Lá Thư Trong Chai
CHƯƠNG 5
Theresa thức giấc sớm theo thói quen, cô ra khỏi giường để nhìn ra ngoài cửa sổ. Mặt trời Bắc Carolina đang trút xuống những sắc màu lăng kính vàng rực xuyên qua màn sương buổi sớm, cô bèn trượt mở cánh cửa ra ban công để làm căn phòng trong lành.
Trong phòng tắm, cô trút bộ pijama ra và bắt đầu tắm. Bước vào buồng tắm, cô nghĩ tới đây sao mà dễ dàng đến thế. Chưa đầy bốn mươi tám tiếng trước cô còn đang ngồi với Deanna, nghiên cứu mấy lá thư, gọi điện thoại và tìm kiếm Garrett. Lúc ra khỏi nhà, cô đã nói chuyện với Ella, bà lại đồng ý trông nom Harvey và nhận thư hộ cô.
Ngày hôm sau cô tới thư viện và nghiên cứu về môn lặn có bình dưỡng khí. Đó xem ra là một việc làm hợp lý. Những năm làm phóng viên đã dạy cô chớ có coi thường bất cứ điều gì, biết lập kế hoạch và làm hết sức để chuẩn bị cho bất cứ chuyện gì.
Cái kế hoạch mà cuối cùng cô cũng phác ra thật đơn giản. Cô sẽ tới Island Diving và lượn lờ quanh cửa hiệu đó, hy vọng ngó thấy Garrett Blake. Nếu anh ta hoá ra lại là một ông già bảy mươi hoặc một thằng nhóc sinh viên hai mươi thì đơn giản là cô sẽ quay về. Nhưng nếu trực giác của họ đúng và anh ta xấp xỉ tuổi cô thì cô quyết định sẽ thử nói chuyện với anh ta xem sao. Đó là lý do vì sao cô lại dành thời gian tìm hiểu một chút về môn lặn có bình dưỡng khí – cô muốn nói chuyện nghe như mình biết chút gì đó về nó. Và cô sẽ có thể tìm hiểu sâu hơn về anh ta nếu cô nói chuyện được với anh ta về điều mà anh ta thích, chứ không phải nói với anh ta quá nhiều về bản thân cô. Có thế thì cô mới hiểu được sâu hơn về mọi chuyện.
Nhưng sau đó thì sao? Đó là phần mà cô vẫn chưa biết chính xác. Cô không muốn nói với Garrett toàn bộ sự thật về lý do cô đến đây – điều đó nghe thật điên rồ. Chào, tôi đã đọc những lá thư anh gửi cho Catherine và biết anh yêu cô ấy đến nhường nào, tôi chỉ nghĩ có lẽ anh là người đàn ông mà tôi đang tìm kiếm. Không, điều đó là không thể, và lựa chọn khác có vẻ cũng chẳng tốt hơn – Chào, tôi ở Thời báo Boston và tôi đã tìm được những lá thư của anh. Chúng tôi có thể viết một bài báo về anh được không? Cách đó có vẻ cũng không ổn. Bất cứ ý tưởng nào khác đang xâm nhập vào đầu cô đều không ổn.
Nhưng cô không cất công đi xa thế này để đến giờ thì bỏ cuộc, dù cho cô không biết phải nói gì đi nữa. Hơn nữa, như Deanna đã nói, nếu không có kết quả gì thì cô cũng chỉ phải quay lại Boston thôi.
Cô bước ra khỏi vòi sen, lau khô người trước khi bôi một chút kem dưỡng ẩm lên hai cánh tay và đôi chân, mặc áo sơ mi trắng cộc tay, quần soóc bò và xỏ một đôi xăng đan trắng. Cô muốn mình trông tự nhiên, mà quả là thế thật. Cô chẳng muốn trông quá nổi bật chút nào. Rốt cuộc cô cũng đâu biết phải chờ đợi điều gì, và cô muốn có cơ hội tự mình đánh giá tình hình mà không phải đối phó với bất cứ ai khác.
Sau cùng, khi đã sẵn sàng đi, cô tìm thấy cuốn danh bạ điện thoại, giở ra và ghi nhanh địa chỉ của Island Diving vào một mẩu giấy. Hít hai hơi thật sâu, cô bước dọc hành lang. Cô nhắc lại câu thần chú của Deanna.
Điểm dừng chân đầu tiên của cô là một cửa hàng tạp hoá, tại đây cô mua một tấm bản đồ Wilmington. Người bán hàng còn chỉ đường cho cô, và cô tìm được đường rất dễ dàng dù Wilmington rộng hơn cô tưởng. Đường phố ùn ùn xe cộ, nhất là khi cô đi qua mấy cây cầu dẫn đến những hòn đảo sát bờ biển. Bãi biển Kure, bãi biển Carolina, và bãi biển Wrightsville đều được bắc cầu từ thành phố sang, và đó là nơi mà có vẻ như hầu hết các luồng xe cộ đều hướng tới.
Island Diving nằm gần bến đậu du thuyền. Lúc cô ra khỏi thành phố, giao thông đã bớt đông đúc hơn, sau khi ra tới con đường mà cô cần đến, cô đi chậm lại và tìm cửa hàng đó.
Nó cách chỗ cô vừa rẽ không xa lắm. Như cô mong đợi, có một vài chiếc xe khác đậu cạnh toà nhà. Cô cho xe táp vào một chỗ trống cách lối vào mấy chỗ đỗ xe.
Đó là một toà nhà cũ bằng gỗ, đã bạc màu vì hơi muối và gió biển, một mặt cửa hàng hướng ra đường thuỷ ven bờ Đại Tây Dương. Biển hiệu sơn bằng tay treo trên hai dây xích kim loại han gỉ, và các cửa sổ trông như phủ bụi do cả ngàn trận mưa bão.
Cô ra khỏi xe, gạt tóc khỏi mặt và đi về phía cửa ra vào. Cô dừng lại trước khi mở cửa để hít một hơi sâu và trấn tĩnh, rồi bước vào trong, cố hết sức để giả bộ như mình đến vì những lý do thông thường.
Cô dạo khắp cửa hàng, thơ thẩn giữa các lối đi, nhìn đủ loại khách hàng cầm lên đặt xuống các món đồ trên giá. Cô để ý xem người nào có vẻ là người làm tại đó. Cô lén liếc nhìn mọi người đàn ông trong cửa hàng, tự hỏi, Anh có phải là Garrett? Tuy nhiên, hầu hết đều có vẻ là khách hàng.
Cô lách tới chỗ bức tường cuối cửa hàng và thấy mình dán mắt vào một loạt bài báo và tạp chí, được đóng khung, ép và treo bên trên những cái giá. Cô liếc qua, đoạn ngả về phía trước để nhìn kỹ hơn và chợt nhận ra rằng mình vừa tình cờ tìm ra câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất về Garrett Blake bí ẩn.
Cuối cùng thì cô cũng biết được anh trông thế nào.
Bài báo thứ nhất, in lại từ tờ báo, viết về môn lặn có bình dưỡng khí, và dòng chú thích bên dưới tấm ảnh đề đơn giản “Garrett Blake ở Island Diving, đang chuẩn bị cho lớp học của anh trong chuyến đi lặn biển đầu tiên.”
Trong tấm ảnh, anh đang chỉnh lại những sợi dây đai buộc cái bình vào lưng một học viên, và nhìn tấm ảnh cô có thể thấy rằng Deanna và mình đã đoán đúng về anh. Anh chừng ngoài ba mươi, khuôn mặt xương xương và mái tóc nâu cắt ngắn dường như đã bị phai màu một chút bởi những giờ phơi trần dưới nắng. Anh cao hơn học viên kia khoảng năm phân, và chiếc áo sơ mi ba lỗ anh đang mặc phô bày những múi cơ rõ rệt trên cánh tay.
Vì tấm ảnh hơi sạn nên cô không không thể xác định được màu mắt của anh, mặc dù có thể nhận thấy là khuôn mặt anh cũng sạm nắng. Cô nghĩ mình nhìn thấy những nếp nhăn nơi khoé mắt anh, mặc dù cái đó có lẽ là do nheo mắt dưới nắng.
Cô đọc kỹ bài báo đó, chú ý xem anh thường dạy học vào thời điểm nào và một số chi tiết về việc thi lấy chứng chỉ. Bài báo thứ hai không có tấm ảnh nào nhưng nói về việc đi lặn dò tàu đắm vốn có nhiều ở Bắc Carolina. Hình như Bắc Carolina có hơn năm trăm con tàu đắm ở gần bờ biển được ghi lại trên hải đồ và được gọi là Nghĩa địa của Đại Tây Dương. Chính bởi quần đảo Outer Bank và các đảo khác nằm sát bờ biển nên tàu thuyền hay bị mắc cạn trong nhiều thế kỷ qua.
Bài báo thứ ba, lại không có ảnh, nói về Monitor, chiếc tàu bọc sắt đầu tiên của Liên bang thời Nội chiến. Trên đường tới Nam Carolina, nó đã bị chìm gần Mũi Hatteras vào năm 1862 trong khi đang được một chiếc tàu chạy bằng hơi nước kéo đi. Xác con tàu này cuối cùng cũng được khám phá ra, và Garrett Blake cùng với những thợ lặn khác từ Viện Hải dương học Duke đã được đề nghị lặn xuống thềm lục địa để thăm dò khả năng trục vớt nó.
Bài báo thứ tư viết về Happenstance. Tám bức ảnh chiếc thuyền đã được chụp từ nhiều góc khác nhau, cả bên trong lẫn bên ngoài, tất cả đều miêu tả chi tiết công cuộc khôi phục. Cô đọc thấy rằng chiếc thuyền này độc đáo ở chỗ nó được làm hoàn toàn bằng gỗ và ban đầu được đóng ở Lisbon, Bồ Đào Nha, vào năm 1927. Được thiết kế bởi Herreshoff, một trong những kỹ sư hàng hải nổi tiếng nhất thời kỳ đó, nó có một bề dày lịch sử ly kỳ (trong đó có cả việc được sử dụng trong Thế chiến II để do thám các đơn vị đồn trú của Đức dọc bờ biển nước Pháp). Cuối cùng, con thuyền đến với hòn đảo Nantucket, ở đây nó được một thương nhân địa phương mua lại. Vào lúc Garrett Blake mua lại nó bốn năm trước đó, nó đã rơi vào tình trạng tả tơi, bài báo viết rằng anh và vợ, Catherine, đã sửa chữa lại.
Cạtherine…
Theresa nhìn vào ngày đăng báo. Tháng Tư năm 1992. Bài báo không đề cập đến chuyện Catherine đã qua đời, mà một trong những lá thư cô có được tìm thấy cách đây ba năm ở Norfolk, vậy có nghĩa là Catherine hẳn phải qua đời vào khoảng năm 1993.
“Tôi giúp gì được cô không?”
Theo phản xạ Theresa quay về phía giọng nói sau lưng. Một người đàn ông trẻ đứng sau cô mỉm cười, và cô chợt thấy mừng vì đã xem tấm ảnh chụp Garrett lúc trước. Người này rõ ràng không phải là anh ta.
“Tôi làm cô giật mình à?” anh ta hỏi, Theresa vội lắc đầu.
“Không… tôi chỉ đang xem những bức ảnh thôi.”
Anh ta hất cằm về phía mấy tấm ảnh. “Nang quả là một đáng kể, phải không?”
“Ai cơ?”
“Happenstance ấy. Garrett – anh chàng sở hữu cửa hàng này – đã khôi phục nó. Nó là một con thuyền tuyệt vời. Giờ thì nó được hoàn tất rồi, một trong những con thuyền đẹp nhất tôi từng thấy.”
“Anh ta có ở đây không? Ý tôi là Garrett ấy.”
“Không, anh ấy ở dưới bến thuyền. Phải tới gần trưa anh ấy mới về cơ.”
“Ồ…”
“Tôi có thể giúp cô tìm gì không? Tôi biết cửa hàng hơi lộn xộn, nhưng mọi thứ cô cần cho việc lặn đều có ở đây.”
Cô lắc đầu. “Không, thật ra tôi chỉ xem qua thôi.”
“Ok, nhưng nếu tôi có thể giúp cô tìm thứ gì thì cô cứ bảo nhé.”
“Vâng.” cô nói, người đàn ông trẻ gật đầu vui vẻ rồi quay đi và bước về phía quầy thu ngân ở mặt trước cửa hàng. Không kìm được, cô nghe thấy chính mình hỏi:
“Anh bảo là Garrett đang ở dưới bến thuyền à?”
Anh ta quay lại, vừa nói vừa tiếp tục đi giật lùi. “Vâng… xuôi xuống phố cách đây hai dãy nhà. Ở chỗ bến đậu du thuyền ấy. Cô có biết chỗ đó không?”
“Tôi nghĩ trên đường tới đây tôi đã đi qua.”
“Anh ấy phải ở đó chừng một tiếng nữa, nhưng như tôi vừa nói, lát nữa cô quay lại thì anh ấy đã ở đây rồi. Cô có muốn tôi nhắn gì cho anh ấy không?”
“Không, vậy cũng được. Chuyện đó không quan trọng đến thế đâu.”
Cô dành nửa tiếng nữa giả vờ ngắm nghía mấy món đồ khác trên giá, rồi đi ra sau khi vẫy tay chào người đàn ông trẻ.
Nhưng thay vì ra xe, cô đi thẳng về phía bến đậu du thuyền.
Tới bến đậu, cô nhìn quanh, hy vọng sẽ phát hiện ra Happenstance. Vì đa phần các du thuyền đều màu trắng còn Happenstance lại toàn bằng gỗ nên cô dễ dàng tìm thấy nó và đi tới con dốc dẫn xuống đó.
Mặc dù cô cảm thấy hồi hộp khi bắt đầu đi xuống con dốc, những bài báo trong cửa hàng đã cung cấp cho cô một vài ý tưởng về nội dung cuộc trò chuyện. Khi gặp anh, cô sẽ chỉ giải thích rằng sau khi đọc bài báo về Happenstance, cô muốn nhìn cận cảnh con thuyền. Điều đó nghe có vẻ đáng tin và hy vọng là cô có thể tận dụng nó để kéo dài thêm cuộc trò chuyện. Rồi, đương nhiên, cô sẽ trực tiếp biết được gì đó về con người anh. Và sau đó… ở, sau đó cô sẽ thấy.
Tuy nhiên, khi tới gần chiếc thuyền, điều đầu tiên cô nhận ra là hình như chẳng có ai quanh đó cả. Không có ai trên thuyền, cũng chẳng có ai trên biển, và xem ra từ sáng tới giờ chẳng có ai ở đó. Con thuyền đã bị khoá, buồm đã được bọc lại và chẳng thứ gì có vẻ lạc chỗ cả. Sau khi tìm kiếm xung quanh xem có thấy bóng dáng anh đâu không, cô kiểm tra lại cái tên ở mặt sau thuyền. Nó đích thị là Happenstance. Bối rối, cô vén món tóc bị thổi xoà xuống mặt. Lạ thật, cô nghĩ, người đàn ông ở cửa hàng đã bảo anh ta ở đây cơ mà.
Thay vì quay lại cửa hàng luôn, cô ở lại chiêm ngưỡng con thuyền một lát. Nó thật đẹp – tráng lệ và xù xì, không giống những chiếc du thuyền xung quanh. Nó cá tính hơn hẳn những chiếc thuyền buồm đang đậu ở hai phía, và cô đã hiểu tại sao tờ báo đó lại viết bài về nó. Ở khía cạnh nào đó, nó làm cô nghĩ tới một phiên bản nhỏ hơn rất nhiều của những con tàu hải tặc mà cô từng xem trên phim. Cô đi đi lại lại vài phút, ngắm nghía nó từ nhiều góc độ, và tự hỏi nó đã bị lãng quên bao lâu trước khi được sửa chữa. Trông nó hầu như còn mới, dù cô đoán là họ vẫn chưa thay tất cả phần gỗ. Có lẽ là họ đã đánh giấy ráp, và khi nhìn gần hơn cô thấy những vết khía ở trên thân thuyền, chúng càng khiến cô tin vào giả thiết của mình.
Sau một lát, cuối cùng cô quyết định quay lại Island Diving. Rõ ràng là người đàn ông ở cửa hàng đã nhầm. Liếc con thuyền lần cuối, cô quay lưng bước đi.
Một người đàn ông đang đứng trên bờ dốc chỉ cách cô chừng hơn một mét đang nhìn cô với vẻ thận trọng.
Garrett…
Mồ hôi anh túa ra vì cái nóng buổi sáng, và chiếc áo sơ mi của anh có vài chỗ ướt sũng. Hai ống tay đã bị xé, để lộ những bắp thịt căng vồng trên cánh tay và cẳng tay. Hai bàn tay anh đen kịt vì thứ rõ ràng là dầu máy, và chiếc đồng hồ thợ lặn trên cổ tay anh xước nhằng, như thể anh đã đeo nhiều năm rồi. Anh mặc quần soóc màu nâu nhạt, đi giày lười không tất và trông như một người đã dành hầu hết – nếu không phải là toàn bộ – thời gian trên biển.
Anh nhìn cô chằm chằm trong lúc cô vô tình lùi lại một bước. “Tôi giúp gì được cô?” anh hỏi. Anh mỉm cười nhưng không tiến đến chỗ cô, như thể e ngại cô sẽ cảm thấy mình bị bẫy vậy.
Đó chính xác là điều mà cô cảm thấy khi họ nhìn vào mắt nhau.
Cô chỉ biết tròn mắt nhìn anh một lúc. Mặc dù cô đã xem ảnh, nhưng trông anh khá hơn cô tưởng, dù cô không rõ tại sao. Anh cao lớn và có đôi vai rộng. Mặc dù không đẹp trai lồng lộng, nhưng khuôn mặt anh rám nắng và gồ ghề, như thể nắng và biển đã phát huy tác hại của nó. Mắt anh không có sức thôi miên như mắt David trước kia, nhưng chắc chắn có điều gì đó hấp dẫn ở anh. Cái cách anh đứng trước mặt cô có gì đó thật nam tính.
Nhớ ra kế hoạch của mình, cô hít một hơi sâu. Cô bước về phía Happenstance.
“Tôi chỉ đang ngắm chiếc thuyền của anh thôi. Nó thật đẹp.”
Xoa hai bàn tay vào nhau để loại bỏ đi một ít dầu mỡ thừa, anh lịch sự nói, “Cảm ơn cô, cô nói vậy nghe thật tử tế.”
Cái nhìn điềm tĩnh của anh dường như đã phơi bày sự thật của tình huống này, và đột nhiên mọi chuyện cùng lúc ùa về với cô – tìm thấy cái chai, sự tò mò càng lúc càng tăng, công cuộc nghiên cứu cô đã thực hiện, chuyến đi tới Wilmington, và cuối cùng là cuộc gặp gỡ mặt đối mặt này. Cảm thấy choáng ngợp, cô nhắm mắt lại và thấy mình đang vật lộn để lấy lại tự chủ. Chẳng hiểu sao cô không mong chuyện này xảy ra nhanh chóng đến thế. Đột nhiên, trong một thoáng cô cảm thấy sợ hãi khủng khiếp.
Anh bước lên một chút. “Cô ổn chứ?” anh hỏi bằng giọng quan tâm.
Hít một hơi sâu nữa và buộc mình phải bình tĩnh lại, cô nói, “Vâng, tôi nghĩ vậy. Tôi chỉ hơi chóng mặt một chút thôi.”
“Cô chắc chứ?”
Cô vuốt tóc, ngượng ngùng. “Vâng, giờ thì tôi ổn rồi. Thật đấy.”
“Tốt,” anh nói như thể chờ xem liệu cô có nói thật không. Rồi, khi đã chắc chắn là cô nói thật, anh hỏi vẻ tò mò: “Chúng ta đã gặp nhau chưa nhỉ?”
Theresa lắc đầu chầm chậm. “Tôi không nghĩ thế.”
“Vậy thì làm sao cô biết được chiếc thuyền là của tôi?”
Thở phào, cô đáp, “À… ở cửa hàng tôi thấy ảnh của anh trong những bài báo trên tường, cùng với những bức ảnh chụp chiếc thuyền. Anh chàng ở cửa hàng của anh bảo là anh ở đây, và tôi nghĩ nếu anh có ở đây thì tôi sẽ tự mình tới xem.”
“Cậu ta bảo tôi ở đây à?”
Cô im lặng trong lúc nhớ lại chính xác câu đó. “Thật ra anh ta bảo tôi là anh đang ở ngoài bến đậu du thuyền. Tôi chỉ giả định rằng như thế có nghĩa là anh đang ở đây.”
Anh gật đầu. “Tôi ở bên thuyền khác kia – chiếc thuyền chúng tôi dùng để đi lặn.”
Một chiếc thuyền đánh cá bấm còi inh ỏi, Garrett bèn quay qua vẫy tay với người đàn ông đang đứng trên boong. Sau khi nó đi rồi, anh lại quay lại đối diện với cô và đột ngột nhận ra cô xinh đẹp nhường nào. Nhìn gần cô còn xinh hơn so với khi anh thấy cô từ bến thuyền. Tự dưng anh cụp mắt xuống và với lấy cái khăn rằn đỏ trong cái túi quần phía sau. Anh lau mồ hôi trên trán.
“Anh khôi phục nó giỏi thật,” Theresa nói.
Anh mỉm cười yếu ớt trong lúc cất cái khăn đi. “Cảm ơn cô, cô thật tử tế khi nói thế.”
Theresa liếc nhìn Happenstance trong lúc anh nói, rồi lại nhìn anh. “Tôi biết chuyện này chẳng liên quan gì đến tôi,” cô nói vẻ tự nhiên, “nhưng vì anh đã ở đây nên anh có phiền không nếu tôi hỏi anh một chút về nó?”
Nhìn nét mặt của anh, cô biết rằng đây không phải là lần đầu anh bị hỏi về con thuyền.
“Cô muốn biết gì nào?”
Cô cố nói nghe sao cho có vẻ như chỉ đang trò chuyện bình thường. “Ừm, có phải hồi anh mới mua, nó đang ở trong tình trạng rất tệ như bài báo đã nói không?”
“Thật ra là tình trạng của nó còn tệ hơn thế.” Anh tiến lên chỉ vào nhiều chỗ trên tàu trong lúc nhắc đến chúng. “Nhiều mảnh gỗ mục tơi tả gần chỗ mũi thuyền, hàng loạt lỗ thủng lỗ chỗ dọc mạn thuyền – thật kinh ngạc là nó vẫn nổi được. Cuối cùng chúng tôi cũng phải thay một phần lớn thân và sàn thuyền, phần còn lại phải được đánh ráp toàn bộ rồi gắn lại và đánh véc ni. Mà đó mới chỉ là bên ngoài. Chúng tôi còn phải làm cả bên trong nữa, và việc đó còn tốn thời gian hơn rất nhiều.”
Dù đã chú ý thấy từ “chúng tôi” trong câu trả lời của anh, cô vẫn quyết định không bình luận gì về nó cả.
“Hẳn là phải nhiều việc lắm.”
Cô mỉm cười khi nói câu đó, và Garrett cảm thấy có gì đó trong anh thắt lại. Khỉ thật, cô ấy đẹp quá.
“Đúng thế, nhưng cũng đáng lắm. Lái chiếc thuyền này thú vị hơn những chiếc khác.”
“Tại sao?”
“Vì nó được làm ra bởi những người sử dụng nó để kiếm sống. Họ đã dồn nhiều tâm sức để thiết kế nó, và điều đó khiến việc lái nó trở nên dễ dàng hơn.”
“Tôi đoán thế tức là anh đã lái thuyền buồm cũng lâu rồi.”
“Từ hồi tôi còn bé.”
Cô gật đầu. Ngừng một lát, cô tiến một bước ngắn về phía thuyền. “Anh có phiền không?”
Anh lắc đầu. “Không, cô cứ đi đi.”
Theresa bước tiếp về phía con thuyền và vuốt tay dọc theo mạn thuyền. Garrett để ý thấy cô không đeo nhẫn, tuy không nên coi điều đó là quan trọng gì dù theo cách này hay cách khác. Không quay lại, Theresa hỏi: “Gỗ này là gỗ gì vậy?”
“Gỗ gụ.”
“Cả con thuyền sao?”
“Phần lớn. Ngoại trừ mấy cột buồm và một vài chi tiết bên trong.”
Cô lại gật đầu, Garrett quan sát trong lúc cô bước đi dọc con thuyền Happenstance. Khi cô bước đi xa hơn, anh không thể không nhận thấy dáng người và mái tóc đen, thẳng của cô lướt qua vai. Nhưng điều khiến anh chú ý không chỉ là vẻ ngoài của cô, mà cả sự tự tin trong cách cô cất bước. Anh chợt nhận ra, tuồng như cô biết chính xác đàn ông đang nghĩ gì khi cô đứng gần họ vậy. Anh lắc đầu.
“Có thật họ đã dùng con thuyền này để do thám quân Đức trong Thế chiến II không?” cô quay lại phía anh hỏi.
Anh cười khẽ, cố gắng hết sức để làm cho đầu óc tỉnh táo lại. “Đó là điều mà người chủ cũ đã bảo tôi, mặc dù tôi cũng chẳng biết chuyện đó có thật hay là ông ta nói thế để làm giá nữa.”
“Ồ, kể cả không phải vậy thì nó vẫn là một chiếc thuyền đẹp. Anh khôi phục nó mất bao lâu?”
“Gần một năm.”
Cô liếc vào một trong những ô cửa sổ tròn, nhưng nó tối đến mức khó thấy được gì nhiều bên trong. “Hồi sửa Happenstance thì anh đang lái thuyền gì?”
“Chúng tôi không lái thuyền. Làm gì có thời gian, vừa làm việc ở cửa hàng, vừa dạy học, lại vừa cố làm cho xong cái thứ này mà.”
“Anh có phải trải qua những cơn thèm ra khơi không?” cô hỏi, mỉm cười, và lần đầu tiên, Garrett nhận ra mình thích cuộc trò chuyện này.
“Có chứ. Nhưng chúng hết ngay khi chúng tôi hoàn tất công việc và đưa con thuyền xuống biển.”
Một lần nữa, cô lại nghe thấy từ “chúng tôi”.
“Tôi cũng chắc vậy.”
Sau khi chiêm ngưỡng con thuyền thêm giây lát, cô quay lại chỗ anh. Một lúc sau, cả hai vẫn không nói gì. Garrett tự hỏi liệu cô có biết là anh đang lén liếc nhìn cô không.
“Mà,” cuối cùng cô khoanh tay lại, cất lời, “có lẽ tôi đã làm mất thì giờ của anh đủ rồi.”
“Không sao,” anh nói, lại cảm thấy mồ hôi rịn ra trên trán. “Tôi thích nói về chuyện lái thuyền buồm mà.”
“Tôi cũng thế. Lúc nào tôi cũng thấy chuyện đó có vẻ thật thú vị.”
“Cô nói nghe như là cô chưa từng đi thuyền buồm bao giờ vậy.”
Cô nhún vai. “Chưa. Tôi vẫn luôn muốn được đi, nhưng sự thực thì chưa từng có dịp nào cả.”
Cô vừa nói vừa nhìn anh, và khi mắt họ giao nhau, Garrett thấy mình với tay lấy cái khăn rằn lần thứ hai trong vài phút. Chết tiệt, ngoài này nóng quá. Anh lau trán và nghe thấy mình buột miệng nói ra những lời này.
Ờ, nếu cô thích đi thì tôi vẫn luôn lái nó ra biển sau giờ làm việc đấy. Cô hoàn toàn có thể đi cùng tôi tối nay.”
Sao anh lại nói thế, anh cũng không rõ lắm. Anh nghĩ, có lẽ là do nỗi thèm khát được làm bạn với một người phụ nữ sau ngần ấy năm trời, dù chỉ là trong một thời gian ngắn. Hoặc có lẽ nó có liên quan gì đó tới ánh mắt long lanh của cô mỗi khi nói. Nhưng dù vì lý do gì thì anh cũng đã rủ cô đi cùng mất rồi, và anh chẳng còn cách nào để thay đổi điều đó cả.
Theresa cũng hơi ngạc nhiên, nhưng cô nhanh chóng quyết định nhận lời. Rốt cuộc thì đó chính là lý do mà cô tới Wilmington mà.
“Rất sẵn lòng,” cô đáp. “Mấy giờ nhỉ?”
Anh cất cái khăn đi, cảm thấy hơi do dự về việc mình vừa làm. “Tầm bảy giờ được không? Lúc đó mặt trời mới bắt đầu lặn, và đó là thời điểm lý tưởng để ra khơi.”
“Bảy giờ quá tuyệt cho tôi. Tôi sẽ mang thứ gì đó đi ăn.” Vẻ vui mừng và phấn khích của cô trước chuyến đi khiến Garrett ngạc nhiên.
“Cô không cần phải làm thế đâu.”
“Tôi biết, nhưng ít ra tôi có thể làm vậy chứ. Rốt cuộc thì anh cũng đâu có phải rủ tôi đi cùng. Bánh kẹp được chứ?”
Garrett lùi lại một bước, chợt thấy cần chút khoảng không để thở. “Vâng, thế cũng được. Tôi không kén chọn lắm đâu.”
“Ok,” cô nói rồi ngừng lại một lát. Cô chuyển trọng tâm từ chân này sang chân kia, chờ xem liệu anh có nói thêm gì khác nữa không. Thấy anh không nói gì, cô lơ đãng chỉnh lại cái quai xắc trên vai. “Xem nào, vậy là tôi sẽ gặp lại anh tối nay. Chỗ chiếc thuyền phải không?”
“Ngay tại đây,” anh nói, chợt nhận ra giọng mình nghe căng thẳng ra sao. Anh hắng giọng và cười mỉm. “Sẽ rất vui. Cô sẽ thấy thích cho xem.”
“Chắc chắn là thế rồi. Gặp lại anh sau nhé.”
Cô quay đi và bước xuống dốc, mái tóc tung bay theo gió. Khi cô bước đi, Garrett nhận ra điều mình đã quên mất.
“Này!” anh kêu lên.
Cô dừng lại và quay về phía anh, đưa bàn tay lên che mắt cho khỏi chói. “Gì vậy?”
Từ xa như thế trông cô vẫn xinh đẹp.
Anh tiến vài bước về phía cô. “Tôi quên không hỏi. Cô tên gì nhỉ?”
“Tôi tên là Theresa. Theresa Osborne.”
“Tôi là Garrett Blake.”
“Ok, Garrett, gặp lại anh lúc bảy giờ nhé.”
Nói đoạn, cô quay lưng và bước đi mạnh mẽ. Garrett nhìn theo bóng cô lùi dần, cố hiểu những cảm xúc mâu thuẫn trong lòng. Mặc dù một phần trong anh phấn khích về chuyện sắp xảy ra, phần khác lại cảm thấy có gì đó sai trái trong toàn bộ chuyện này. Anh biết chẳng có lý do gì phải cảm thấy có lỗi cả, nhưng cái cảm giác ấy cứ lù lù ở đó, và anh ước có thể làm gì đó với nó.
Nhưng đương nhiên là không có cách gì cả. Chẳng bao giờ có.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.