Ngày Đầu Tiên

BIỂN ÉGÉE



Phà lướt nhanh trên biển lặng, tôi đang say ngủ trong giường tầng trên thì bị Walter đánh thức. Tôi mở mắt, trời hãy còn chưa sáng.
– Anh muốn gì hả Walter?
– Chúng ta đang tới gần bờ biển nào thế?
– Làm sao anh lại muốn tôi biết chuyện ấy nhỉ? Tôi đâu phải người có khả năng nhìn xuyên bóng tối!
– Anh có phải là người ở đây không thế?
Tôi miễn cưỡng đứng dậy và lại gần cửa sổ khoang. Không khó để nhận ra hình dạng trăng lưỡi liềm của đảo Milos; để khẳng định rõ, chỉ cần lên boong và xác minh xem Antimilos, một hòn đảo nhỏ không người ở, có xuất hiện bên mạn trái tàu không là biết ngay.
– Tàu sẽ dừng lại đó hả? Walter hỏi.
– Sẽ là dối trá nếu nói tôi có tấm bản đồ chính xác về lịch trình hàng hải, nhưng đất liền đang mỗi lúc một gần hơn, tôi nghĩ chúng ta sẽ đỗ lại Adamas.
– Đó là một thành phố lớn à?
– Theo tôi thì đúng ra là một ngôi làng lớn.
– Vậy thì dậy đi, chúng ta sẽ xuống đó.
– Chúng ta sẽ làm gì ở Milos?
– Thà anh hỏi tôi muốn chúng ta không làm gì khi đến Athene còn hơn.
– Walter này, anh thực sự nghĩ chúng ta sẽ bị đón lõng khi về đến Pirée sao? Chúng ta thậm chí còn không biết liệu chiếc xe cảnh sát kia đang theo dõi chúng ta hay chỉ tình cờ xuất hiện trên chuyến phà này mà. Tôi nghĩ anh đã quá quan trọng hóa vấn đề rồi.
– Vậy thì giải thích cho tôi nghe tại sao có kẻ hai lần thử mò vào khoang trong lúc anh đang ngủ.
– Nói để tôi yên tâm nào, anh không hạ luôn gã đó đấy chứ?
– Tôi chỉ mở cửa ra thôi, nhưng hành lang không bóng người, gã đó đã kịp chuồn rồi.
– Hoặc gã đã vào khoang kế bên sau khi nhận ra là mình nhầm khoang!
– Hai lần liên tiếp à? Cho phép tôi được nghi ngờ chuyện đó. Mặc lại quần áo đi rồi chúng ta sẽ kín đáo lên bờ ngay khi phà cập cảng. Chúng ta sẽ ở trên cảng và chờ chuyến phà tiếp theo về Althene.
– Ngay cả khi chuyến phà đó đem mai mới khởi hành ư?
– Chúng ta dự định qua đêm tại Héraklion, đúng không? Nếu anh sợ mẹ lo vì chúng ta về muộn thì cứ gọi cho bà ấy ngay khi trời sáng.
Tôi không biết liệu những lo ngại của Walter là có cơ sở hay không, hay hắn thích thú với chuyến phiêu lưu chúng tôi trải qua hôm trước, và đang dùng mẹo để chuyến phiêu lưu ấy kéo dài thêm chút nữa. Tuy nhiên, khi chiếc cầu phà được kéo lên, Walter đã chỉ cho tôi thấy người đàn ông đang nhìn chòng chọc chúng tôi từ boong phía trên. Tôi không chắc anh bạn đồng nghiệp có lý không khi vẫy chào gã đó vẻ đắc thắng trong khi phà rời cảng.
Chúng tôi đang ngồi trên sân hiên một quán bar dành cho dân đánh cá hẳn đã mở cửa ngay khi chuyến phà đầu tiên cập bến, lúc đó là sáu giờ sáng và mặt trời đang ló rạng đằng sau đồi. Một chiếc máy bay nhỏ xuất hiện trên bầu trời và đổi hướng phía trên cảng trước khi bay nhanh ra ngoài khơi.
– Ở đây có sân bay à? Walter hỏi.
– Đường băng thì có, nếu tôi nhớ không nhầm, nhưng tôi tin là chỉ máy bay của ngành bưu chính và một vài chiếc thuộc sở hữu riêng được sử dụng đường băng đó.
– Tới đó thôi! May ra chúng ta có thể lên một trong những máy bay đó và bỏ xa những kẻ đang truy đuổi chúng ta.
– Walter, tôi nghĩ anh đang mắc chứng cuồng ám rất nặng, không giây nào tôi tin có ai đó đang truy đuổi chúng ta.
– Adrian ạ, bất cháp tình bạn tôi dành cho anh, anh đang thực sự làm tôi phát bực đấy!
Walter thanh toán hai cốc cà phê chúng tôi vừa uống và tôi chỉ còn cách chỉ cho hắn con đường dẫn tới sân bay nhỏ.
Walter và tôi, chúng tôi đang ở đây, bên vệ đường để vẫy xe xin quá giang. Nửa tiếng đầu tiên trôi qua không được khả quan cho lắm, mặt trời khiến những phiến đá trắng sáng lấp lánh và trời nóng dần.
Một nhóm thiếu niên dườn gnhư đang chế nhạo chúng tôi. Hẳn là chúng tôi mang bộ dạng của hai du khách lạc đường và phản ứng của chúng đúng ra là bất ngờ khi tôi ngỏ lời xin trợ giúp, bằng tiếng Hy Lạp, mà không hề để ý đến những lời chế giễu trước đó. Đứa lớn tuổi nhất trong nhóm muốn sự giúp đỡ phải được trả bằng tiền, nhưng Walter khi hiểu toàn bộ sự thể đã trổ tài thuyết phục để chúng tôi được ngồi đằng sau hai chiếc Mobylette như có phép màu.
Chúng tôi lên đường, ai nấy đều bám chặt vào viên phi công ngồi trước; với tốc độ và độ nghiêng này mỗi khi đến chỗ rẽ, tôi không tìm ra từ nào khác để gọi những người đang chở chúng tôi trên con đường khúc khuỷu quanh co. Chúng tôi đang phóng nhanh thẳng hướng sân bay trên đảo. Phía trước chúng tôi trải ra một vùng đầm lầy nước mặn rộng mênh mông; xa xa là một đường băng trải nhựa trải dài từ Đông sang Tây, mặt đường vắng tanh. Kẻ tinh ranh nhất trong nhóm chỉ cho tôi thấy chiếc máy bay cứ hai ngày lại chuyển thư đến một lần vừa cất cánh, chúng tôi vừa bỏ lỡ chuyến bay đó.
– Nhất định là chiếc chúng ta vừa nhìn thấy ban nãy, tôi nói.
– Sáng suốt thế chứ! Walter đáp.
– Vẫn còn máy bay hỗ trợ y tế, nếu các vị đang vội đến thế, đứa ít tuổi nhất trong nhóm bảo tôi.
– Máy bay nào cơ?
– Bác sĩ tới mỗi khi ai đó lâm bệnh nặng, bác sĩ có riêng một chiếc máy bay cúc cu kiểu cổ. Trong căn lều phía dưới kia có một chiếc điện thoại để gọi bác sĩ, nhưng chỉ được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp thôi. Hôm nọ anh họ tôi lên cơn đau ruột thừa, bác sĩ đã tới đón anh ấy chỉ sau nửa tiếng đồng hồ.
– Tôi bắt đầu cảm thấy đau bụng quằn quại rồi đây, Walter bảo sau khi nghe tôi dịch xong lời cậu thiếu niên.
– Dẫu sao các vị cũng không định làm phiền một thầy thuốc rồi đổi hướng máy bay của người ta để về Athene đấy chứ?
– Nếu tôi chết vì chứng viêm màng bụng, cả đời cậu sẽ phải chịu trách nhiệm về cái chết của tôi! Gánh nặng lớn lắm đó! Walter vừa rên rỉ vừa khuỵu gối.
Đám trẻ bắt đầu ôm bụng cười. Điệu bộ nhõng nhẽo của Walter vô cùng quyến rũ.
Đứa lớn tuổi nhất trong nhóm chỉ cho tôi chiếc điện thoại cũ kỹ được bắt vít vào thành cái được dùng làm tháp điều khiển. Một căn lều bằng gỗ, với một chiếc ghế, một chiếc bàn và một chiếc radio VBHF hẳn được sản xuất từ thời chiến tranh. Cậu ta từ chối gọi điện, vì nếu trò gian dối này bị lộ, cậu ta sẽ bị chỉnh cho một trận tơi bời và bố cậu sẽ không bỏ lỡ dịp trút đòn lên thằng con. Walter lại đứng dậy để chìa cho cậu ta vài tờ bạc, đủ để thuyết phục anh bạn mới của chúng tôi rằng một trận đòn nhừ tử chẳng đến nỗi quá kinh khủng.
– Bây giờ các vị còn mua chuộc cả trẻ con nữa. Mỗi lúc một khá hơn rồi đấy!
– Tôi yêu cầu các cậu chia nhau số tiền này, mà nếu các cậu thừa nhận đang vui chẳng kém gì tôi, tôi sẽ nhận hết trách nhiệm về mình!
Tôi không cần phải nói dối và tôi rút ví ra để tham gia vào việc treo giải thưởng cho lời nói dối. Cậu trai nhấc điện thoại lên, quay tay quay rồi giải thích với bác sĩ là dân đảo cần đến sự giúp đỡ của ông ngay lập tức. Một du khách đang quằn quại vì đau, họ đã đưa người bệnh ra tận đường băng, bác sĩ chỉ cần ghé qua đón thôi.
Nửa tiếng sau, chúng tôi nghe thấy tiếng động cơ ù ù tiến lại gần. Walter không cần phải giả vờ đau dạ dày để nằm áp bụng xuống đất nữa; chiếc Piper-cub loại nhỏ đang lượn là là trên đầu chúng tôi. Máy bay chao liệng trước khi hạ cánh dọc đường băng, nó nảy lên ba lần trước khi đứng yên.
– Giờ thì tôi đã hiểu rõ hơn thuật ngữ “cúc cu” rồi! Walter thở dài.
Máy bay quay trở lại và tiến lại gần chỗ chúng tôi đang đứng. Đến ngang tầm chúng tôi, viên phi công tắt động cơ, cánh quạt tiếp tục quay thêm vài giây nữa, các pittông kêu òng ọc và bầu không khí yên ắng bao trùm trở lại. Lũ trẻ đều chăm chú theo dõi cảnh tượng sắp diễn ra. Không ai ho he câu nào.
Viên phi công xuống khỏi máy bay, cởi mũ bảo hiểm bằng da, tháo kính và chào chúng tôi. Ở độ tuổi sáu mươi, bác sĩ Sophie Schwartz có dáng vẻ thanh lịch của một Amelia Earhart 1. Bà hỏi chúng tôi bằng một thứ tiếng Anh gần như hoàn hảo, mặc dù hơi pha chút âm sắc Đức, xem ai trong hai chúng tôi bị đau.
– Anh ta! Walter kêu lên và chỉ sang tôi.
– Trông anh có vẻ không đau đớn lắm nhỉ, chàng thanh niên? Anh bị làm sao thế?
Bị bất ngờ, và tôi không thể nhập vai như Walter đã khoác lác. Tôi thú thật với nữ bác sĩ từ đầu chí cuối hoàn cảnh của chúng tôi, bà ngắt lời tôi để châm một điếu thuốc.
– Nếu tôi hiểu đúng, bà nói, các anh đã đánh lạc hướng chiếc máy bay hỗ trợ y tế của tôi, vì các anh cần một phương tiện chuyên chở riêng tới tận Athene? Các anh táo tợn thật đấy!
– Chính tôi đã nảy ra ý này, Walter nhắc.
– Chuyện đó chẳng thay đổi gì nhiều cách cư xử vô trách nhiệm của các anh, anh bạn trẻ ạ! Bà nói và dụi đầu mẩu thuốc lá lên lớp nhựa đường.
– Xin bà nhận lấy lời xin lỗi của tôi, Walter nói với vẻ ngượng ngùng.
Bọn trẻ đang chứng kiến cảnh tượng mà không hiểu những câu trao đổi giữa hai người, có vẻ như đang chăm chú thưởng thức màn diễn.
– Các anh đang bị cảnh sát truy nã à?
– Không, Walter nói chắc, chúng tôi là hai nhà khoa học của Học viện Hoàng gia Luân Đôn và chúng tôi đang gặp phải một tình huống khó xử. Chúng tôi không đau ốm gì cả, đúng là thế, nhưng chúng tôi cần bà giúp đỡ, hắn van nài.
Bác sĩ có vẻ đột nhiên dễ tính.
– Nước Anh, Chúa chứng giám là tôi yêu đất nước này. Tôi hâm mộ Công nương Diana vô cùng, đúng là thảm kịch!
Tôi nhìn Walter đang làm dấu thánh giá và tôi tự hỏi tài diễn kịch của hắn bao giờ mới được khai thác hết.
– Vấn đề là, bác sĩ nói tiếp, máy bay của tôi chỉ có hai chỗ ngồi, mà tôi đã chiếm một chỗ rồi.
– Thế còn những người bị thương, bà làm thế nào để sơ tán họ? Walter hỏi.
– Tôi là một bác sĩ lưu động, chứ không phải xe cứu thương. Nếu các anh sẵn lòng ngồi sát vào nhau, tôi nghĩ máy bay vẫn có thể cất cánh.
– Tại sao lại là vẫn có thể? Walter dò hỏi, vẻ lo âu.
– Bởi vì chúng ta hơi nặng hơn một chút so với tải trọng cho phép, nhưng đường băng này không ngắn như bề ngoài đâu. Nếu vít hết ga và bó chặt phanh, chúng ta vẫn có thể đủ tốc độ để cất cánh.
– Còn trong trường hợp ngược lại? tôi hỏi.
– Tõm! Bác sĩ đáp.
Rồi với một thứ tiếng Hy Lạp lược bỏ hết trọng âm, bà ra lệnh cho lũ trẻ tránh xa và mời chúng tôi đi theo bà. Trong lúc đi vòng quanh máy bay để thực hiện việc kiểm tra kỹ thuật trước khi cất cánh, bà thổ lộ với chúng tôi đôi chút.
Bố bà là người Đức gốc Do Thái, mẹ là người Ý. Trong chiến tranh, họ sống trên một hòn đảo nhỏ thuộc lãnh thổ Hy Lạp. Dân làng đã che chở họ; sau khi đình chiến họ không muốn rời khỏi đảo nữa.
– Chúng tôi vẫn sinh sống tại đây; về phần mình, tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện chuyển đi nơi khác. Các anh có biết chốn thiên đường nào trên thế giới đẹp hơn những hòn đảo này không? Bố tôi là phi công, mẹ tôi là y tá, đó là lý do tại sao tôi lại trở thành một bác sĩ lưu động! Giờ đến lượt hai anh; già mà hai anh giải thích cho tôi biết hai anh đang thực sự trốn chạy điều gì. Chao ôi, thế rồi nói cho cùng thì chuyện đó đâu có liên quan tới tôi, mà các anh cũng không có vre gì là độc ác. Dẫu sao, người ta cũng sắp tước giấy phép của tôi rồi, vậy thì phải nắm bắt lấy tất cả những dịp bay này. Các anh sẽ trả tôi tiền nhiên liệu, chỉ thế thôi.
– Tại sao bà lại bị tước giấy phép? Walter lo lắng.
Bà bác sĩ tiếp tục kiểm tra máy móc.
– Năm nào cũng vậy, mỗi phi công đều phải khám sức khỏe và làm xét nghiệm thị lực. Trước nay việc này vẫn do bác sĩ nhãn khoa vốn là ông bạn cũ của tôi đảm nhiệm, ông ấy hết sức ưu ái tôi, tử tế lờ đi chuyện tôi không thể thuộc lòng bảng kiểm tra thị lực, tính cả dòng cuối cùng với các chữ cái đã trở nên quá nhỏ để tôi có thể đọc rõ. Nhưng ông ấy vừa nghỉ hưu và tôi không thể lừa dối thiên hạ lâu hơn được nữa. Đừng có tỏ cái vẻ ấy, ngay cả khi nhắm mắt tôi vẫn có thể điều khiển chiếc Piper cũ kỹ này cất cánh! Bác sĩ phá lên cười và bỏ đi.
Bà muốn không phải hạ cánh xuống Athene. Để hạ cánh xuống một sân bay quốc tế, cần phải xin phép qua radio, khi tới nơi còn qua trạm kiểm soát của cảnh sát, bà sẽ phải điền quá nhiều các mẫu khai. Đổi lại, bà biết tại Porto Éli có một khoảnh đất nhỏ bỏ hoang vẫn có thể dùng làm đường băng. Từ đó, chúng tôi chỉ việc lên một chiếc tàu chở khách về Hydra.
Walter ngồi lên trước, tôi cố gắng ngồi thật vững trên đầu gối hắn. Dây an toàn không đủ rộng để dùng cho cả hai chúng tôi, nên đành bỏ qua. Động cơ kêu òng ọc, cánh quạt bắt đầu quay chậm rãi trước khi tăng tốc trong một luồng khói vừa phụt ra. Sophie Schwartz vỗ lên khoang để thông báo máy bay sắp cất cánh. Đó là cách tốt nhất để giao tiếp trong cái tiếng động ồn ĩ này. Máy bay chậm rãi di chuyển trên đường băng, quay lại để vào vị trí ngược chiều gió, động cơ vào chế độ cất cánh. Máy bay rung lên bần bật khiến tôi ngỡ sắp chứng kiến nó rời ra từng mảnh trước khi cất được cánh. Phi công của chúng tôi nhả phanh và mặt đường nhựa bắt đầu lướt qua dưới cái bánh xe. Chúng tôi đi gần hết đường băng thì cuối cùng thân trước máy bay cũng nhấc bổng lên và chúng tôi rời khỏi mặt đất. Bên vệ đường, bọn trẻ vẫy tay chào từ biệt. Tôi gào lên bảo Walter cũng vẫy tay đi chứ, để cảm ơn bọn trẻ, nhưng đến lượt hắn cũng gào lên là khi nào đến nơi, có lẽ phải dùng đến cờ lê mỏ lết để vặn những ngón tay hắn long khỏi thanh sắt nẹp hắn đang bám vào.
Tôi chưa từng được chiêm ngưỡng đảo Milos như buổi sáng hôm đó, chúng tôi bay trên mặt biển ở độ cao vài trăm mét, máy bay lại không có cửa kính, gió thổi giữa các dây néo và tôi chưa bao giờ cảm thấy tự do đến thế.
Chú Thích
1 Người phụ nữ đầu tiên một mình lái máy bay vượt Đại Tây Dương.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.