Bà từng là một phụ nữ xinh đẹp, đôi khi Mary Allen nhìn vào ngón tay mình và thấy những dấu vết nhăn nhúm của tuổi già, bà tự hỏi: đây là bàn tay ai vậy nhỉ?
Của một người lạ, chắc chắn rồi, một người già, không phải tay của mình, không phải của Mary Hatches xinh đẹp. Đột ngột một chớp sáng lóe lên và bà nhìn quanh căn phòng nhận ra mình lại nằm mơ. Không phải một giấc mơ đến trong một giấc ngủ trọn vẹn, mà là cái gì đó qua đầu bà và đọng lại ở đó. Đó là moocphine. Bà cảm thấy biết ơn nó, nó đem đi mọi nỗi đau và để những hình ảnh ở lại, hình ảnh về cuộc sống đã qua. Bà đã nghe nói về cuộc sống như một vòng quay, và nó sẽ quay lại điểm xuất phát. Nhưng cuộc sổng của bà không giống quy luật ảo, nó giống như bánh xe lỗ chỗ, chỗ thì hỏng, chỗ lành, chẳng có cái gì thực và thẳng cả.
Nhưng nó có rất nhiều, rất nhiều màu sắc.
Bà mở mắt và cánh cổng đó mở ra, một cửa biển, mùi hương hồng biển, ngọt và hồng, những hạt cát ấm áp dưới chân, những đợt sóng lăn tăn trong vịnh, một bàn tay đang xoa kem đắt tiền lên lưng bà.
Bàn tay của Geoffrey.
Cánh cổng mở ra rộng hơn, và anh bước vào, những ký ức được nối lại, không phải anh trên bãi biển đó, nhưng như lần đầu tiên nhìn thấy, anh trong bộ đồng phục, mái tóc sẫm màu, khuôn mặt nửa cười. Đó là lần đầu tiên họ nhìn thấy nhau, trên đường phố Boston. Cô đang mang một giỏ hoa cải, trông giống hệt một cô nội trợ đang về nhà chuẩn bị cơm cho chồng. Váy của cô có màu nâu, đó là thời chiến tranh và cái đó là thứ có sẵn trong các cửa hàng. Cô vẫn chưa chải tóc, gió làm nó rối tung lên. Cô nghĩ trông cô khá bê tha, nhưng có một người đàn ông trẻ, đang mỉm cười nhìn theo cô khi cô bước qua chỗ anh ta trên phố.
Ngày tiếp theo, anh tạ lại ở đó, và họ lại thấy nhau, nhưng lần này không phải hai người xa lạ mà còn nhiều hơn thế.
Geoffrey, lại một mất mát nữa, không phải là một hình ảnh vỡ và mờ đi cho đến khi mất hẳn, như chồng cô, nhưng là một hình ảnh về người bị cắt quá nhanh khỏi cuốn băng, gây ra một khoảng trống quá lớn.
Bà nghe thấy tiếng cửa mở, thật chứ không phải trong mơ, nghe tiếng bước chân, một cách nhẹ nhàng họ đến bên giường bà.
Vẫn còn trong cảm giác của moocphine, bà hơi mở mắt, cuối cùng thì bà thấy căn phòng tối om ngoại trừ ánh đèn nhỏ chiếu bên cạnh. Bà cố gắng tập trung vào ánh đèn đó. Nó đang nhảy múa như đốm lửa, sau đó dừng lại ngay cạnh giường bà. Bà tập trung nhìn kỹ hơn và thấy ai đó đang đứng bên giường bà, một cái gì đó giống như chất lỏng, mà hơi lượn sóng. Bà tự hỏi cái gì thế nhỉ, một giấc mơ nữa sao? Cái gì đó không bình thường, bà nghe tiếng giầy kêu và cảm thấy có một bàn tay nắm tay bà, lạnh, và có vẻ như cao su.
Bà thở trong sợ hãi, đây không phải là giấc mơ, đây là thật, thật đấy, bàn tay kia kéo bà đi đâu đó.
Trong vô vọng bà cố gắng vùng vẫy, thoát ra khỏi bàn tay đó.
Một giọng nói nhẹ nhàng.
– Ổn thôi mà Mary, đến giờ đi ngủ rồi.
Mary vẫn nằm yên.
– Ai đấy?
– Tôi sẽ trông nom bà tối nay.
– Đã đến giờ dùng thuốc rồi sao?
– Đúng vậy.
Mary thấy ánh đèn chuyển động trên cánh tay bà, mạch máu, ống dẫn. Bà nhìn thấy bàn tay đeo găng rút kim tiêm ra. Cái mũ được bỏ ra và cái gì đó loáng lên – một cái kìm.
Bà cảm thấy không bình thường, găng tay à? Sao phải đeo găng tay nhỉ.
– Tôi cần y tá của tôi, làm ơn gọi y tá của tôi.
– Không cần đâu.
Giọng nói vang lên và một mũi kim đâm vào mạch máu của bà, Mary cảm thấy cái gì đó ấm ấm chảy vào mạch và chạy lên cánh tay. Bà nhận thấy xilanh rất đầy, không cần lâu như vậy để tiêm thuốc giảm đau cho bà. Không đúng, bà nghĩ khi xilanh hết thuốc, cái gì đó không ổn.
– Tôi cần y tá của tôi. Y tá, làm ơn. – Bà cố gắng nhấc đầu dậy và hét lên yếu ớt.
Một bàn tay đeo găng bịt miệng bà lại và đặt đầu bà lại gối mạnh tới mức Mary thấy mình sắp gẫy cổ. Bà cố gắng đẩy cái tay ra nhưng không thể, nó bịt chặt quá, làm bà không kêu được. Bà vùng vẫy và ống truyền IV rơi ra, không truyền nước muối nữa, nhưng bàn tay vẫn không rời ra. Giờ thì hơi ấm đó lan khắp cơ thể Mary, từ tay tới ngực và đến não. Bà cố gắng cử động chân tay nhưng thấy mình không thể.
Bà nằm yên, chẳng quan tâm nữa.
Bàn tay bỏ ra.
Bà đang chạy, bà thấy mình lại là một cô gái, tóc dài rủ xuống vai, cát ấm áp dưới chân và không khí tràn ngập mùi biển.
Cánh cửa lại mở rộng trước mắt bà.
Điện thoại reo làm Abby tỉnh giấc khỏi chỗ ngủ yên ấm. Cô thấy một vòng tay quanh người mình. Mặc kệ cái giường nhỏ bé họ vẫn ngủ cùng nhau. Một cách nhẹ nhàng, cô gỡ tay Mark ra và nhấc điện thoại.
– DiMatteo nghe đây.
– Bác sĩ, tôi là Charlotte ở phòng số bốn. Bà Allen vừa tắt thở, các thực tập sinh đang bận, bác sĩ có thể qua đây kiểm tra không?
– Được, tôi sẽ qua ngay.
Cô cúp máy và nằm lại xuống giường một chút, cho phép mình xa xỉ một chút. Bà Allen chết. Chuyện này diễn ra sớm hơn dự định. Cuối cùng thì mọi thứ cũng chấm dứt, cô cảm thấy mình hơi tội lỗi, nhưng cô đã trải qua những điều này rồi. Vào ba giờ sáng, cái chết của một bệnh nhân chỉ là một lý do mất ngủ thôi.
Abby ngồi dậy bên giường và đi giầy vào, Mark vẫn ngủ, hơi bị ảnh hưởng một chút bởi tiếng điện thoại thôi. Cô cúi xuống hôn anh. “Em đồng ý”, cô thì thầm vào tai anh và rời khỏi phòng.
Charlotte gặp cô ở phòng y tá số bốn, họ cùng đến phòng của Mary, ở cuối dãy.
– Chúng tôi thấy bà ấy đã ngừng thở lúc khoảng bốn giờ, tôi đã kiểm tra lúc nửa đêm và bà ấy đang ngủ, có lẽ nó xảy ra lúc nào đó sau đấy. Ít nhất bà ấy cũng ra đi yên bình thanh thản.
– Cô đã gọi cho gia đình bệnh nhân chưa?
– Tôi đã gọi cho cháu bà ấy, người có tên trong danh sách, tôi nói với cô ta là không cần tới đâu, nhưng cô ta khăng khăng tới, cô ta đang trên đường tới đây rồi. Chúng tôi đang dọn dẹp mọi thứ.
– Dọn dẹp?
– Vì Mary đã rút ống truyền ra, muối và máu đầy sàn nhà.
Charlotte mở cửa ra và cả hai cùng bước vào.
Duới ánh sáng của ngọn đèn trên tường, Mary Allen nằm như đang ngủ, hai tay đặt xuôi, tấm ga đắp ngang ngực. Nhưng bà không ngủ, rõ ràng như vậy, hai mi mắt vẫn mở. Một tấm vải được vắt qua cằm. Họ hàng đang cầu nguyện không muốn nhìn thấy người họ yêu thương há miệng.
Nhiệm vụ của Abby chẳng tốn nhiều thời gian, cô đặt ngón tay lên động mạch chủ, không có nhịp đập. Cô lấy ống nghe ra nghe ngực bệnh nhân, không có dấu hiệu gì cả, không có nhịp tim. Cô bật đèn soi mắt bệnh nhân, đồng tử ở giữa và không động đậy. Việc chứng tử là đủ thủ tục. Các y tá đã nhận thấy rõ rồi. Vai trò của Abby chỉ là xác nhận lại những tìm hiểu của họ và ghi vào bệnh án. Đó là một trong những trách nhiệm mà họ đã giải thích với cô ở trường y. Những thực tập sinh mới vào, được đề nghị chứng tử cho một bệnh nhân đã chết, họ chẳng biết làm gì. Một vài người có những bài nói ngớ ngẩn, hay đọc kinh, thêm vào danh sách những câu chuyện của các y tá về các bác sĩ ngớ ngẩn.
Một cái chết ở bệnh viện không phải là dịp để đọc diễn văn, mà là cho chữ ký và giấy tờ. Abby cầm bệnh án của Allen lên và hoàn thành công việc của mình. Cô viết.
Không có dấu hiệu hô hấp, không có mạch đập. Thính chẩn cho thấy không có nhịp tim, đồng tử co và không cử động. Bệnh nhân được chẩn đoán chết lúc ba giờ năm phút.
Cô gập cuốn bệnh án lại và chuẩn bị đi ra.
Brenda Hainey đang đứng ở lối vào.
– Tôi xin lỗi cô Hainey, dì cô đã qua đời trong lúc ngủ.
– Khi nào vậy?
– Khoảng nửa đêm. Tôi chắc là bà cảm thấy dễ chịu.
– Vậy có ai ở cùng dì tôi lúc đó không?
– Có các y tá của ca trực.
– Nhưng không có ai trong phòng này đúng không?
Abby ngập ngừng, thừa nhận sự thật vẫn luôn là cách tốt nhất.
– Không, không có ai cả. Tôi chắc chắn điều này xảy ra khi dì cô đang ngủ, đó là một cách yên bình.
Cô bước ra xa khỏi giường.
– Cô có thể ở bên dì cô một lúc nếu cô muốn, tôi sẽ yêu cầu các y tá dành cho cô khoảng riêng.
Abby định đi qua Brenda tiến ra cửa.
– Tại sao không ai làm gì để cứu dì ấy?
Abby quay lại nhìn cô ta.
– Không làm được gì cả.
– Cô có thể sốc tim mà, phải không? Làm đi.
– Không thể được.
– Cô đã làm chưa?
– Chưa.
– Tại sao không? Bởi vì dì ấy quá già à?
– Tuổi tác không quan trọng, bà ấy mắc ung thư giai đoạn cuối.
– Dì ấy mới nhập viện được hai tuần, đó là những gì dì nói với tôi.
– Bà ấy đã rất yếu.
– Tôi nghĩ các người làm dì ấy yếu thêm.
Giờ thì bụng của Abby bắt đầu cồn lên, cô thấy mệt mỏi và muốn quay lại giường ngủ mà người phụ nữ này không để cô yên. Cô muốn phát điên nhưng cô phải giữ bình tĩnh.
– Chúng tôi không thể làm được gì.
– Tại sao không sốc tim cho dì ấy?
– Bà ấy đã ngừng thở, nên chúng tôi không thể sốc tim được. Và chúng tôi không dùng máy hô hấp cho bà ấy được, đó là yêu cầu của dì cô, chúng tôi rất tôn trọng. Bởi thế cô cũng tôn trọng chứ, cô Hainey.
Cô bỏ đi trước khi Brenda có thể mở miệng nói gì đó, trước khi cô bật ra một câu nói có thể khiến cô hối hận.
Cô thấy Mark vẫn đang ngủ trong phòng trực, cô bò lên giường và nằm quay lưng vào ngực anh, kéo tay anh qua người cô. Cô cố gắng lại vùi mình vào sự an toàn ấy, cảm giác ấm áp không suy tư, nhưng cô vẫn cứ thấy hình ảnh Mary Allen, với tấm vải vắt qua cằm, mắt mở qua lớp kính. Một cơ thể ở giai đoạn đầu phân hủy. Cô nhận ra rằng cô chẳng biết gì về cuộc sống của Allen và những người bà yêu thương.
Abby là bác sĩ của bà, và tất cả những gì cô biết về bà là bà đã chết trên giường ngủ.
Không, không hẳn. Lúc nào đó trước khi chết, Mary đã kéo ống truyền ra, y tá đã thấy máu và nước muối trên sàn nhà. Mary đã bị đánh thức, bối rối? Điều gì làm bà ấy kéo ống truyền ra khỏi ven?
Còn nhiều chi tiết về Mary mà Abby không biết.
Mark thở nhẹ và nằm sát vào cô hơn. Cô nắm tay anh và đặt nó vào ngực mình. Em đồng ý, cô mỉm cười mặc dù cảm thấy hơi buồn. Đó là bắt đầu cho một cuộc sống mới, của cô và Mark. Mary Allen đã ra đi và họ chuẩn bị bắt đầu. Cái chết của một bệnh nhân già là một điều buồn nhưng ở đây, ở bệnh viện này, một cuộc sống mới bắt đầu.
Và nó bắt đầu ở đâu?
Đã mười giờ, khi taxi đón Brenda Hainey rời nhà cô ở Chelsea. Cô vẫn chưa ăn sáng, chẳng ngủ được từ sau cuộc gọi từ bệnh viện, cô không cảm thấy mệt cũng không thấy đói, có chăng thì chỉ là sự thanh thản.
Cô đã cầu nguyện bên giường của dì mình đến tận năm giờ. Khi các y tá đến đưa xác vào nhà xác cô lập tức rời bệnh viện, định về thẳng nhà nhưng trong khi đi taxi, cô thấy hình như còn điều gì chưa làm xong. Cần phải làm cái gì đó cho tâm hồn của dì, lúc này có lẽ đang trên cuộc hành trình đi xa. Có thể nó vẫn chưa được dời đi mà vẫn còn mắc kẹt ở đâu đó, giống như thang máy giữa các tầng nhà. Dù nó lên hay xuống, Brenda vẫn cảm thấy không chắc chắn và có cái gì đó làm cô băn khoăn.
Dì Mary chẳng có cuộc sống dễ dàng, dì ấy không tham gia cầu nguyện, cũng không xin Chúa thứ tội, không thèm để ý đến cuốn kinh thánh mà Brenda để bên giường. Dì ấy quá kỳ lạ, Brenda nghĩ vậy. Người ta không thể kỳ lạ như vậy.
Brenda đã từng chứng kiến trước đó, những người bạn của mình và họ hàng của họ rửa sạch tâm hồn trước khi ra đi. Cô là người duy nhất dám làm thiên sứ cho tâm hồn của họ, là người duy nhất quan tâm tới việc cái thang máy sẽ đi tới đâu. Cô chỉ quan tâm tới những điều tốt lành, cô dành thời gian quan tâm tới gia đình nào đang khó khăn, đau ốm, ở bên họ tới tận cùng. Đó là tiếng gọi từ tâm hồn cô. Cô chấp nhận tiếng gọi ấy. Giờ thì cô bằng lòng làm những gì Chúa sai bảo, như một người hầu cận trung thành.
Trong trường hợp của dì Mary, cô đã thất bại. Cái chết đã đến quá sớm, trước khi dì chấp nhận Chúa. Đó là lý do tại sao khi taxi đưa cô về đến Bayside lúc năm giờ sáng, cô cảm thấy mình thất bại. Dì đã ra đi, tâm hồn dì chưa được siêu thoát. Cô, Brenda vẫn chưa yên lòng. Giá mà dì ấy có thể sống thêm, chỉ một ngày cũng đủ rồi.
Chiếc xe đi ngang qua một nhà thờ và đó là nhà thờ Episscopal, không phải là chỗ Brenda hay lui tới nhưng nhà thờ này cũng tạm được.
– Dừng lại. – Cô nói với người lái taxi. – Tôi muốn dừng lại ở đây.
Lúc đó là khoảng sáu giờ rồi, Brenda thấy mình đang ngồi trong một cái ghế trước tượng thánh Andrew. Cô ngồi đó, gần hai tiếng rưỡi và đầu hơi cúi xuống, miệng thì thầm cầu nguyện cho dì Mary, cho linh hồn người phụ nữ ấy, được tha thứ. Linh hồn dì, giờ sẽ không còn bị giữ ở đâu nữa, không bị kẹt giữa các tầng nhà, không đi xuống, mà là đi lên. Khi Brenda ngẩng đầu lên, đã tám giờ rưỡi. Nhà thờ vẫn vắng tanh, không có ai. Ánh sáng buổi sớm đang chiếu qua cánh cửa kính tạo nên các màu sáng xanh và vàng. Khi cô nhìn lên bệ thờ, cô thấy đầu của Chúa được trang trí ở đó. Có thể là một cái gì đó phản chiếu từ cửa sổ, nhưng cũng có thể là một dấu hiệu. Một dấu hiệu cho thấy những lời nguyện cầu của cô đã được trả lời.
Dì Mary đã được cứu rỗi.
Brenda đứng dậy khỏi hàng rào và cảm thấy ánh nắng chói trên đầu, hơi rát nhưng vui vẻ dễ chịu. Một tâm hồn nữa đến với ánh sáng và tất cả là nhờ vào nỗ lực của cô. Thật may là Người đã nghe thấy.
Cô rời cảm giác được thánh Andrew nâng đỡ khi có tiếng bước chân. Bên ngoài, cô thấy một chiếc taxi đang đợi. Có lẽ một dấu hiệu nữa.
Cô về nhà trong tâm trạng bình thản.
Khi bước những bước đầu tiên lên trước cửa nhà, cô nghĩ tới bữa sáng im lặng và một giấc ngủ dài, thoải mái. Ngay cả con chiên của Chúa cũng cần nghỉ ngơi mà. Cô mở khóa.
Một bức thư trên nền nhà, được nhét vào buổi sáng qua khe cửa. Các hóa đơn và thư từ nhà thờ và các lời kêu gọi quyên góp, có quá nhiều người cần giúp đỡ trên thế giới này, Brenda đã tập hợp các bức thư và để chúng vào một chồng khi cô bước vào bếp. Ở cuối chồng thư, cô thấy một phong bì đề tên mình, không có gì trên đó ngoài cái tên của cô. Không có địa chỉ hồi âm.
Cô mở lá thư và mở tờ giấy gập đôi trong đó. Một dòng chữ đánh máy.
Dì cô không chết một cách tự nhiên.
Và ký tên.
Một người bạn.
Chồng thư rơi khỏi tay Brenda, tung tóe trên sàn nhà, cô ngồi phịch trên ghế. Cô không đói, cũng chẳng cảm thấy gì.
Cô nghe thấy tiếng cào bên ngoài cửa sổ, cô nhìn lên và thấy bên cạnh một cành cây, một đôi mắt vàng đang nhìn mình.
Lại một dấu hiệu nữa.