe kể về nó. Nhưng có đáng đem ra kể ở đây không? Trời tối rồi. Ai số phận cho phép, sẽ được nhìn thấy nó.
Tôi lại ngước nhìn anh ta vẻ nghi ngờ. Con người này chắc đang biết một điều gì đó.
– Đừng lo sợ về tôi, Macumazan, – Ambov nói khi thấy tôi nhìn. – Tôi không đào hố để đánh bẫy các ông. Tôi không âm mưu một điều gì xấu xa. Nếu có lúc nào đó chúng ta vượt qua được dãy núi đang che lấp mặt trời kia, lúc ấy tôi sẽ kể cho các ông nghe tất cả những gì tôi biết. Nhưng Thần chết đang lởn vởn trên đỉnh những ngọn núi ấy. Hãy thông minh mà nhanh chóng quay lại. Hãy quay trở lại, thưa các ông chủ của tôi, và hãy lại đi săn voi. Tôi nói hết.
Rồi chẳng nói thêm một lời nào nữa, anh ta giơ ngọn giáo ra hiệu tạm biệt rồi quay người đi về trại. Khi trở lại, chúng tôi thấy anh ta đang mài giáo, như những người hầu Caphơ bình thường khác.
– Một anh chàng lạ lùng! – Henry nói.
– Còn hơn là lạ lùng, – Tôi khẳng định thêm .- Cách cư xử của anh ta làm tôi nghi ngờ. Anh ta biết một điều gì đây nhưng không muốn nói. Nhưng nói chung không nên cãi nhau với anh ta. Trước mặt chúng ta đang có nhiều điều bí hiểm, lạ lùng chờ đợi, và anh chàng Dulux khó hiểu sẽ rất phù hợp với hoàn cảnh ấy.
Ngày hôm sau chúng tôi chuẩn bị lên đường.
Mang theo vào sa mạc tất cả vũ khí và đồ đạc tất nhiên là điều điên rồ. Chúng tôi thanh toán cho những người khuân đồ và thống nhất với một người Caphơ sống cạnh đấy để ông ta trông coi hộ đồ vật mà lúc quay lại chúng tôi sẽ lấy. Tôi thật sự đau lòng mỗi lần nghĩ tới việc chúng tôi phải giao những khẩu súng tuyệt vời của mình cho thằng ăn cắp ấy. Vừa nhìn thấy súng là mắt lão đã lộ vẻ vui mừng, lão không thể dứt cái nhìn tham lam của lão khỏi chúng. Vì vậy, tôi buộc phải áp dụng một vài biện pháp ngăn ngừa. Trước hết, tôi lên đạn tất cả các súng, mở khóa an toàn và nói với lão rằng nếu lão động đến, lập tức chúng sẽ nổ. Lão liền thử sờ vào khẩu hai nòng của tôi. Súng nổ, và viên đạn xuyên thủng bụng một con bò của lão lúc ấy đang được lùa về làng, còn lão thì bị súng giật ngã ngửa về phía sau. Lão hoảng sợ lổm ngổm bò dậy, và tiếc của vì mất bò, lão còn trâng tráo bắt tôi bồi thường. Đồng thời lão thề rằng từ nay không có gì trên đời có thể bắt lão động đến súng của chúng tôi.
– Hãy giấu ngay những con quỷ sống ấy vào đống rơm, – Lão càu nhàu, – Nếu không, chúng sẽ giết hết chúng tôi.
Biết lão già rất mê tín, tôi dọa lão rằng nếu để mất dù chỉ một đồ vật, tôi sẽ dùng phép phù thủy giết chết lão và tất cả người thân của lão, và không may chúng tôi chết dọc đường, nếu lão định giở trò ăn cắp súng thì hồn ma của tôi từ thế giới bên kia sẽ hiện về để ám lão cả ngày lẫn đêm. Sau Đấy tôi còn dọa thêm rằng tôi sẽ làm súc vật của lão phát điên, rằng tất cả sữa của lão sẽ bị chua, còn lão thì bị tôi đẩy vào tình trạng khốn cùng, đến nỗi không muốn sống nữa. Ngoài ra, tôi hứa sẽ thả những con quỷ đang ngồi trong nòng súng ra để chúng nói chuyện một cách tử tế với lão. Tóm lại, tôi đã làm cho lão đủ hiểu lão sẽ bị trừng phạt thế nào, nếu không giữ đúng lời hứa. Nghe xong, lão già thề sẽ giữ gìn đồ vật của chúng tôi thiêng liêng như linh hồn của cha ông lão.
Thỏa thuận với lão già xong, và bằng cách ấy trút bỏ được một phần gánh nặng, chúng tôi chỉ chọn mang theo những thứ không thể thiếu được cho chuyến đi dài ngày sắp tới. Nhưng dù cố mang theo thật ít, cuối cùng mỗi người chúng tôi vẫn phải mang nặng gần hai mươi cân.
Sau đây là những thứ chúng tôi mang theo:
Ba khẩu súng trường kiểu Express cùng hai trăm viên đạn.
Hai khẩu Winchester có hộp đạn (cho Ambov và Venphôghe) cùng hai trăm viên đạn.
Ba khẩu côn và sáu mươi viên đạn.
Năm bình đựng nước, mỗi bình bốn lít.
Năm chăn.
Mười hai cân thịt phơi khô.
Năm cân chuỗi hạt loại tốt nhất để làm quà.
Một tủ thuốc nhỏ với các thứ thuốc cần thiết nhất trong đó có ba mươi gam kí ninh và hai bộ đồ mổ gọn nhẹ.
Ngoài các thứ kể trên, chúng tôi còn mang theo một số đồ vặt vãnh như địa bàn, diêm, một bình lọc loại bỏ túi, thuốc lá, chiếc xẻng nhỏ, một chai rượu mạnh và cuối cùng là quần áo mà chúng tôi đang mặc trên người. Đối với một cuộc hành trình lâu dài và mạo hiểm, chừng ấy không phải là nhiều, nhưng chúng tôi không dám mang thêm, vì như thế, chúng tôi cũng đã phải mang mỗi người hai mươi cân, một gánh nặng đáng kể. Lê chân giữa cát nóng như lửa mà còn phải mang nặng không phải là việc đơn giản; ở trong những trường hợp như thế, mỗi gam đều có ý nghĩa. Mặc dù đã tìm hết mọi cách, chúng tôi cũng không thể bớt đi một tí nào, vì chỉ mang đi theo những gì không thể không có.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.