Oliver Twist

Chương 1



Đứa trẻ được sinh ra ở một Trại tế bần và mẹ nó, người mà không ai biết tên là gì, chỉ có đủ thời gian để nhìn nó trước khi nhắm mắt.

Đứa trẻ tội nghiệp gào khóc hết cả hơi. Giá như nó có thể biết được rằng nó chỉ có một mình ở trên đời, rằng nó mồ côi, rằng nó sẽ phải chịu nhiều đau khổ và sẽ bị đối xử tồi tệ, chắc hẳn nó còn gào khóc to hơn nữa.

Đứa trẻ được đặt tên là Oliver Twist. Nó không ở lại lâu trong Trại tế bần mà bị gửi đến nhà một bà già tên là Mann, người thường nhận được một khoản tiền nhỏ cho mỗi đứa trẻ mà bà có trách nhiệm.

Oliver Twist vừa tròn chín tuổi. Đó là một cậu bé xanh xao, gầy gò và nhỏ bé.

Mặc dù phải chịu nhiều thiếu thốn và bị đối xử tồi tệ trong ngôi nhà người ta sắp xếp cho nó, cậu bé vẫn có một tính cách lanh lợi và cương trực.

Hôm đó, em bị nhốt vào hầm than cùng với hai đứa bạn khác, do đã dám liều lĩnh phàn nàn rằng mình đói.

Bỗng nhiên, bà Mann, chủ nhân khu nhà đó, ngạc nhiên bởi sự xuất hiện đột ngột của viên thanh tra Trại tế bần, ông Bumble, đang cố mở cánh cửa của khu vườn.

– Quý hóa quá! Ngài Bumble đấy à? – Bà Mann vừa nói vừa nhoài người ra cửa sổ, vờ tỏ vẻ rất vui mừng. – Nhanh lên, Suzanne, cho ba thằng nhóc ra khỏi hầm than và rửa ráy thật nhanh cho chúng.

Đừng để cho ông Bumble nhìn thấy chúng trong tình trạng thế này. Thưa ngài Bumble, tôi thật lấy làm sung sướng được gặp ngài.

Ông Bumble là một người dễ nổi nóng. ông bắt đầu lắc mạnh chốt cửa và đập ầm ầm vào cánh cửa.

Trong thời gian đó, tụi trẻ được đưa ra khỏi hầm than và nhanh chóng rửa ráy sạch sẽ.

– Tôi đây. – Bà Mann nói. – Mời ngài vào, thưa ngài Bumble.

Bà Mann dẫn ngài thanh tra Trại tế bần vào một căn buồng nhỏ lát gạch. Bà ta mang đến cho ngài thanh tra một cái ghế tựa rồi nhanh nhảu cầm mũ và gậy của ông đặt lên bàn. Ngài Bumble lau cái trán lấm tấm mồ hôi. Ngụm rượu bà Mann mời khiến ông hết nhăn nhó..- Bà Mann, bà có cho lũ trẻ ăn cháo không đấy? – ông Bumble hỏi.

– Có, tôi có cho chúng ăn. – Bà ta nói. – Mặc dù cháo cũng đắt đấy. Nhưng tôi không thể nhìn những đứa trẻ thân thương ấy phải khổ sở. Ngài thấy đấy, tôi không thể kìm lòng được.

– Tốt, – ông Bumble nói, – tốt lắm, bà là một phụ nữ trung hậu, bà Mann ạ. Chúng tôi đã làm đúng khi giao những đứa trẻ cho bà. Nhưng tôi đến đây để nói về công chuyện. – Ngài thanh tra vừa nói vừa rút từ túi quần ra một cái ví da nhỏ. – Đứa trẻ được đặt tên thánh là Oliver Twist đến nay đã chín tuổi…

– Một đứa trẻ thật tử tế. – Bà Mann vừa nói vừa chùi mắt trái bằng góc chiếc tạp dề của mình.

– Dù đã trao giải thưởng mười bảng Anh và những cố gắng to lớn của Trại tế bần, – ông Bumble nói, – nhưng vẫn không thể tìm ra cha đứa trẻ cũng như họ tên bà mẹ quá cố của nó.

Bà Mann rất ngạc nhiên, hỏi sau một hồi suy nghĩ:

– Nhưng làm thế nào mà nó lại có một họ được nhỉ?

– Chính tôi đã nghĩ ra đấy chứ. – Ngài thanh tra vừa nói vừa vươn thẳng mình rất tự hào.

– ông ư, thưa ngài Bumble?

– Chính tôi đấy, bà Mann ạ. Tôi đặt họ cho lũ trẻ tìm thấy được theo thứ tự chữ cái abc, đứa gần đây đến chữ S, tôi đặt cho nó họ Swubble, và đứa này đến chữ T, tôi đặt là Twist. Những đứa tiếp theo là Unwin, Vilkent và tiếp tục cho đến chữ Z. Khi đến chữ cái này, tôi làm lại từ đầu bảng chữ cái.

– ông đã nghĩ kỹ thật đấy. – Bà Mann nói.

– Đúng vậy, – ông thanh tra nói vẻ mãn nguyện về lời khen này. Uống hết cốc rượu, ông ta tiếp lời.

– Bây giờ Oliver quá lớn để ở lại đây, hội đồng đã quyết định cho nó quay về trại và tôi đến đây để tìm nó. Dẫn nó ra đây cho tôi!

– ông sẽ gặp nó ngay thôi. – Bà Mann nói và rời khỏi phòng. – Trong lúc đó, Oliver đã được cọ rửa sạch lớp cáu ghét bám đầy mặt đầy tay, và được đưa ngay vào gian phòng ông Bumble đang ngồi.

– Oliver, hãy chào ngài đây. – Bà Mann nói.

Oliver kính cẩn cúi rạp mình chào ông Bumble.

– Cháu có muốn đi cùng với ta không, Oliver?

– Bà Mann không đi cùng với cháu ạ? – Cậu bé Oliver tội nghiệp hỏi.

– Không, không thể được, nhưng thỉnh thoảng bà ấy sẽ đến thăm cháu..Oliver cảm thấy nhẹ nhõm khi rời xa bà Mann nhưng dù còn rất nhỏ, em cũng đủ ý thức để giả vờ rất buồn rầu. Chẳng khó khăn lắm đối với đứa trẻ tội nghiệp để làm rơi nước mắt. Cái đói cùng những đòn roi mới nhận được tỏ ra thật có ích khi người ta muốn khóc và Oliver đã làm điều đó theo cách tự nhiên nhất.

Bà Mann hôn thằng bé và cho nó cái đáng giá hơn nụ hôn là một lát bánh mì phết bơ để nó không có vẻ quá đói khát khi đến Trại tế bần. Oliver được ông Bumble đưa ra khỏi nơi đáng sợ này, nơi mà không bao giờ có một lời nói hay một ánh mắt yêu thương tô điểm cho những năm tháng ấu thơ buồn bã của nó. Tuy nhiên, nó cũng nức nở khóc khi cánh cửa khép lại sau lưng, bởi vì dù những người bạn đồng hành bé nhỏ bất hạnh mà nó rời xa có khốn khổ đến mấy, đó cũng là những người bạn duy nhất nó từng quen biết. Lần đầu tiên nó cảm thấy thật đơn độc trên thế giới này.

Oliver bước qua ngưỡng cửa Trại tế bần chưa đầy mười lăm phút, và chỉ mới nuốt xong miếng bánh thứ hai thì ông Bumble quay lại bảo nó rằng hôm đó là ngày họp hội đồng và nó phải đến đấy trình diện.

Oliver, người chưa từng có một ý tưởng cụ thể nào về cái được gọi là hội đồng, rất đỗi ngạc nhiên về cái tin đó, không biết là mình nên cười hay nên khóc. ông Bumble cầm gậy đập nhẹ lên đầu nó để nó chú ý và đập cái nữa lên lưng để nó nhanh nhẹn lên. ông ta ra lệnh cho nó đi theo và đưa nó vào một gian phòng quét vôi trắng có khoảng một chục ngài to béo đang ngồi quanh một chiếc bàn. Một ông thân hình mập mạp béo tốt, có bộ mặt tròn và ửng đỏ, ngồi trong một chiếc ghế bành được kê cao hơn những ghế khác.

– Chào hội đồng đi! – ông Bumble nói. Oliver chùi hai ba giọt nước mắt và cúi chào.

– Cậu bé, họ của cháu là gì? – ông ngồi trong chiếc ghế bành hỏi.

Oliver sợ hãi khi nhìn thấy nhiều ông đến như vậy nên cứ câm lặng. ông Bumble lại nện lên lưng cậu bé một lần nữa khiến nó bật khóc, nó liền trả lời rất khẽ bằng một giọng run rẩy. Thế là một ông mặc áo gilê trắng nói rằng thằng bé này ngu ngốc, cần có biện pháp tuyệt vời để mang lại cho nó một chút tự tin và để nó thoải mái!

– Hãy lắng nghe ta, cậu bé, – ngài chủ tịch nói.

– ta cho rằng cháu biết là mình mồ côi.

– Thế là thế nào ạ? – Thằng bé đáng thương hỏi.

– Thằng bé này quả là ngu ngốc, tôi dám chắc điều đó. – ông mặc áo gilê trắng quả quyết nói..-Suỵt! – ông nói đầu tiên tiếp lời. – Cháu biết rằng cháu không có cả bố lẫn mẹ và cháu được nuôi nấng bằng chi phí của giáo khu chứ?

– Vâng, thưa ngài. – Oliver trả lời và cay đắng nức nở.

– Tốt! – ông có gương mặt đỏ đắn nói. – Cháu ở đây để được giáo dục và học một nghề có ích. Kể từ ngày mai, cháu sẽ bắt tay vào làm việc.

Oliver quay lại Trại tế bần như vậy đó. Nó ngủ trên một chiếc giường rất cứng trong căn phòng lớn của trại.

Phòng ăn của bọn trẻ là một phòng lớn lát gạch, phía cuối phòng có đặt một cái chảo, nơi người phụ trách trại đeo tạp dề và được một bà già phụ giúp phát cháo yến mạch vào giờ ăn.

Mỗi đứa trẻ được nhận một tô nhỏ yến mạch, không bao giờ hơn, trừ những ngày lễ có thêm một mẩu bánh mì. Những cái bát này chẳng bao giờ cần lau rửa, những đứa trẻ đã dùng thìa vét nhẵn nhụi bát của mình cho đến khi nó lại sáng loáng lên.

Thường thường, trẻ con ăn rất ngon miệng, Oliver Twist và những người bạn của em phải chịu đựng sự hành hạ của cái đói trong ba tháng. Rốt cục thì cái đói này khiến một cậu bé lớn hơn so với tuổi của mình và không quen với cảnh sống như vậy bị thác loạn đến mức em nói cho bạn bè hiểu rằng nếu không được thêm một suất yến mạch mỗi ngày, e rằng một đêm nào đó em sẽ ăn sống nuốt tươi cậu bé nằm chung giường với em, cậu này ít tuổi và yếu đuối. Sau đó, chúng thảo luận, chúng bốc thăm để biết bữa tối nay ai phải đi xin trưởng trại thêm một khẩu phần nữa. Cái thăm rơi vào Oliver Twist.

Tối đến, những đứa trẻ ngồi vào chỗ của mình, cuối bữa ăn, Oliver tiến gần đến trưởng trại:

– Thưa ông, cháu muốn thêm chút nữa ạ.

Trưởng trại, một người đàn ông béo tốt, tái mặt đi sửng sốt. ông ta nhìn nhiều lần thằng bé nổi loạn, sau đó ông dựa người vào chảo cho vững.

Bà già giúp việc ngẩn người kinh ngạc và bọn trẻ thì ngẩn người vì kinh hãi.

– Thế nào? – Trưởng trại nói, giọng lạc hẳn đi.

– Thưa ông, cháu muốn thêm chút nữa ạ. -Oliver trả lời.

Trưởng trại vụt vào đầu Oliver một nhát muôi, siết chặt nó trong tay và hét to gọi ông Bumble.

Hội đồng đang trong buổi họp long trọng, thì ông Bumble thở hổn hển, chạy vội vào phòng, nói với ngài chủ tọa:

– Thưa ngài Limbkins, tôi xin lỗi ngài. Oliver lại xin thêm cháo..Thật là sửng sốt. Sự ghê sợ hiện lên mọi gương mặt.

– Nó lại xin thêm nữa à? – Ngài Limbkins nói.

– Tôi phải hiểu rằng nó lại xin thêm thức ăn nữa ư?

– Vâng, thưa ngài. – ông Bumble trả lời.

– Đứa trẻ này rồi ra sẽ khiến người ta phải treo cổ nó. – ông mặc áo gilê trắng nói. – Đúng vậy, đứa trẻ này rồi sẽ bị treo cổ.

Sau khi phạm cái tội không thể tha thứ được là xin thêm yến mạch, Oliver bị giam tám ngày trong ngục tối chật hẹp, nơi mà lòng nhân từ và sự khôn ngoan của hội đồng đưa nó vào. Em khóc cay đắng suốt nhiều ngày liền và khi đêm đến, em đặt đôi bàn tay nhỏ bé của mình lên mắt để khỏi nhìn thấy bóng đêm và thu mình trong một góc cố thiếp đi.

Một ngày kia, người ta quyết định giao em cho một thợ nạo ống khói, người đã từng có tiếng làm chết nhiều cậu học việc của mình.

Mọi thủ tục đã làm xong thì viên pháp quan, người phải điền chữ ký cuối cùng, cảm thấy ít nhiều băn khoăn khi nhìn thấy nét mặt hốc hác của Oliver, em thực sự hãi hùng vì viễn cảnh phải sống dưới mệnh lệnh của ông thợ nạo ống khói.

Oliver Twist được gửi trả lại Trại tế bần và ông Limbkins thốt lên khi trông thấy em quay lại:

– Thằng bé sẽ bị treo cổ thôi, tôi đoán chắc điều đó.
– Chúng ta phải làm gì với thằng bé này đây?

– Mọi người trong hội đồng hỏi lẫn nhau. – Giá như chúng ta có thể đuổi nó đi xa làm thủy thủ. Nhưng chẳng có một viên thuyền trưởng nào muốn nhận nó.

Cuối cùng, Oliver Twist cũng được một ông bán quan tài chấp nhận, ông Sowerberry, người muốn dạy nghề nghiệp cho nó.

Một lần nữa, Oliver đi cùng ông Bumble đến chỗ ở mới của mình. Cậu bé tự đấm ngực, nức nở và nhìn ông Bumble với vẻ lo âu. ông này ngạc nhiên nhìn vẻ mặt thảm hại và buồn bã của cậu bé, ông ho hai ba tiếng như một người bị khan giọng, lầu bầu trong kẽ răng về chứng ho đáng bực mình, sau đó bảo Oliver lau khô mắt và hãy ngoan ngoãn lên. Rồi cầm lấy tay em ông tiếp tục lặng lẽ đi.

ông đóng áo quan vừa mới đóng cửa hàng và đang ngồi ghi chép vài khoản thu nhập vào quyển sổ tính toán của mình, dưới ánh sáng mờ của ngọn nến xấu thì ông Bumble bước vào.

– à, ông chính là ông Bumble đấy ư? – ông ta vừa nói vừa ngước mắt nhìn lên và ngừng viết..-Không ai khác, ông Sowerberry này, tôi mang đến cho ông đứa trẻ đấy. – Viên thanh tra trả lời.

Oliver cúi chào.

– à, đây là đứa trẻ đã được nói đến phải không.

– Người chuyên phụ trách ma chay cất tiếng và nhấc ngọn nến lên để nhìn Oliver kỹ hơn.

Bà Sowerberry bước ra từ một phòng nhỏ sau cửa hiệu, đó là một người đàn bà thấp bé, gầy còm, khô khan, một mụ đàn bà độc ác thật sự.

– Này em yêu, – ông Sowerberry nói với vẻ tôn kính. – đây là đứa trẻ ở Trại tế bần mà tôi đã nói với mình.

Oliver lại cúi chào lần nữa.

– Chúa ơi! Sao mà nó gầy thế! – Bà vợ thốt lên.

– Quả đúng vậy, nó không khỏe. – ông Bumble trả lời và nghiêm khắc nhìn Oliver như thể đấy là tội của em. – Phải thừa nhận rằng nó không khỏe nhưng rồi nó sẽ lớn lên, thưa bà Sowerberry, nó sẽ lớn lên.

– Vâng, – bà ta nói với vẻ cau có, – nhờ vào đồ ăn thức uống của chúng tôi chứ gì. Còn kiếm được gì hơn từ những đứa trẻ ở Trại tế bần? Bao giờ chúng cũng gây tốn kém hơn giá trị thực của mình. Nào, bộ xương nhỏ, hãy xuống đây!

Sau những lời nói trên, bà ta mở một cánh cửa, đẩy Oliver xuống một cái cầu thang thẳng đứng, dẫn đến một căn hầm tối và ẩm ướt, sát cạnh chỗ để củi mà người ta gọi là bếp, nơi có một con bé bẩn thỉu, đi đôi giày mòn gót, với đôi tất thô màu xanh rách bươm.

– Charlotte, – bà Sowerberry đi theo sau Oliver nói, – hãy cho cậu bé này vài thứ mà chúng ta cất phần Trip, nó đã không quay về nhà cả ngày hôm nay, vậy nó sẽ không cần đến chỗ thức ăn đó. Ta cho rằng cậu sẽ không cảnh vẻ chứ, nhóc con?
Oliver mắt sáng lên vì ý nghĩ sẽ được ăn thịt, có thể chết được vì thèm muốn ngấu nghiến thức ăn đó, trả lời không ạ, và một đĩa thức ăn thừa tồi tệ được đặt trước mặt em. Cậu bé lao đến ngốn ngấu đĩa thức ăn thừa mà con chó đã chê không thèm ăn.

– Được rồi! – Bà ta nói khi Oliver ăn xong bữa tối của mình, bà ta đã chứng kiến cảnh đó với sự ghê sợ lặng lẽ, kinh hoảng vì sự ngon miệng của cậu bé.

– Đi với ta. – Bà nói tiếp.

Bà ta cầm một cây đèn bẩn, đầy khói và dẫn em lên cầu thang.

– Giường của cậu nằm phía dưới quầy hàng. Ta cho rằng cậu không sợ khi phải nằm giữa những.chiếc áo quan chứ? Vả lại, dù cậu có thích điều đó hay không, cậu cũng sẽ không ngủ nơi khác được.

Oliver không đáp lại và ngoan ngoãn theo sau bà chủ mới.

Còn lại một mình trong cửa hàng đóng áo quan, Oliver đặt cây đèn lên một chiếc ghế dài, đưa mắt rụt rè nhìn xung quanh với một cảm giác hoảng sợ.

Sớm hôm sau, cậu bé bị đánh thức bởi tiếng chân đạp mạnh giận dữ lặp đi lặp lại hai mươi lăm lần phía ngoài cửa hiệu, trong khi cậu bé vội vàng mặc áo quần. Chỉ khi cậu bắt đầu kéo chốt cửa thì tiếng chân mới ngừng đạp và có tiếng nói vọng vào.

– Mày có mở cửa ra không? – Ai đó hét lên.

– Vâng, thưa ông, ngay lập tức. – Oliver vừa trả lời vừa kéo chốt và xoay chìa trong ổ khóa.

– Mày là đứa học việc mới ở đây phải không?

– Tiếng nói vọng vào qua lỗ khóa.

– Vâng, thưa ông. – Oliver trả lời.

– Mày bao nhiêu tuổi?

– Mười bốn thưa ông.

– Thế thì tao phải quở trách mày mới được.

Oliver mở cửa, tay run run.

Cậu bé nhìn quanh phố, bên phải, bên trái, nghĩ rằng người nói chuyện với mình qua lỗ khóa chắc đã đi loanh quanh vài bước cho ấm người. Bởi vì em không thấy ai ngoài một cậu to xác của trường từ thiện, đang ngồi trên một cột mốc trước nhà và đang bận ăn một miếng bánh mì quệt bơ.

– Xin lỗi anh, – cuối cùng Oliver cất lời khi không trông thấy một người khách nào khác, -chính anh đã gõ cửa à?

– Tao đạp chân đấy chứ. – Anh kia trả lời.

– Anh cần một chiếc áo quan chăng? – Oliver hỏi rất ngây thơ.
Anh chàng tỏ ra bực bội.

– Chắc mày không biết ta là ai rồi, kẻ mồ côi đáng ghét kia?

– Không, thưa anh. – Oliver trả lời.

– Ta là ông Noé Claypole, – anh ta tiếp lời, -và mày là kẻ phụ tá cho ta. Nào, xê ra.

Noé Claypole bồi cho Oliver một cú đá và bước vào cửa hiệu với vẻ đàng hoàng trang nghiêm, cốt mang lại cho mình vẻ quan trọng.

– Này, Noé, lại gần lửa đi, – Charlotte nói, -tôi đã lấy cho anh từ bữa trưa của ông chủ một miếng mỡ lá rồi đấy! Còn Oliver, hãy ăn mẩu bánh mì này đi!

Cả hai liếc mắt khinh bỉ nhìn Oliver đáng thương đang ngồi run lập cập trên một cái hòm và ăn phần bánh mì rắn câng còn lại mà mọi người đặc biệt dành cho nó..Noé không phải là một đứa trẻ nhặt được.

Mẹ nó là thợ giặt còn bố nó, cựu chiến binh, nát rượu, ra khỏi quân ngũ với một chân gỗ. Noé đã từng phải chịu đựng nhiều lời chửi rủa của những cậu bé cửa hiệu kế bên. Giờ đây, sự may mắn đã đặt một kẻ mồ côi đáng thương, không họ tên trên con đường của nó và nó sẽ đem cậu bé này ra trả hận.

Mặc dù bị đối xử tàn tệ và buộc phải tham dự vào nhiều cảnh tang tóc, Oliver Twist vẫn tận tình phục vụ ông chủ của mình.

Em đi theo những đám tang và trong những dịp như vậy, em đội một chiếc mũ gắn băng tang, tay cầm gậy đen. Tất cả mọi người đều mãn nguyện về anh chàng phu đám trẻ tuổi này, tuy nhiên không ai biểu lộ chút đồng cảm nhỏ nhặt nào đối với em.

Sau một tháng học việc, Oliver được xác định là thợ học nghề, lúc đó là mùa những nạn dịch.

Và trong vài tuần lễ, Oliver đã học được nhiều kinh nghiệm. Em vẫn tiếp tục chịu sự đàn áp của Noé Claypole, luôn ghen tị về bộ đồng phục của Oliver.

Một hôm, Oliver và Noé cùng đi xuống bếp vào giờ ăn tối quen thuộc để thưởng thức một miệng thịt cừu nhỏ. Charlotte đi ra ngoài và anh chàng Noé Claypole cho rằng mình chẳng thể giết thời gian thú vị hơn ngoài cách giày vò cậu bé Oliver.

– Mẹ của mày sao rồi? – Noé hỏi.

– Bà ta chết rồi. – Oliver trả lời. – Tôi xin anh đừng nhắc đến chuyện ấy nữa.

Cậu bé đỏ mặt khi thốt lên những lời đó. Em thở gấp và Noé cho rằng em sắp òa khóc, bởi vậy nó quay lại đề tài đó.

– Mẹ mày chết vì lý do gì? – Noé hỏi.

– Vì thất vọng, đó là những gì mọi người nói với em. – Oliver trả lời.

– Dù sao thì mẹ mày chết đi là hơn. Chắc chắn mẹ mày là một tên tội phạm. Mẹ mày đáng ra phải chịu một kết cục tù tội hay bị treo cổ.
Mặt đỏ rực lên, Oliver lao đến, hất đổ ghế và bàn, tóm lấy họng Noé, lắc mạnh với vẻ giận dữ điên cuồng đến nỗi răng em đập vào nhau và thu mọi sức lực, em đánh nó một cú mạnh đến nỗi khiến nó ngã nhào xuống đất.

Chỉ một lát trước đây, đứa trẻ này dù bị bao sự đối xử đè nặng vẫn hết sức nhu mì nhưng cuối cùng thì lòng dũng cảm cũng trỗi dậy. Sự lăng nhục xúc phạm đến linh hồn mẹ khiến em phát khùng, tim em đập mạnh. Trong em tất cả đã thay đổi, giờ đây em nhìn kẻ hèn hạ vừa ngược đãi mình.đang nằm dài dưới chân và thách thức nó với một nghị lực mà chính em chưa hề biết đến trước đây.

– Có kẻ giết người! – Noé la lên. – Charlotte ơi, bà ơi! Tên học việc đang giết tôi! Cứu với! Oliver bị điên rồi!

Charlotte và bà Sowerberry lao đến đánh em một trận nhừ tử. Họ nhốt Oliver đáng thương vào một căn hầm khiến em vô cùng hoảng sợ.

– Chúng ta sẽ làm gì với kẻ điên khùng này? -Bà Sowerberry hỏi. – Gọi cảnh sát hay cận vệ? Hay có thể là ngài thanh tra Trại tế bần? Ta cho rằng ý nghĩ này hay đấy. Noé, hãy chạy nhanh đến Trại.

Mắt của cháu không bị hỏng đấy chứ, và hãy dẫn ngài Bumble lại đây. Nhanh lên!

Noé Claypole nhảy ba bước đến Trại và nó khích động tất cả mọi người. Nó không ngừng la lên:

– Oliver Twist muốn giết tôi. Nó còn muốn giết bà chủ của mình nữa. ôi, tôi đau biết bao!

Quyết định phải trừng trị Oliver được đưa ra ngay lập tức và ông Bumble nhận được lệnh không được nương nhẹ cho tên nổi loạn trẻ tuổi này, nó phải chịu một trận đòn nhừ tử.

Ông ta đến nhà ông Sowerberry ngay lập tức.

Oliver vẫn chưa bình tâm được, em hét như một kẻ bị ma ám và giận dữ đạp vào cánh cửa hầm.

– Thả tôi ra! Thả tôi ra!

– Cháu không nhận ra giọng ta ư Oliver? – ông Bumble hỏi.

– Không! – Oliver ương ngạnh khẳng định.

Một câu trả lời thật khác với những gì mình chờ đợi và quen nhận khiến ông Bumble phần nào lúng túng. ông bước ra xa ổ khóa cửa, vươn thẳng người, im lặng kinh ngạc và nhìn từng người đang có mặt.

– ồ ngài biết đấy, thưa ngài Bumble, nói với ngài như vậy chắc hẳn nó bị điên rồi. – Bà Sower-berry nói.

– Đó không phải là sự điên rồ. – ông Bumble trả lời. – Đó là do thức ăn.

– Gì cơ! – Bà Sowerberry la lên.

– Do thức ăn. – ông Bumble đáp với vẻ rất nghiêm túc. – Bà đã cho nó ăn quá nhiều.
– Đó là kết cục của lòng quá nhân từ đấy. – Bà Sowerberry nói. ông Bumble thấy không nên thả ngay thằng quỷ con này ra, nó có vẻ rất nguy hiểm.

Cuối cùng, cậu bé cũng bị lôi cổ ra giữa ban ngày. Mọi người chửi mắng em, nguyền rủa linh hồn mẹ em và bắt đầu đánh tới tấp lên thân thể.nhỏ bé đáng thương của em, sau đó người ta ra lệnh cho em quay lại giường.

Trong căn phòng nhỏ bé u ám và lạnh lẽo của mình, Oliver tha hồ nghĩ ngợi về cuộc đời buồn khổ mình đang sống. Hôm nay, họ đã đối xử vượt quá sức chịu đựng của em. Điều đó không thể kéo dài hơn nữa. Em sẽ bỏ ra đi!


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.