Ngay cả để đóng vai chính mình thì vẫn cần hóa trang.
– Stanislaw Jerzy LEC
o O o
Ngày hôm sau
Boston
12 giờ 15
Matthew đóng cửa lại sau lưng rồi bước xuống bậc tam cấp dẫn từ nhà xuống phố.
Nếu hôm qua trời mưa thì lúc này những con phố nhỏ khu Beacon Hill đã ngập tràn ánh nắng. Mùi hương của tầng rừng thấp phảng phất qua quảng trường Louisburg và những tia sáng màu cam tôn bật sắc thu trong công viên. Túi đeo chéo trên vai, anh đội chiếc mũ bảo hiểm được thiết kế cản gió, cưỡi lên xe đạp rồi vừa nhấn vài vòng pê đan vừa huýt sáo để tới phố Pinckney. Lòng anh đã không còn được nhẹ nhõm thế này từ khi nào nhỉ? Suốt một năm qua, anh đã sống như một bóng ma, nhưng sáng nay anh thức dậy với tâm trí minh mẫn. Anh đã dạy ba tiếng phụ đạo ở trường rồi bông đùa với sinh viên vì tìm lại được niềm vui trong việc giảng dạy với tâm trạng vui tươi.
Ruột gan anh không còn cảm giác quặn thắt nữa. Anh cảm thấy cuộc sống quay cuồng xung quanh mình, và anh lại có cảm giác đang dự phần vào chuyển động đó. Say với cảm giác mới tìm lại được, anh tăng tốc rồi từ tốn xuôi theo lối rẽ vào phố Brimmer. Gió thổi mơn man trên khuôn mặt anh. Anh đạp nhanh hơn nữa khi nhìn thấy Public Garden, hòa vào làm một với chiếc xe đạp để rẽ không khí trong một cảm giác tự do ngây ngất. Anh tận hưởng khoảnh khắc này, thong thả đạp xe dọc công viên, cho đến đoạn rẽ phải vào phố Newbury.
Hai bên san sát những quán cà phê sang trọng, phòng trưng bày nghệ thuật và cửa hàng thời trang, tuyến đường huyết mạch này là một trong những nơi tấp nập nhất khu Back Bay. Những ngày đẹp trời, thiên hạ đổ dồn về những khoảng sân hiên của phố vào giờ ăn trưa. Matthew khóa xe đạp lại trước một căn bownstone ốp sa thạch sẫm màu hết sức trang nhã, tầng trệt được bố trí thành nhà hàng. Bistro 66 là chỗ anh thường lui tới mỗi khi dùng bữa trưa cùng April. Bên ngoài vẫn còn một bàn, anh vội lao tới chiếm sau khi đã ra hiệu cho người phục vụ. Vừa ngồi xuống ghế, anh lôi chiếc laptop mới từ trong túi xách ra rồi kết nối với mạng wifi của nhà hàng. Chỉ bằng vài cú nhấp chuột, anh đặt một vé máy bay tới New York thông qua website của hãng Delta Airlines. Chuyến bay lúc 17 giờ 15 cho phép anh có mặt tại sân bay JFK lúc 19 giờ. Vừa kịp để đúng hẹn ăn tối cùng Emma. Ngay sau đó, anh gọi tới nhà hàng Số 5 và gặp ngay cô bạn Connie. Đã lâu rồi họ không gặp nhau. Cô vui khi biết anh gọi và có hàng đống chuyện để kể cho anh, nhưng giờ là lúc rất đông khách dùng bữa trưa, mà một trong những phục vụ bàn của quán lại nghỉ ốm. Cô ghi lại giờ anh muốn đặt bàn và hân hoan vì ngay tối hôm đó có thể nói chuyện cùng anh trong không gian yên tĩnh hơn.
– Chỗ này có người ngồi rồi sao anh giai?
Matthew dập máy rồi nháy mắt với April.
– Chỗ này vẫn trống, và nó chỉ còn chờ mỗi em thôi đấy.
Cô ngồi xuống dưới tấm sưởi điện đang cung cấp nhiệt cho sân hiên rồi giơ tay để gọi một ly Pinot Gris và một đĩa chả cua.
– Anh dùng gì?
– Một đĩa nhỏ xa lát Caesar và một nước tinh khiết.
– Anh đang ăn kiêng đấy hả?
– Anh để dành bụng tối nay đi ăn tiệm.
– Thật chứ? Anh đã mời cô nàng quản lý rượu xinh xắn ấy đi ăn hả? Chúc mừng nhé Matt, em hãnh diện về anh!
Những món đồ uống của họ được mang ra. April nâng ly rượu lên rồi họ vui vẻ cụng ly với nhau.
– Mà này, anh đã định đóng bộ gì chưa đấy? – Cô hỏi giọng lo lắng.
Matthew nhún vai.
– Chà, không có gì đặc biệt đâu. Anh nghĩ sẽ tới đó như thế này thôi.
Cô nhướng mày rồi nhìn anh chằm chặp từ đầu đến chân.
– Với chiếc quần baggy rộng thùng thình, một chiếc áo nỉ chui đầu có mũ cũ kĩ, đôi Converse dành cho thanh niên và một chiếc áo khoác quân đội ư? Em hi vọng là anh đùa đấy chứ! Còn chưa kể đến mái tóc bờm xờm và bộ râu kiểu người nguyên thủy của anh nữa.
– Em đừng có quá lời như vậy.
– Nhưng em có quá lời chút nào đâu hả Matt! Anh thử suy nghĩ năm phút mà xem: cô gái này làm việc tại một trong những nhà hàng nổi tiếng nhất Manhattan. Khách hàng của cô ấy là các doanh nhân, các nhân vật nổi tiếng trong làng nghệ thuật và thời trang, những người thanh lịch và trang nhã, ăn mặc chải chuốt. Cô ta sẽ lầm tưởng anh là gã nhà quê hoặc sinh viên già mất.
– Nhưng anh sẽ không chơi trò đóng giả làm người khác đâu!
Cô bác bỏ ngay lý lẽ này.
– Chỉ cuộc gặp đầu tiên sắp diễn ra này thôi, không hơn không kém. Vẻ bề ngoài quan trọng lắm đấy: ấn tượng ban đầu luôn luôn khắc sâu trong tâm trí mỗi người mà.
Matthew phát bực.
– Yêu ai đó chỉ vì vẻ bề ngoài của họ thì chẳng khác nào thích một cuốn sách vì bìa sách đẹp 1!
– Được thôi: cứ việc khoái trá với những câu tầm chương trích cú của anh đi. Nhưng tối nay thì anh sẽ chẳng lên mặt như thế được nữa đâu…
Anh thở dài, nét mặt sa sầm. Anh cuốn một điếu thuốc, ngập ngừng nửa muốn châm nửa không, rồi sau vài giây suy nghĩ, rốt cuộc cũng chịu đầu hàng: – Thôi được rồi, có lẽ em nên cho anh vài ba lời khuyên…
o O o
New York
13 giờ
– Lovenstein, cô điên rồi hay sao! – Peter Benedict vừa đẩy cánh cửa trong mờ dẫn vào hầm rượu của nhà hàng Thống Soái vừa hét lớn.
Viên quản lý rượu tiến nhanh một bước về phía cấp dưới của mình đang sắp xếp các chai rượu trong một tủ kim loại.
– Cô nảy ra ý định mua mấy chai rượu này nhân dịp gì thế? – Anh ta vừa cao giọng vừa giơ ra một tờ giấy in màu kem.
Emma liếc qua tờ giấy. Đó là một tờ hóa đơn trên đầu có ghi thông tin liên hệ của một website chuyên bán những loại rượu vang đặc biệt qua mạng. Nó liệt kê ba chai rượu khách đặt mua:
1. Domaine de la Romanée Conti, 1991
1. Ermitage Cuvée Cathelin, J.L. Chave, 1991
1. Graacher Himmelreich, Auslese, Domaine J.J. Prum, 1982
Một chai bourgogne huyền thoại và hoa lệ, một chai syrah thanh nhã và quý phái, một chai riesling thành phần phức tạp vị ngọt ngào. Ba chai vang với niên hiệu hoàn hảo. Ba chai vang hảo hạng nhất mà cô từng được nếm trong đời. Tuy nhiên, cô không phải người đã đặt mua số rượu này.
– Tôi cam đoan mình không liên quan gì tới chuyện này, Peter.
– Cô đừng giỡn mặt với tôi, Lovenstein: phiếu đặt hàng vẫn còn chữ ký của cô còn hóa đơn có ghi thông tin tài khoản ngân hàng của Thống Soái.
– Không thể có chuyện đó được!
Mặt trắng bệch vì giận dữ, Benedict vẫn tuôn hàng tràng trách móc.
– Tôi vừa gọi cho nhà cung cấp rồi, họ khẳng định đã giao ba chai rượu này đến nhà hàng. Vậy nên tôi muốn biết chúng đang ở đâu, khẩn trương lên!
– Nghe này, đây rõ ràng là một nhầm lẫn. Chuyện chẳng có gì nghiêm trọng. Chỉ cần…
– Không nghiêm trọng ư? Số tiền lên tới hơn 10.000 đô thì nghiêm trọng quá đi ấy chứ!
– Đó quả là một số tiền lớn, nhưng…
– Cô muốn xoay xở thế nào thì tùy, Lovenstein, nhưng tôi muốn khoản mua chịu ấy phải được xóa sổ nội trong ngày hôm nay! – Anh ta lèo nhèo trước khi trỏ thẳng ngón tay vào cô và đe dọa: – Nếu không giải quyết được, cô sẽ bị đuổi việc!
Không đợi câu trả lời, anh ta quay ngoắt đi và rời khỏi hầm rượu.
Emma đứng ngây ra mất vài giây, bàng hoàng trước độ căng thẳng của cuộc cãi vã. Benedict là một viên quản lý rượu thuộc trường phái cũ cho rằng phụ nữ chẳng có việc gì để làm trong một hầm rượu. Anh ta có lý khi cảm thấy vị thế của mình bị đe dọa bởi cô cấp phó: trước khi vội vã ra đi, Jonathan Lempereur đã phân vị trí trưởng nhóm quản lý rượu cho Emma. Lẽ ra cô gái đã thế chỗ Benedict từ hồi đầu năm, nhưng anh ta đã xin được với ban giám đốc mới hủy bỏ việc thăng chức này. Từ đó, Benedict chỉ chăm chăm tìm cách bắt lỗi nữ đồng nghiệp trẻ tuổi để có thể tống khứ cô cho rảnh nợ.
Emma nhìn tờ hóa đơn, tay gãi gãi đầu. Peter Benedict bản tính cáu bẳn và thù dai, nhưng anh ta chưa điên tới mức dựng lên cả một mưu mô thế này.
Vậy thì là ai được nhỉ?
Không phải ngẫu nhiên mà ba chai vang được đặt lại chính là những chai rượu này. Đây chính là ba chai rượu được cô nêu lên làm ví dụ tham khảo hồi tuần trước trong cuộc gặp với một phóng viên của tạp chí Wine Spectator, người muốn phác thảo chân dung thế hệ những người quản lý rượu mới. Cô cố gắng hồi tưởng lại: cuộc phỏng vấn diễn ra trong văn phòng bộ phận Báo chí và Truyền thông của nhà hàng, khi đó có mặt cả…
Romuald Leblanc!
Vô cùng phấn chấn, Emma rảo bước rời khỏi hầm rượu rồi đi thang máy lên quầy lễ tân. Không hề xưng danh, cô tìm tới văn phòng của bộ phận phụ trách báo chí và yêu cầu được nói chuyện với cậu thực tập trẻ tuổi mà nhà hàng Thống Soái đã tuyển dụng để bảo trì hệ thống mạng. Cô xông thẳng vào văn phòng chỗ người ta vừa chỉ cho cô rồi sập cửa lại sau lưng.
– Hai chúng ta nói cho rõ xem nào, Mắt Kính!
Bất ngờ khi thấy cô đột ngột xông vào, Romuald Leblanc nhảy dựng lên sau màn hình vi tính. Đó là một cậu thiếu niên mập mạp, tóc dầu cắt hình bát úp và gương mặt xanh xao đóng khung trong cặp kính vuông gọng dày cộp. Chân đi tông, cậu ta mặc chiếc quần jean rách, áo nỉ không lấy gì làm sạch sẽ mở phanh để lộ chiếc áo phông Marvel mặc bên trong.
– Chào chị ơ… Lovenstein, – cậu ta chào đón cô với giọng nói mang âm sắc Pháp.
– Tôi thấy là cậu có nhận ra tôi, khởi đầu như thế là tốt rồi, – cô vừa nói vừa tiến về phía cậu, vẻ đe dọa.
Cô liếc về phía màn hình vi tính.
– Nhà hàng trả lương cho cậu để ngồi nhỏ dãi trước ảnh phụ nữ khỏa thân đấy hả?
– Ơ không, nhưng đó là… lúc này… lúc này đang là giờ nghỉ của tôi.
Cậu trai người Pháp bối rối ngồi rũ ra trên ghế, và để cố gắng tạo cho mình một vẻ bình tĩnh, cậu ta ngoạm thanh sô cô la gặm dở đang nằm lăn lóc trên mặt bàn.
– Đừng ăn nữa đi, đồ đầu đất, – cô ra lệnh cho cậu ta.
Cô rút từ trong túi ra tờ hóa đơn rồi phe phẩy trước mặt cậu ta.
– Chính cậu đã đặt đơn hàng này đúng không?
Đôi vai cậu thiếu niên liền xuội lơ, mắt cụp xuống. Emma gặng hỏi.
– Cậu đã nghe thấy những gì tôi trả lời tay phóng viên có phải không?
Vi Romuald vẫn làm thinh, cô nàng quản lý rượu liền cao giọng.
– Nghe cho rõ đây, đồ óc bã đậu, tôi không định khiến mình mất việc. Vậy thì cậu có trả lời tôi hay không thì tùy, nhưng trong trường hợp này, tôi sẽ đề nghị ban giám đốc báo cảnh sát, rồi cậu đi mà giải thích với họ.
Lời đe dọa này tác động đến cậu thiếu niên như một cú sốc điện.
– Không, xin chị đấy! Chuyện này… chuyện này là thật, cái cách chị chia sẻ về những loại vang này khiến tôi tò mò nên tôi muốn nếm thử xem sao.
– Cậu muốn nếm thử những chai rượu có giá hơn 3.000 đô hả đồ củ chuối? Thế đầu cậu chứa toàn bã đậu hay sao thế? Mà cậu đã làm thế nào mà đặt mua được qua mạng vậy?
Romuald hất cằm chỉ màn hình vi tính.
– Chuyện đơn giản như đang giỡn vậy đó: máy tính và hệ thống mạng của các vị không được bảo mật. Tôi chỉ mất có hai mươi giây là đánh cắp được tài khoản thanh toán của nhà hàng.
Emma cảm thấy tim mình đập rộn trong lồng ngực.
– Còn mấy chai rượu này cậu đã mở ra chưa?
– Chưa, chúng ở đằng kia, – cậu ta vừa đáp vừa rời khỏi ghế.
Cậu ta lê chân đến tận chiếc tủ kim loại, lôi từ đó ra một hộp gỗ sáng màu đựng ba chai rượu quý có niên hiệu.
Lạy Chúa lòng lành!
Emma kiểm tra từng chai một, thật cẩn thận; chúng vẫn còn nguyên vẹn.
Không chờ đợi thêm, cô gọi cho nhà cung cấp để giải thích việc tài khoản khách hàng của Thống Soái đã bị đánh cắp. Cô đề xuất sẽ chịu chi phí để gửi trả toàn bộ đơn hàng, đổi lại, nhờ nhà cung cấp hủy giúp hóa đơn. Cô thở phào nhẹ nhõm khi biết lời đề nghị của mình được chấp nhận.
Cô bất động mất vài giây, nhẹ cả người khi giữ được công việc của mình. Cô liền tự cho phép mình nhớ tới cuộc hẹn tối nay và nỗi lo bỗng xâm chiếm cô. Để yên lòng, cô đưa mắt tìm kiếm hình ảnh phản chiếu của mình trên cửa kính, nhưng hình ảnh mà cô nhìn thấy lại gây hiệu ứng ngược: trông cô thật thảm hại. Tóc cô xấu tệ, màu thì xỉn, nhìn chẳng còn ra kiểu gì. Với bộ dạng như thế này làm sao cô có thể khiến Matthew Shapiro thấy vừa mắt được. Cô thở dài rồi bỗng nhận ra cậu thực tập sinh vẫn đứng đó.
– Nghe này, tôi buộc phải báo cho giám đốc nhân sự biết về sai phạm của cậu. Chuyện cậu đã làm hết sức nghiêm trọng.
– Không! Xin chị đấy!
Cậu thiếu niên bỗng nhũn cả người rồi bật khóc nức nở.
– Khóc đi, cậu sẽ đi tiểu ít hơn, – cô thở dài.
Cô chìa cho cậu ta chiếc khăn tay rồi kiên nhẫn chờ cho tới khi cậu ta ngừng rên rỉ.
– Cậu bao nhiêu tuổi rồi hả Romuald?
– Mười sáu tuổi rưỡi.
– Quê quán cậu ở đâu?
– Vùng Beaune, phía Nam Dijon, đó là…
– Tôi biết Beaune ở đâu chứ. Một số loại vang ngon nhất của Pháp có xuất xứ từ quê cậu mà. Cậu làm việc ở nhà hàng Thống Soái này từ khi nào?
– Mới được mười lăm ngày, – cậu ta vừa đáp vừa nhấc kính ra để day day mí mắt.
– Mà cậu có thích công việc này không?
Cậu ta lắc đầu rồi hất cằm chỉ vào màn hình vi tính.
– Điều duy nhất thực sự hấp dẫn tôi là thứ đó kìa.
– Máy vi tính ấy hả? Vậy thì cậu làm gì trong một nhà hàng?
Cậu ta thổ lộ đã theo chân cô bạn gái tới New York làm giúp việc sau khi tốt nghiệp trung học.
– Và cô bé đó đã bỏ rơi cậu? – Emma đoán.
Cậu ta vẫn im thin thít, ngượng nghịu gật đầu xác nhận.
– Ít ra bố mẹ cậu cũng biết là cậu đang ở Mỹ chứ?
– Có biết, nhưng vào thời điểm này họ còn nhiều mối bận tâm khác kia, – cậu ta khẳng định kiểu nước đôi.
– Nhưng làm thế nào cậu có thể xin việc tại New York này? Cậu đâu có giấy tờ để làm việc, cậu còn chưa đủ tuổi thành niên…
– Tôi đã chế được Visa làm việc tạm thời bằng cách khai man tuổi cho già thêm một chút.
Chế được Visa. Hèn gì cậu ta sợ cảnh sát và không muốn giám đốc nhân sự chú ý đến mình.
Emma nhìn cậu thiếu niên với vẻ vừa thương cảm vừa mến phục.
– Cậu học được mánh đó ở đâu vậy Romuald?
Cậu ta nhún vai.
– Nếu biết sử dụng máy vi tính ta còn có thể làm nhiều hơn thế ấy chứ.
Vì cô nài nỉ, cậu ta đã kể cho cô nghe nhiều giai thoại. Năm mười ba tuổi rưỡi, Romuald đã phải trải qua vài giờ tạm giữ vì phát tán trên Internet một bản dịch lậu tập cuối của bộ truyện Harry Potter. Sau đó ít lâu, cậu ta truy cập lậu vào website của trường trung học, tìm cách thay đổi điểm số cá nhân và gửi những bức thư với nội dung lố lăng vào hộp thư điện tử của phụ huynh học sinh. Tháng Sáu năm ngoái, cậu ta chỉ cần vài cú nhấp chuột đã tìm ra các đề thi tốt nghiệp khối kĩ thuật để tặng cho bạn gái mình một mảnh bằng đẹp. Cuối cùng, hồi đầu tháng Bảy, vắn tắt lại là cậu ta đã hack tài khoản Facebook của tổng thống Pháp, Nicolas Sarkozy. Một trò đùa của học sinh khiến điện Élysée tức điên. Nhà chức trách đã lần ra cậu ta theo các tiền sự sẵn có, cậu ta đã phải chịu hình phạt có thử thách, kèm theo lời khuyên hết sức cương quyết là từ nay về sau nên tránh xa máy vi tính.
Trong lúc nghe cậu ta kể, Emma đã nảy ra một ý tưởng chớp nhoáng.
– Cậu ngồi vào trước máy tính đi, – cô ra lệnh.
Cậu ta làm theo rồi gõ một phím trên bàn phím để máy tính hoạt động trở lại.
Cô kéo một chiếc ghế lại gần để ngồi ngay bên cạnh.
– Nhìn thẳng vào mắt tôi đi, Romuald.
Cậu thiếu niên căng thẳng đeo kính vào nhưng chỉ nhìn được đúng hai giây.
– Chị thật… chị thật xinh đẹp, – cậu ta ấp úng.
– Không, nói đúng ra thì tôi trông xấu tệ, nhưng cậu sẽ giúp tôi thu xếp chuyện đó, – cô vừa nói vừa chỉ máy vi tính.
Cô gõ địa chỉ website của một salon chăm sóc tóc.
Trên màn hình xuất hiện những con chữ lấp lánh nhảy nhót trên nền sáng màu và trống trơn.
Akahiko Imamura
Tạo mẫu tóc
– Akahiko Imamura là một người Nhật đã cách mạng hóa lĩnh vực chăm sóc tóc, – cô giải thích. – Tại Manhattan, đó là chuyên gia tạo mẫu tóc hàng đầu, bậc thầy của cây kéo và thuốc nhuộm. Angelina Jolie, Anne Hathaway, Cate Blanchett… những ngôi sao lớn nhất đều tới chỗ ông ta để làm tóc. Và trong tuần lễ thời trang, tất cả các nhà thiết kế đều cố gắng mời ông ta thiết kế mẫu tóc cho các người mẫu trình diễn. Nghe đồn đó là một thầy phù thủy thực sự và ít ra tôi phải cần đến một nhà tạo mẫu tóc như thế để trông có vẻ tạm ổn vào tối nay. Vấn đề là nếu có đặt hẹn thì cũng phải nằm trong danh sách chờ tới hai tháng.
Romuald đã hiểu Emma trông đợi điều gì ở mình. Cậu ta đã vội vàng cố gắng xâm nhập vào hệ thống đặt chỗ.
– Imamura có ba salon tại New York, – cô nói tiếp trong khi cậu trai đam mê tin học gõ bàn phím với tốc độc chóng mặt. – Một ở Soho, salon thứ hai ở Midtown và salon cuối cùng trong khu Upper East Side.
– Đó chính là địa điểm ông ta tác nghiệp chiều nay, – Romuald thông báo trong lúc làm hiển thị danh sách những cuộc hẹn của nhà tạo mẫu tóc.
Cô đang bị gây ấn tượng mạnh bèn cúi nhìn màn hình.
– Cũng dùng cách này khi chị muốn đặt bàn Online tại một nhà hàng, – cậu chàng người Pháp giải thích.
– Cậu có thể thay đổi tên họ sao?
– Dĩ nhiên, nếu không thì có ích lợi gì? Chị muốn đến đó vào lúc mấy giờ?
– Nếu được thì vào quãng năm giờ chiều nay.
– Dễ như ăn kẹo…
Cậu ta điền tên Emma thế vào chỗ vị khách nữ đã được dự kiến ban đầu, không quên gửi cho người này một bức thư thông báo dời lịch hẹn.
Cô nàng quản lý rượu không tin nổi vào mắt mình.
– Làm tốt lắm! – Cô reo lên phấn khích rồi hôn vào má cậu thiếu niên. – Cậu cũng là một thầy phù thủy chứ chẳng chơi.
Gương mặt tròn trĩnh của Romuald ửng đỏ.
– Dễ ấy mà, – cậu ta khiêm tốn đáp.
– Nói vậy thì cậu không có vẻ gì là phù thủy hết, nhưng cậu láu lỉnh ra phết, – cô vừa nói vừa mở cánh cửa để trở về văn phòng của mình. – Đương nhiên là chuyện này chỉ mình cậu biết thôi đấy nhé, thiên tài?
o O o
Boston
Tiệm Brooks Brothers
15 giờ 30
– Trông anh bảnh hết chỗ nói, – April nhận xét. – Kiểu cắt cổ điển là hợp với anh nhất: hai vai vuông vức, eo nhỏ, nhưng phần thân trên được giải phóng. Trông sang trọng và phi thời.
Matthew nhìn hình ảnh của mình trong chiếc gương có chân của cửa hiệu sang trọng. Râu cạo nhẵn, tóc cắt ngắn, bó sát trong chiếc áo vest ôm khít đến từng mi li mét, anh trông thật lạ lẫm.
Bao lâu rồi mình không mặc lễ phục nữa nhỉ?
Câu trả lời vang lên trong đầu anh. Gây xáo trộn và khó lòng chịu đựng nổi.
Từ hôm đám cưới mình.
– Thiếu chút nữa thì em chuyển sang thích đàn ông đấy! – April nhấn mạnh trong lúc cài hộ anh khuy áo.
Anh gượng cười để cảm ơn cô về những nỗ lực cô bỏ ra giúp đỡ anh.
– Chúng ta sẽ hoàn thành bộ trang phục của anh bằng một chiếc măng tô len thẳng thớm rồi phóng ngay ra sân bay thôi, cô vừa nhìn đồng hồ đeo tay vừa cả quyết. Giờ này đường sá lúc nào cũng tắc, mà không thể có chuyện anh lở chuyến bay đâu đấy!
Sau khi đã thanh toán tiền mua sắm, họ quay ra chiếc Camaro và April lái xe thẳng hướng sân bay Logan. Matthew lặng thinh suốt đường đi. Ngày càng trôi đi, anh càng đánh mất niềm hào hứng và cảm thấy nhiệt tình trong mình giảm sút. Hiện tại, cuộc hẹn với Emma Lovenstein đối với anh dường như không còn là một ý tưởng hay ho như tối qua nữa. Ngẫm cho kĩ, cuộc hẹn này thậm chí chẳng có chút ý nghĩa nào: nó là kết quả của một quyết định hấp tấp được đưa ra khi anh uống rượu và dùng thuốc. Anh không quen biết người phụ nữ này, hai người đã để mặc mình ngây ngất bởi một cuộc chuyện trò ngắn ngủi qua thư và một cuộc gặp gỡ ngoài đời thực có thể sẽ chỉ gây ra nỗi thất vọng cho cả hai.
Chiếc Chevrolet tiến vào đường nối dẫn tới bãi đỗ tốc hành. April dừng lại trước sân bay một quãng thời gian ngắn ngủi vừa đủ để bạn cô ra khỏi xe. Trong khi họ ôm hôn tạm biệt, cô chủ gallery cố gắng tìm lời động viên bạn.
– Em thừa biết anh đang nghĩ gì, Matt ạ. Em thừa biết anh đang lo sợ và lúc này anh đang tiếc vì đã đặt hẹn, nhưng em van anh đấy, hãy tới hẹn.
Anh gật đầu chấp nhận, đóng sập cửa xe lại sau lưng và lấy túi xách trong cốp. Anh vẫy tay chào bạn lần cuối trước khi đi vào bên trong.
Anh băng nhanh qua sảnh. Vì đã check in trước qua mạng, anh qua cổng kiểm soát an ninh và kiên nhẫn đợi trong phòng chờ. Đúng lúc anh đứng dậy để lên máy bay, nỗi ngờ vực bỗng xâm chiếm anh, rồi tiếp đó là nỗi sợ. Anh toát mồ hôi, vô số những suy nghĩ mâu thuẫn xô đẩy trong tâm trí anh. Trong thoáng giây ngắn ngủi, gương mặt Kate hiện ra trước mắt anh rõ nét đến kinh ngạc, anh cự tuyệt cảm giác tội lỗi, chớp mắt nhiều lần để xua đuổi hình ảnh này rồi đưa vé cho cô tiếp viên hàng không.
o O o
Cửa hàng Bergdorf Goodman
Đại lộ số 5
16 giờ 15
Emma dạo bước giữa các quầy của cửa hàng lớn nhất New York, hơi thấy lạc lõng. Nơi đây, mọi thứ đều gây cho con người ta cảm giác rụt rè, từ tòa nhà đồ sộ ốp đá hoa cưong trắng cho tới vẻ ngoài màu mè của các nữ nhân viên bán hàng – xinh đẹp như người mẫu – khiến cho bạn thấy mình thật thảm hại. Tự đáy lòng, Emma nghĩ một cửa hàng “như thế này” – đã bước vào bên trong thì người ta sẽ không hỏi giá, người ta phải đẹp, phải giàu và phải tự tin dù chỉ là để thử một bộ quần áo – không dành cho cô, nhưng hôm nay, cô cảm thấy đủ khả năng vượt qua nỗi ức chế của bản thân. Điều đó thật vô lý, nhưng cô đặt nhiều niềm tin ở cuộc gặp này. Đêm qua, cô hầu như không ngủ; sáng nay, vì sốt ruột nên cô đã dậy sớm rồi mất hơn một tiếng đồng hồ xem xét tủ quần áo để tìm một bộ đồ có thể tôn lên những ưu điểm của bản thân. Sau vô vàn lần xỏ ra xỏ vào rồi nghi hoặc, rốt cuộc cô đã quyết định chọn một bộ có vẻ hợp với mình hơn cả: áo màu sô cô la thêu chỉ màu đồng và chân váy bút chì, cạp cao, chất liệu lụa đen phát huy tác dụng. Để hoàn thiện bộ trang phục, cô cần một chiếc măng tô cho ra măng tô. Trong khi chiếc măng tô cô hiện có chỉ là một tấm thảm cũ kĩ và kinh khủng, trông chẳng còn ra hình thù gì. Từ khi lọt vào cửa hàng, bước chân cứ dẫn cô trở về với chiếc áo khoác ngắn chất liệu gấm này. Cô sờ lớp vải lụa được tôn lên bằng những hình cải hoa sợi vàng và bạc. Đẹp đến mức cô thậm chí không dám mặc lên người.
– Tôi có thể giúp gì cho chị? – Một nữ nhân viên bán hàng đã phát hiện ra mẹo của cô.
Emma yêu cầu được thử chiếc măng tô. Nó rất hợp với cô, nhưng giá của nó những 2.700 đô. Đó là một khoản chi tiêu quá đà mà cô hoàn toàn không có khả năng chi trả. Thoạt nhìn, lương của cô đủ tiêu, trừ có điều cô đang sống tại Manhattan và mọi thứ đều đắt đỏ. Nhất là khi phần lớn tiền tiết kiệm của cô đều dồn vào những buổi điều trị tâm lý học hằng tuần. Một khoản tiêu quan trọng. Margaret Wood, bác sĩ trị liệu tâm lý cho cô, đã cứu sống cô khi cô rơi vào tình trạng tồi tệ nhất. Bà đã dạy cô cách tự bảo vệ, cách dựng những con đê chắn để không bị nhấn chìm trong nỗi sợ và sự điên loạn.
Và lúc này đây, cô đang tự đặt mình vào tình huống nguy hiểm.
Emma tự lý giải rồi ra khỏi phòng thử.
– Tôi không mua đâu, – cô nói.
Hài lòng vì đã không nhượng bộ trước sở thích bột phát của bản thân, cô tiến về phía lối ra của cửa hàng. Khi liếc mắt lần cuối về phía gian hàng bán giày, cô ngắm nghía vẻ đầy ngưỡng mộ một đôi giày cao gót của Atwood bằng da màu hồng phấn. Mẫu giày trưng bày lại đúng size của cô. Cô xỏ chân vào giày và biến thành nàng Lọ Lem. Được làm bằng da trăn già, đôi giày cao gót có ánh phản chiếu màu tím và đôi gót sơn cao chót vót. Loại giày có thể giúp bất cứ bộ trang phục nào thăng hoa. Quên hết những ý định tốt đẹp của mình, Emma rút thẻ tín dụng ra để thanh toán cái giá chỉ có trong mơ: 1.500 đô. Trước khi ra quầy thu ngân, cô bốc đồng quay lại để mua chiếc măng tô gấm thêu. Tổng kết của chuyến trốn đi mua sắm lần này là: một tháng rưỡi tiền lương đã tan thành mây khói chỉ trong vài phút.
Khi ra đến đại lộ số 5, Emma bị cái lạnh chụp lấy. Cơ thể lạnh cóng, cô thắt chặt khăn quàng rồi cúi đầu để bảo vệ mình trước luồng gió, những đòn tấn công quá mạnh. Một luồng gió lạnh băng khiến cô đông cứng, mặt cô đờ dại, chân tay tê cóng. Mắt cô ngấn nước, má cô nóng rực. Cô không đủ can đảm cuốc bộ tiếp. Cô tiến bước trên vỉa hè để vẫy một chiếc taxi, cho tài xế biết địa chỉ salon tóc và đề nghị anh ta trước tiên hãy vòng qua Rockefeller Center để cô gửi ở chỗ người gác cửa nhà hàng Thống Soái chiếc túi đựng chiếc măng tô cũ và đôi giày cũ của cô.
Salon chăm sóc tóc của Akahiko Imamura là một không gian rộng rãi và sáng sủa nằm ở trung tâm khu Upper East Side: bốn phía tường màu be, các giá kệ bằng gỗ màu vàng nhạt, những chiếc tràng kỉ da rộng rãi, những chiếc bàn chân quỳ mặt trong suốt có bày hoa lan.
Emma xưng tên với nhân viên lễ tân để cô này xác minh cuộc hẹn trên máy tính bảng. Mọi thứ đều đúng trình tự, trò gian lận tin học của Romuald đã phát huy tác dụng. Trong lúc chờ đợi ông chủ, một thợ phụ nam gội đầu cho cô, nhẩn nha mát xa da đầu cô thật nhẹ nhàng. Dưới tác động của những ngón tay khéo léo, Emma thư giãn, quên đi các khoản chi tiêu vừa rồi, nỗi bồn chồn và những lo lắng của cô để thích thú buông mình vào tiện nghi êm ái và tinh tế của nơi này. Rồi Imamura bước vào chào cô, lưng khom và ánh mắt nhìn xuống. Emma lấy từ trong túi một bức ảnh chụp Kate Beckinsale mà cô đã cắt ra từ tạp chí.
– Ông có thể cắt cho tôi kiểu tóc tương tự thế này không?
Imamura không quan tâm đến bức ảnh. Thay vào đó, ông ta quan sát khuôn mặt khách hàng hồi lâu rồi khẽ nói vài từ tiếng Nhật với người cộng tác, chuyên gia trong lĩnh vực nhuộm màu tóc. Sau đó ông cầm một chiếc kéo lên và bắt đầu cắt vài lọn tóc dài. Ông ta thao tác chừng hai chục phút rồi nhường chỗ cho chuyên gia nhuộm tóc, vị này bôi dung dịch thuốc nhuộm màu nâu đỏ đậm từ chân tóc đến ngọn tóc. Khi đã nhuộm xong, Imamura tự tay gội đầu cho Emma và lại cắt tóc tiếp. Từng lọn tóc một được ông dùng những cái lô lớn cuốn hết chiều dài tóc rồi sấy toàn bộ trước khi tháo lô ra để lại dùng tay trau chuốt lại kiểu tóc.
Kết quả thật đáng kinh ngạc. Tóc cô đã được bới lên thành một búi xoắn thanh lịch. Một kiểu tóc trang nhã và cầu kỳ khiến gương mặt cô bừng sáng và tôn lên đôi mắt sáng cũng như vẻ nữ tính của cô. Emma lại gần gương, mê mẩn trước hình ảnh mới của bản thân. Vài lọn tóc lượn sóng chưa vào nếp tuột khỏi búi tóc và khiến cho kiểu đầu càng tự nhiên hơn. Còn về màu sắc, đơn giản là hoàn hảo. Còn tuyệt hơn cả Kate Beckinsale! Chưa bao giờ trông cô đẹp đến thế.
Thế nên cô bắt taxi tới khu East Village trong tâm trạng hết sức thoải mái. Ngồi trên xe, cô lấy túi đồ trang điểm ra rồi hoàn thiện vẻ ngoài của mình bằng một chút phấn má hồng, một lớp phủ vàng ánh kim trên mí mắt và một nét son màu san hô.
Đồng hồ chỉ 20 giờ 01 khi cô đẩy cửa bước vào Số 5, nhà hàng nhỏ chuyên món Ý ở phía Nam công viên Tompkins Square…
o O o
Chuyến bay Delta 1816 hạ cánh xuống sân bay Kennedy chậm mất vài phút. Ngồi phía đuôi máy bay, Matthew bồn chồn nhìn đồng hồ đeo tay. 19 giờ 18. Vừa xuống máy bay, anh đã lao tới chỗ hàng người đợi taxi và kiên nhẫn đợi khoảng mươi phút để gọi được một xe. Anh đọc địa chỉ nhà hàng cho tài xế rồi, như trong phim, hứa sẽ boa cho ông ta một khoản hậu hĩnh nếu ông ta đưa anh tới đó kịp hẹn. Ở New York cũng vậy, thời tiết dịu mát đến khó tin trong khi đã sang tháng Mười hai. Đường sá cũng tắc nghẽn, nhưng không đến nỗi như anh vẫn hình dung. Chiếc yellow cab rốt cuộc cũng ra khỏi được khu Queens khá nhanh và chạy lên cầu Williamsburg trước khi luồn lách trong những con phố nhỏ thuộc khi East Village. Taxi dừng trước nhà hàng Số 5 vào lúc 20 giờ 03.
Matthew hít vào một hơi thật sâu. Anh đến đúng hẹn. Có lẽ thậm chí anh còn là người đến trước ấy chứ. Anh thanh toán tiền taxi rồi xuống khỏi xe, bước lên vỉa hè. Anh cảm thấy vừa bồn chồn vừa phấn khích. Anh hít vào một lần nữa để trấn tĩnh rồi đẩy cánh cửa dẫn vào nhà hàng Ý.
Chú thích
1 Câu dẫn được cho là của Laure Conan, nữ tiểu thuyết gia người Canada gốc Pháp. (Chú thích của tác giả)