Keira đang bị trễ giờ, cô đã xỏ được chiếc quần jean, mặc một chiếc áo len chui cổ, vừa kịp chải lại tóc, chỉ còn mỗi việc là tìm cho ra chùm chìa khóa. Dịp cuối tuần vừa rồi cô đã không ngủ được nhiều và thứ ánh sáng ban ngày buồn tẻ đã không thể kéo cô ra khỏi giấc ngủ. Tìm ra một chiếc taxi tại Paris vào buổi sáng là cả một kỳ tích. Cô cuốc bộ tới tận đại lộ Sébastopol, xuôi xuống sông Seine và tới mỗi ngã tư lại liếc nhìn cổ tay, cô đã quên đồng hồ đeo tay ở nhà. Một chiếc ô tô lao vào làn đường dành cho xe buýt rồi chạy đến ngang tầm cô thì đỗ lại. Người điều khiển xe nghiêng người để hạ cửa kính xe và gọi tên Keira.
– Em có muốn anh chở đi đâu đó không?
– Là anh hả Max?
– Từ hôm qua đến giờ anh dã thay đổi đến thế rồi ư?
– Không ạ, nhưng em không nghĩ lại gặp anh ở đây.
– Em yên tâm đi, anh không theo dõi em đâu, đây là một khu phố nơi người ta có thể tìm ra không ít các xưởng in mà xưởng in của anh thì nằm ở con phố ngay phía sau em.
– Nếu anh đang ở gần nơi làm việc của anh rồi thì em không muốn làm phiền anh nữa.
– Ai bảo với em là anh không phải từ đó đi ra nhỉ, từ nơi anh làm việc ấy? Thôi nào, lên xe đi, anh nhìn thấy một chiếc xe buýt trong gương chiếu hậu rồi và anh sắp nhận được vài hồi còi cảnh báo đây.
Keira không đợi mời thêm, cô mở cửa xe và ngồi vào ghế bên cạnh Max.
– Kè Brandy, bảo tàng Nghệ thuật và Văn minh, mà anh nhanh lên, em đang trễ giờ quá rồi đấy.
– Dù sao anh cũng nhận được một nụ hôn chứ?
Nhưng, đúng như Max đã dự đoán, một hồi còi khiến họ giật nảy mình, chiếc xe buýt đã tông nhẹ vào thanh chắn sốc xe họ. Max vượt lên và rời khỏi làn đường riêng với tốc độ cực nhanh. Dòng xe cộ dày đặc, Keira giậm chân sốt ruột, không ngừng nhìn mặt đồng hồ trên bảng điều khiển xe.
– Em có vẻ đang rất vội thì phải?
– Em có hẹn ăn trưa… đã quá giờ hẹn mười lăm phút rồi.
– Nếu đó là một người đàn ông, anh dám chắc anh ta sẽ đợi em.
– Vâng, đó là một người đàn ông và đừng có bắt đầu nữa, ông ấy gấp đôi tuổi anh.
– Em lúc nào chẳng đánh giá cao sự chín chắn.
– Nếu đúng là vậy thì chúng ta đã chẳng hẹn hò với nhau!
– Tỉ số 1-0, bóng đang ở trung khu. Ai vậy?
– Một vị giáo sư.
– Ông ấy dạy môn gì?
– Này, lạ thật đấy, Keira nhận ra, em cũng chưa hỏi ông ấy.
– Anh không muốn trở thành người thóc mách đâu, em đi từ đầu này đến đầu kia Paris dưới trời mưa gió thế này để ăn trưa cùng một vị giáo sư mà thậm chí em còn chưa biết ông ấy dạy môn gì ư?
– Thực ra chuyện đó đâu có gì quan trọng lắm; ông ấy nghỉ hưu rồi mà.
– Và tại sao hai người lại dùng bữa trưa cùng nhau?
– Chuyện dài lắm, anh tập trung vào quan sát đường đi và chúng ta hãy thoát ra khỏi cái nút cổ chai này. Đó là về chuyện cái mặt dây chuyền của em, một viên đá do Harry tặng. Em cũng ã băn khoăn nhiều về gốc tích của viên đá. Vị giáo sư này nghĩ là viên đá đó có niên đại rất cổ. Bọn em đã thử xác định nguồn gốc của nó nhưng không thu được kết quả nào.
– Harry?
– Max, anh đang làm em phát bực với những câu hỏi của anh, Harry chỉ bằng một phần tư tuổi anh! Và thằng bé sống ở Êtiôpia.
– Thế thì hơi trẻ để là một đối thủ quan trọng. Viên đá này rất cổ à, em cho anh xem nào?!
– Em có giữ nó nữa đâu, chút nữa em mới được lấy lại đây.
– Nếu em muốn, anh có một cậu bạn, một chuyên gia vĩ đại về những viên đá cổ, anh có thể nhờ cậu ấy nghiên cứu viên đá.
– Em không nghĩ chuyện này thực sự đáng phải làm phiền đến anh bạn anh. Nhất là em tin rằng vị giáo sư này đang buồn chán, và ông ấy đã tìm ra một cái cớ để giải trí đôi chút.
– Nếu em đổi ý thì đừng ngần ngại nhé. Đây rồi, các bờ kè lúc nào cũng thoáng đãng, mười phút nữa là chúng ta đến nơi. Mà cái cậu Harry ấy tìm thấy viên đá đó ở đâu vậy?
– Tại một hòn đảo nhỏ trên miệng núi lửa nằm giữa hồ Turkana.
– Đó có thể là một viên xỉ núi lửa chăng?
– Không, vật này không thể bẻ gãy được, em thậm chí còn không thể đục được lỗ nào trên đó. Để đeo nó trên cổ, em đã phải thắt chặt dây quanh nó, và em phải công nhận độ nhẵn bóng của nó khá là hoàn hảo đến đáng lưu tâm.
– Em làm anh tò mò quá đấy. Anh đề nghị với em thế này, tối nay hai ta hãy cùng ăn tối và anh sẽ nhìn qua cái mặt dây chuyền bí ẩn của em. Anh đã rửa tay gác kiếm vài năm nay rồi, nhưng anh vẫn còn sót lại vài chiêu mà.
– Mưu toan khéo lắm, Max của em ạ, tại sao lại không nhỉ? Nhưng tối nay em phải ở nhà đối mặt với chị gái em rồi. Cả hai chúng em đều có những quãng thời gian bỏ lỡ cần bắt kịp; từ khi em về đến giờ, em không ngừng trút cơn tức giận lên đầu chị ấy. Em có hai hay ba lời nhận xét ác ý không thích đáng cần phải xin chị ấy thứ lỗi, hoặc mười hai mười ba gì đấy, thậm chí là khoảng ba chục cũng nên.
– Lời đề nghị của anh vẫn còn hiệu lực đối với tất cả những tối còn lại trong tuần. Này, chúng ta đã đến trước viện bảo tàng của em rồi. Em hầu như không đến muộn đâu, đồng hồ trên xe anh chạy nhanh mười lăm phút đấy…
Keira hôn lên trán Max rồi vội vã xuống xe. Anh những muốn dặn cô buổi chiều hãy gọi cho anh, nhưng cô đã chạy trên vỉa hè rồi.
– Xin lỗi vì đã bắt ông phải chờ, Keira hổn hển xin lỗi khi đẩy cửa ra vào. Ông Ivory?
Căn phòng trống không. Ánh mắt Keira bị thu hút bởi một tờ giấy đặt dưới bóng đèn trên bàn làm việc. Những dòng chữ đã bị gạch xóa, nhưng Keira có thể đoán ra một dãy những chữ số, “hồ Turkana”, và tên cô. Ở cuối tờ giấy, một bức ký họa mô tả khéo léo mặt dây chuyền của cô. Keira không cần bước sang bên kia bàn làm việc, càng không cần phải ngồi xuống chiếc ghế bành của vị giáo sư, và hẳn là cô cũng không cần mở ngăn kéo bàn đang ở trước mắt cô. Nhưng ngăn kéo đó không khóa và người ta không thể trở thành nhà khảo cổ mà bản tính lại không tò mò. Cô tìm thấy trong đó một cuốn sổ cũ bìa da rạn. Cô đặt nó trên mặt bàn rồi đọc, ngay từ trang đầu tiên, một bức vẽ khác, cũ hơn, bức vẽ một đồ vật hơi giống với vật cô vẫn thường đeo trên cổ. Một tiếng động khiến cô giật bắn mình. Cô vội vã xếp lại đống lộn xộn mình vừa gây ra và vừa kịp nấp xuống dưới gầm bàn, ai đó vừa bước vào phòng. Co rúm lại như một đứa trẻ tò mò nghe trộm, Keira cố gắng nín thở. Một người đàn ông đang đứng cách cô vài xăng ti mét, lớp vải chiếc quần âu ông ta đang mặc sượt qua cô. Rồi ánh sáng tắt ngúm, bóng người quay ra phía cửa, một tiếng chìa khóa xoay trong ổ và bầu không khí im lặng ngự trị trong phòng làm việc của vị giáo sư già.
Keira cần đến vài phút mới có thể định thần lại. Cô rời khỏi chỗ nấp, tiến đến trước cửa ra vào và xoay nắm đấm cửa. May thay, từ bên trong có thể mở được ổ khóa. Được tự do, cô nhảy vội ra hành lang, chạy nhanh trên đoạn đường dốc dẫn xuống tầng trệt rồi bị trượt chân ngã sóng soài. Một bàn tay hộ pháp chìa ra để kéo cô đứng dậy. Keira ngẩng đầu lên, và khi nhìn thấy khuôn mặt của Ivory, cô thốt kêu một tiếng vang dội khắp đại sảnh.
– Cô tự làm mình đau đến thế sao? Vị giáo sư vừa hỏi vừa quỳ gối.
– Không! Tôi chỉ hơi sợ thôi.
Những khách tham quan bảo tàng vừa dừng lại để quan sát cảnh tượng đều đã tản đi. Vụ rắc rối đã kết thúc.
– Với một cú trượt như vậy thì tôi hiểu được! Cô đến gãy xương mất. Điều gì khiến cô phải chạy như ma đuổi thế? Cô đến hơi trễ một chút, nhưng không đến nỗi phải xém chút nữa thì tự sát như vậy.
– Tôi xin lỗi, Keira vừa nói vừa đứng dậy.
– Cô vừa từ đâu tới vậy? Tôi đã để lại lời nhắn chỗ lễ tân hẹn cô ra vườn rồi mà.
– Tôi đã lên thẳng văn phòng để tìm ông, thấy cửa khóa trái và tôi đã nảy ra ý tưởng tồi là chạy xuống đây gặp ông.
– Đây là kiểu rủi ro xảy đến khi người ta trễ hẹn. Đi theo tôi nào, tôi đang đói muốn chết đây, ở tuổi tôi, người ta dùng bữa vào giờ cố định.
Và lần thứ hai trong ngày, Keira cảm thấy mình như một bé gái bị bắt quả tang phạm lỗi.
Họ ngồi vào chiếc bàn ngày hôm trước đã ngồi. Ivory rõ ràng là đang bực bội khi chúi mũi vào thực đơn.
– Lẽ ra họ có thể thi thoảng thay đổi các món chứ nhỉ, vẫn cứ là mấy món này. Tôi khuyên cô nên ăn thịt cừu non, chỉ có thứ đó là được nhất. Cho hai thịt đầu bắp cùi cừu non, Ivory gọi món.
Vị giáo sư giở khăn ăn ra rồi chăm chú nhìn Keira hồi lâu.
– Trước khi tôi quên mất, ông nói và lôi từ trong túi áo vest ra chiếc mặt dây chuyền, tôi trả lại cho cô thứ thuộc về cô.
Keira cầm món đồ trong tay và ngắm nghía nó hồi lâu. Cô cởi sợi dây da đang đeo quanh cổ rồi quấn quanh chiếc mặt dây chuyền bằng cách bắt chéo dây hai lần ở đằng trước, một lần ở đằng sau, chính xác như Harry đã dạy cho cô.
– Tôi phải thú nhận là ở đây nó có giá trị hơn, Ivory thốt lên và mỉm cười lần đầu tiên.
– Cảm ơn, Keira đáp, hơi ngại ngùng.
– Hy vọng không phải chính tôi đang khiến cô đỏ mặt đấy chứ? Mà tại sao cô đến muộn?
– Ngại quá, thưa giáo sư, tôi có thể bịa ra đủ kiểu lý do, nhưng sự thực là tôi đã không tỉnh giấc đúng giờ. Lý do này thật là ngu ngốc.
– Tôi ghen tị với cô quá, Ivory đáp rồi phá lên cười, tôi không thể ngủ nướng kể từ ít nhất là hai chục năm nay. Già đi không có gì là đáng cười hết, và như thể chuyện này còn chưa đủ, ngày lại kéo dài thêm. Được rồi, ngừng chuyện phiếm đi, tôi không ở đây để khiến cô bực mình với những vấn đề ngủ ngáy của riêng tôi. Nhưng tôi thích thế, thích những người nói thật; lần này tôi bỏ qua cho cô, tôi sẽ thôi không tỏ cái vẻ bực tức đang khiến cho cô mất tự nhiên nữa nhé!
– Ông cố tình làm thế sao?
– Nhất định rồi!
– Các phân tích không đem lại kết quả gì sao? Keira hỏi trong lúc đùa nghịch với cái mặt dây của mình.
– Chao ôi, chẳng có kết quả nào hết.
– Vậy là ông đã chẳng có được chút khái niệm nào về niên đại của vật này?
– Không… ., vị giáo sư vừa đáp vừa lẩn tránh ánh mắt của Keira.
– Tôi hỏi ông một câu được không?
– Cô vừa hỏi rồi còn gì, cứ đặt câu hỏi đang khiến cô quan tâm thì hơn.
– Ông là giáo sư chuyên ngành gì vậy?
– Chuyên ngành tôn giáo! Rốt cuộc, không phải theo cái nghĩa mà cô đang hình dung đâu. Tôi dành cả đời để thử tìm hiểu xem những thời điểm nào trong quá trình tiến hóa của mình, con người đã quyết định tin vào một thế lực bề trên và quyết định đặt tên cho nó là Chúa tời. Cô có biết là cách đây khoảng trăm nghìn năm, gần Nazareth, người tinh khôn Homo sapiens đã chôn cất di hài của một phụ nữ tầm hai mươi tuổi, và có lẽ đó là lần đầu tiên trong lịch sử loài người? Dưới chân cô ấy có cả di hài của một đứa trẻ lên sáu. Những người tìm ra mộ phần này còn phát hiện quanh hai bộ hài cốt ấy một lượng lớn đất son. Tại một di chỉ khác, không xa nơi đó là bao, một nhóm khảo cổ khác đã khai quật được khoảng ba chục mộ phần tương tự. Tất cả các cơ thể đều được đặt nằm trong tư thế bào thai, tất cả đều được bao phủ bằng đất son, mỗi phần mộ lại có đầy đủ đồ tùy táng theo nghi thức. Đây có lẽ là những dấu hiệu cổ xưa nhất của sự sùng đạo. Phải chăng xuất phát từ nỗi đau mất đi một người thân thích là nhu cầu cấp thiết phải tăng thêm phần vẻ vang cho cái chết? Phải chăng chính vào khoảnh khắc đó nảy sinh niềm tin vào một thế giới khác nơi những người quá cố tiếp tục tồn tại?
Có vô số giả thuyết cho chủ đề này, mà chúng ta dĩ nhiên sẽ không bao giờ biết được là vào thời điểm nào trong quá trình tiến hóa của mình, con người thực sự bắt đầu tin vào Chúa trời. Vừa bị mê hoặc vừa sợ hãi trước môi sinh của mình, họ bắt đầu thần thánh hóa một thế lực khiến họ choáng ngợp. Con người cũng cần phải gán một ý nghĩa cho điều bí ẩn của bình minh và hoàng hôn, cho bí ẩn của các vị sao mọc nơi bầu trời phía trên đầu họ, cho ma thuật thay đổi các mùa trong năm, thay đổi cảnh sắc biến đổi theo mùa, cũng như cơ thể họ thay đổi theo thời gian, cho đến khi rốt cuộc phải buộc cơ thể đó trút hơi thở cuối cùng. Vì thật thú vị khi nhận thấy trong gần một trăm sáu mươi nước nơi các tác phẩm tranh vẽ trên hang động được phát hiện, tất cả những bức họa này đều có điểm tương đồng. Màu đỏ được sử dụng tràn lan, như một biểu tượng tuyệt đối của mối liên hệ với các thế giới khác. Tại sao những người có mặt trong tranh, và dù họ có sinh sống ở nơi nào trên thế giới đi nữa, vẫn cứ được khắc họa trong tư thế cầu nguyện, tay giơ lên trời? Cô thấy không, Keira, công việc của tôi không khác công việc của cô là mấy. Tôi chia sẻ với quan điểm của cô. Tôi thích góc độ cô tiến hành các nghiên cứu của riêng mình. Con người đầu tiên có thực sự là sinh vật đứng thẳng được để bước đi trong tư thế đó không? Có phải sinh vật đã quyết định đẽo gọt gỗ và đá đế biến chúng thành những dụng cụ lao động không? Là sinh vật đầu tiên đã khóc vì một người thân qua đời, ý thức được rằng kết cuộc của chính mình là điều không thể tránh khỏi chăng? Là sinh vật đầu tiên biết tin vào một thế lực mạnh hơn mình hay là sinh vật đầu tiên biết biểu lộ tình cảm của mình? Với những từ ngữ nào, những động tác cử chỉ nào, những món đồ thờ cúng nào, con người đầu tiên đã nói rằng anh ấy yêu ư? Và anh ta nói điều đó với ai, với bố mẹ anh ta, với vợ anh ta, với con anh ta, hay với một vị Chúa trời?
Những ngón tay của Keira đã buông rơi chiếc mặt dây chuyền, cô đặt hai tay lên bàn và nhìn vị giáo sư hồi lâu.
– Chúng ta có lẽ sẽ không bao giờ biết được câu trả lời.
– Cô thì biết gì về chuyện ấy? Tất cả chỉ là vấn đề kiên nhẫn, quyết tâm và tinh thần cởi mở. Chỉ cần thi thoảng nhìn lại gần hơn để thấy những gì vuột khỏi chúng ta từ xa.
– Tại sao ông lại nói với tôi điều này?
– Cô đã trải qua ba năm trong đời để đào bới đất đai, tìm kiếm một vài mẩu xương hóa thạch, cái cho phép cô khám phá bí ẩn về nguồn gốc loài người. Lẽ ra chúng ta nên gặp nhau rồi mới phải và tôi cần phải kích thích trí tò mò của cô chỉ để cô bắt đầu quan sát chăm chú món đồ vật khác thường mà cô đang đeo trên cổ.
– Sự so sánh quá đỗi nực cười! Chẳng có mối liên quan nào giữa viên đá này và…
– Đó không phải là đá, cũng không phải là gỗ, và chúng ta không thể nói được đó là cái gì. Nhưng độ hoàn hảo của nó dẫn chúng ta tới chỗ không thể tin là thiên nhiên lại tạc nó thành hình như vậy! Cô vẫn thấy sự so sánh của tôi nực cười đến thế sao?
– Ông đang nói với tôi chuyện gì thế? Keira hỏi và siết chặt chiếc vòng cổ trong tay.
– Và giả sử thứ mà cô tìm kiếm từ bấy lâu nay đơn giản là đang treo lủng lẳng trên cổ cô? Từ khi trở về Pháp, giây phút nào cô cũng mơ được quay trở lại thung lũng Omo, không phải thế sao?
– Mơ ước đó biểu hiện rõ ràng đến thế ư?
– Thung lũng Omo đang nằm trên ngực cô, cô gái à. Có lẽ chí ít cũng là một trong số những bí ẩn lớn nhất mà nó chứa đựng.
Keira ngần ngừ giây lát rồi bật ra một tràng cười sảng khoái.
– Ivory, ông suýt thì lừa được tôi đấy! Ông nói thuyết phục quá đi mất, tôi nổi cả da gà lên đây này. Tôi biết trong mắt ông, tôi chỉ là một nhà khảo cổ trẻ tuổi thường xuyên trễ hẹn, nhưng lẽ nào thế! Chẳng có khái niệm cơ sở nào cho phép chúng ta tin rằng vật này có một giá trị khoa học thực sự cả.
– Tôi đặt lại câu hỏi cho cô này, vật này cổ hơn nhiều so với tất cả những gì chúng ta đã hình dung, không một kỹ thuật hiện đại nào có thể tách được mẩu nhỏ từ nó, càng không thể xác định niên đại của nó một cách chắc chắn, cô giải thích thế nào về việc nó nhẵn bóng một cách đáng chú ý đến vậy?
– Tôi thừa nhận chuyện đó hơi khó lý giải, Keira thổ lộ.
– Tôi thấy vui vì cô đã tự đặt cho mình câu hỏi đó, Keira ạ, giống như tôi từng thấy vui vì được quen biết cô. Cô thấy không, từ phòng làm việc nhỏ của tôi trên gác, niềm hy vọng được thực hiện một khám phá cuối cùng là khá mong manh, cô sẽ đồng ý là như thế. Tuy nhiên, nhờ có cô, tôi cũng đã buộc được các nhà thống kê phải nói dối.
– Vậy thì tôi vui vì điều đó, Keira nói.
– Tôi không nói về đồ vật này. Việc xác định tông tích của nó là tùy ở cô.
– Nhưng ông đang nói đến khám phá nào vậy?
– Sao nhỉ, chuyện đã gặp được một phụ nữ kỳ lạ!
Ivory đứng dậy rồi rời khỏi bàn. Keira nhìn ông đi xa dần, ông quay người lại lần cuối cùng và phác một cử chỉ chào tạm biệt cô bạn mới.