Oliver Twist

Chương 6



Vào một đêm mưa tối trời, lão già Do Thái rời khỏi sào huyệt của mình. Lão dừng chân một lát trước ngưỡng cửa trong khi phía sau lão, người ta cẩn thận khóa cửa và đẩy chốt khóa.

Đi được một lúc, lão dừng lại trước một ngôi nhà. Lão gõ cửa, ở phía trong, người ta nghe thấy tiếng chó gừ gừ.

– Tôi đây, Guillaume, tôi đây mà. – Lão Do Thái nói.

– Mời vào. – Guillaume Sikes nói. – Nằm xuống, con chó chết tiệt, mày không nhận ra lão quỷ dữ này khi lão mặc áo choàng à?

Lão Fagin bước vào, chào Guillaume và Nancy, kể từ ngày cô bắt được Oliver, đây là lần đầu tiên lão gặp lại cô ta.

– Trời lạnh thật đấy, Nancy ạ. – Lão Do Thái nói. – Tôi lạnh cóng đến tận xương tủy.

– Không sợ cái lạnh thấu đến tim đâu, Guil-laume Sikes thêm vào với giọng mai mỉa. – Nào, Nancy, hãy rót cho chúng tôi chút gì để uống đi.

Sau khi uống xong, Guillaume lại tiếp lời.

– Tại sao ông đến đây? Chắc không phải vì thú vui đến thăm tôi đâu nhỉ?

– Anh đã nói cho ta biết về một ngôi nhà, một biệt thự…

– Hãy nói rõ hơn đi. Không phải chính ông là người đầu tiên đã có ý định về vụ ăn cắp này à? Hãy giải thích đi, mẹ kiếp!

– Bình tĩnh, Guillaume, và hãy thận trọng, người ta có thể nghe thấy chúng ta đấy.

– Tốt thôi! Cho người ta nghe thấy chúng ta!

– Sikes đáp. – Đối với tôi có quan trọng gì?

– Nào, nào, đừng có đùa với lửa. Nói nhỏ thôi, hãy nói về ngôi nhà đó đi. Khi nào chúng ta thực hiện phi vụ này? Tôi không thể không nghĩ về đống đồ ăn bằng bạc, về cái kho báu đẹp đẽ sắp thuộc về chúng ta.

– Không thể làm gì được đâu. – Sikes đáp lạnh lùng.

– Thế nào, không có gì để làm ư?

– Đó không phải là một phi vụ dễ nuốt. Đã mười lăm ngày nay, Tobie Crackit lảng vảng xung.quanh ngôi nhà này và gã không thể đặt mối quan hệ nào với những tên đầy tớ.

– Sao lại thế được?
– Tôi cho rằng chỉ có hai tên đầy tớ. Chúng đã phục vụ bà già này từ hơn hai mươi năm nay và không có gì trên đời khiến chúng có thể phản bội bà này.

– Thật đáng tiếc, – lão già Fagin buồn rầu nói, – bị mất nhiều của cải đến thế khi mà chúng ta tin rằng đã nắm được!

– ừ, chúng ta quả là ít may mắn.

Một khoảng yên lặng kéo dài và mỗi người trầm ngâm trong suy nghĩ của mình.

– Chúng ta có tất cả những công cụ, nhưng chúng ta còn thiếu một đứa trẻ. – Sikes nói.

– Một đứa trẻ! Để làm gì vậy?

– Để vào được ngôi nhà, cần phải chui qua một cánh cửa tò vò hẹp. Chỉ một đứa trẻ không lớn lắm mới có thể làm được chuyện này.

– ừ nhỉ, ta hiểu rồi. – Lão Do Thái nói.

Lão Fagin ra hiệu cho Nancy đi ra.

– ông có thể nói mà không sợ gì cả, – cô này nói, – tôi biết chắc rằng ông sẽ nói đến cậu bé Oliver chứ gì.

– Cô tinh ranh lắm. – Lão Fagin nói. – ừ, Oliver có thể làm được việc này. Nó sẽ làm những gì các người muốn với điều kiện các người làm nó sợ.

– Tại sao lại là Oliver? Có hàng chục nhóc con lang thang trên đường mỗi tối và chúng có thể làm tốt vụ này.

– Không, – lão Do Thái nói, – những thằng nhóc ấy chẳng làm được việc gì tốt đâu. Một khi bị tóm, thần sắc chúng làm chúng bị lộ. Theo ý tôi, Oliver có thể giúp chúng ta khối việc nhưng cần phải buộc nó lại với chúng ta. Để nó tham gia vào một vụ ăn cắp, để nó bị liên lụy và lúc đó ta sẽ làm gì nó tùy ý!

– Thế khi nào tiến hành? – Nancy hỏi, cô không thích thú thấy cuộc trò chuyện cứ xoay quanh mãi một chủ đề.

– Ngày kia. – Guillaume trả lời. – Tobie đã đồng ý.

– Được, – lão Do Thái nói, – tất cả đã sắp xếp tốt rồi chứ?

– ừ, tối mai hãy dẫn thằng bé đến đây. Tôi phụ trách phần còn lại.

– Oliver sẽ tỏ ra ghê tởm chút ít đối với phi vụ này. – Lão Do Thái nói tiếp. – Nhưng tôi cho rằng nó sẽ đi theo Nancy hơn bất kỳ ai khác bởi vì gần đây cô ta đã can thiệp để bênh nó. Bây giờ tôi đi đây. Chào tất cả mọi người. Fagin lại về hang ổ tối tăm của mình, nơi Láu Cá đang nóng lòng chờ ông chủ quay về.

– Oliver đã ngủ chưa? – Lão hỏi khi vừa mới bước qua ngưỡng cửa.

– Rồi, – Láu Cá đáp, – từ lâu rồi. Nó đây này.
Oliver nằm dài trên một tấm đệm đặt ở góc phòng. Cậu bé đáng thương xanh xao như một xác chết.

Lão Do Thái nhìn em một lúc.

– Hãy để cho nó ngủ, nó sắp cần đến tất cả sức lực của nó.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, Oliver ngạc nhiên thấy phía chân giường mình một đôi giày đế to. Lúc đầu em thích thú, hy vọng rằng đó là dấu hiệu báo trước em sắp được tự do. Nhưng hy vọng này nhanh chóng biến thành thất vọng. Vào bữa ăn trưa, khi em ngồi một mình với lão Do Thái, lão ta nói với em bằng một giọng điệu và vẻ mặt khiến em thêm lo sợ, rằng tối nay, mọi người sẽ dẫn em tới nhà Guillaume Sikes.

– Để cháu ở lại đấy à? – Oliver lo âu hỏi.

– Không, không đâu anh bạn, chúng ta không muốn mất cháu. Đừng sợ, Oliver, cháu sẽ quay lại với chúng ta.

Lão già, vừa chế giễu Oliver, vừa thu mình trước lò sưởi vì đang bận nướng một lát bánh mì.

– Ta thiết nghĩ rằng, – lão vừa tiếp lời vừa nhìn thẳng vào em, – ta cho rằng cháu muốn biết tại sao cháu lại đến nhà Guillaume Sikes phải không?

Mặt Oliver đỏ gay lên khi em thấy rằng lão già đã đọc được ý nghĩ của mình. Em trả lời không lưỡng lự:

– Vâng, cháu muốn biết điều đó.

– Cháu không nghi ngờ điều gì có thể xảy ra à? – Lão Fagin vừa hỏi vừa cố tránh né vấn đề.

– Không, thật ra cháu không hề có một ý tưởng nào. – Oliver đáp và tỏ vẻ không quan tâm đến vấn đề lắm.

– Được, – lão Do Thái nói tiếp, – Guillaume sẽ nói cho cháu ngay thôi.

Fagin tỏ ra phật ý khi thấy Oliver không tỏ ra tò mò hơn về chủ đề này. Thật ra, em rất lo lắng, đến nỗi không dám hỏi thêm về đề tài này.

Cơ hội không đến nữa: lão Do Thái im lặng cho đến tối và khi màn đêm buông xuống, lão chuẩn bị ra đi.

– Cháu có thể châm một cây đèn cầy lên, – lão già vừa nói vừa đặt cây đèn xuống bàn, – và đây là một quyển sách để cháu giải trí cho tới khi người ta đến tìm cháu. Chào nhé!

– Chào ông. – Oliver nhỏ nhẹ đáp..Cậu bé đăm chiêu suy nghĩ trong vài phút, sau đó, mở quyển sách lão Fagin để lại cho em và bắt đầu đọc lướt qua.

Lúc đầu, em lơ đãng lật từng trang, sau đó, em rơi ngay vào một đoạn thu hút tâm trí em. Em đang hoàn toàn chìm đắm vào trang sách thì bỗng nhiên một tiếng động nhỏ khiến em giật mình.

– Ai đấy? – Oliver hỏi khi thoáng thấy một bóng người đứng sau cánh cửa.
– Tôi đây. – Một giọng run rẩy lên tiếng.

Oliver đưa cây đèn cầy lên cao trên đầu và nhận ra Nancy.

– Chị được Guillaume cử đến đây. Em sẽ đi với chị.

– Để làm gì? – Oliver vừa nói vừa lùi lại.

– Không có gì xấu đâu. – Cô vừa nói vừa nhìn xuống.

– Em nghi ngờ điều đó. – Oliver nói và chăm chú quan sát cô.

– Nghe đây, Oliver, chị đã tránh cho em những sự đối xử tồi tệ. – Cô nói. – Chị sẽ còn tránh cho em những điều khác. Chính vì thế chị đến đây. Nếu em không vâng lời chị, chị có nguy cơ chịu nhiều phiền phức mới đấy. Hãy nhìn những gì chị đã phải chịu đựng vì em này.

Vừa nói, cô ta vừa chỉ cho Oliver thấy những vết tím bầm khắp cổ và tay.

– Nào, hãy đi với chị và đừng chống cự nữa.

Cô nắm lấy bàn tay mà Oliver đưa ra một cách máy móc, thổi ngọn đèn và đưa cậu bé ra ngoài.

Một cỗ xe ngựa đang đợi họ. Nancy nhanh chóng đẩy Oliver lên xe, cô ngồi cạnh em và hạ bức mành xuống. Chỉ sau một giây, con ngựa phóng vụt đi.

Oliver chỉ kịp thoáng nghĩ đến những gì đang xảy ra với em, cỗ xe đã dừng lại trước cửa ngôi nhà mà lão Do Thái đến hôm trước.

Oliver định bỏ chạy nhưng Nancy xin em hãy bước vào và đừng gây ra chuyện gì cả. Cánh cửa khép lại sau lưng em.

– Tốt lắm, em đã mang chú dê con về đấy à?

– Sikes hỏi.

– Nó đây. – Nancy đáp.

– Nó đã đi ngoan ngoãn chứ? – Sikes hỏi.

– Như một con cừu non. – Nancy đáp.

– Thật tốt khi biết điều thế. – Sikes vừa nói vừa nhìn cậu bé với vẻ nghiêm khắc. – Mày biết cái này chứ? – Gã vừa hỏi vừa chỉ cho em thấy một khẩu súng lục.

– Vâng. – Đứa trẻ đáp..- Thế thì này, – tên cướp nói, – nghe cho rõ đây. Khi chúng ta ra khỏi đây, nếu mày chống cự lại, ta sẽ bắn một viên đạn này vào đầu mày mà không hề báo trước một lời. Nào! Bây giờ đã đến lúc ăn và làm một giấc trước khi lên đường.

Bữa ăn khuya kết thúc, Guillaume Sikes nốc hai cốc rượu, và vừa lăn ra giường vừa ra lệnh cho Nancy gọi gã dậy vào lúc năm giờ đúng. Lão lệnh cho Oliver mặc cả áo quần ngủ trên một tấm đệm.

Cô gái khơi lửa lên và ngồi trước lò sưởi để sẵn sàng đánh thức mọi người vào giờ được yêu cầu.
Oliver cuối cùng cũng chợp mắt.

Khi em thức dậy, bình trà đang ở trên bàn và Guillaume Sikes đang bận nhét nhiều thứ khác nhau vào trong túi áo choàng lớn của hắn. Nancy đang chuẩn bị bữa ăn. Bên ngoài trời còn tối. Một cơn mưa dữ dội đập vào cửa kính.

– Nào, dậy thôi! Năm giờ rưỡi rồi đấy! Nhanh lên hoặc là mày sẽ không có thời gian để ăn đâu.

Buổi sáng họ lên đường trời mưa buồn bã. Họ đi bộ trong nhiều giờ. Oliver càng lúc càng ê ẩm hơn. Sikes bước chậm lại và chờ cho một chiếc xe bò trống không đang tiến đến phía sau, đuổi kịp họ. Gã hỏi người đánh xe, với tất cả sự lễ phép hắn có thể có, xem liệu anh ta có thể đưa họ đến Isle-worth được không.

– Trèo lên đi. – Anh đánh xe nói. – Đấy là con ông à?

– Vâng. – Sikes vừa nói vừa liếc nhìn Oliver và cho tay vào túi để khẩu súng lục.

– Cha cháu đi quá nhanh đối với cháu phải không, cậu bé? – Anh đánh xe hỏi.

– Không nhanh tí nào hết. – Sikes đáp lại. -Nà o, đưa tay cho ta, Edouard. Trèo lên nhanh đi! Oliver trèo lên chiếc xe bò và ngồi lên một đống bao để nghỉ ngơi.

Cuối cùng họ đến nơi. Cả bọn tiến đến một quán trọ mà bảng hiệu đã bị xóa sạch và bảo chủ quán dọn bữa ăn tối trong bếp, bên lò sưởi.

Chủ quán mang ra món thịt nguội. Sau bữa tối, Sikes hút ba, bốn tẩu thuốc và ngồi ở bàn lâu đến nỗi Oliver tưởng rằng họ sẽ không đi xa hơn nữa.

Em thiếp vào giấc ngủ rất sâu.

Đêm đã xuống khi Sikes đánh thức em dậy. Gã đang trò chuyện với một anh nông dân và cùng uống với anh ta một cốc vại bia.

– Anh có thể đưa tôi đến Shepperton được không? – Guillaume hỏi.

– Tuân lệnh ngài. – Người kia đáp.

Trời rất tối. Một đám sương mù dày đặc trải lên cánh đồng. Trời lạnh cắt da cắt thịt. Mọi vật đều tối tăm và sầu thảm. Những người khách đi.đường không ai nói với ai câu gì, anh đánh xe hơi thiu thiu ngủ còn Sikes hoàn toàn không muốn bắt chuyện. Oliver, ngồi nép ở một góc, lo lắng cao độ, em tưởng như nhìn thấy những con ma trên những cành cây đang đung đưa một cách buồn bã.

Đến Shepperton, cả bọn xuống xe và tiếp tục đi đến một ngôi nhà cách biệt, hoang tàn. Sikes, luôn nắm tay Oliver, tiến đến gần cánh cửa, giật chốt, cánh cửa hé mở, và cả bọn bước vào.

– Ai đi đấy? – Một giọng cục cằn vang lên.

– Đừng làm ồn như vậy. – Sikes nói. – Tobie, thắp đèn lên đi.

– à, à, cậu đấy à, anh bạn. – Giọng này nói tiếp. – Barney, thắp đèn lên đi.
Người ta nghe thấy tiếng giày nện trên sàn nhà và sau đó, một ngọn đèn được thắp lên phía bên phải.

– Chào Sikes! – Barney kêu lên. – Mời vào!

– Nào, tiến lên đi! – Sikes vừa nói vừa đẩy Oliver lên phía trước.

Vừa càu nhàu về sự chậm chạp của cậu bé, Sikes vừa đẩy em vào một căn phòng thấp. Trên một trường kỷ mọt ruỗng, một người ngồi chân ghếch cao hơn đầu, đang hút một ống điếu bằng đất. Hắn mặc một bộ y phục màu hạt dẻ, cắt may theo mốt mới nhất, thắt caravát màu cam, mặc gilê màu lòe loẹt có nẹp lật và một cái quần màu xám. Tóc của Tobie Crackit thưa nhưng lại có màu hung đỏ và được uốn loăn quăn thành từng lọn.

– Thằng bé đây. – Sikes vừa đáp vừa xích chiếc ghế lại gần lò sưởi.

– Một trong những thằng học nghề của lão Fagin. – Barney vừa nói vừa cười.

– Để xem xem nó có khả năng gì khác ngoài chuyện đi nẫng của các bà già. – Crackit nói. Sau khi ăn tối xong, chúng chợp mắt ít phút.

Oliver ngồi gần lò sưởi và Barney trùm kín chăn, nằm dài trên sàn nhà, gần bếp lò. Tobie Crackit chợt tỉnh giấc và tuyên bố rằng đã một giờ rưỡi rồi.

Trong giây lát, những kẻ đang ngủ ngồi cả dậy.

– Tất cả đều chuẩn bị đâu ra đấy. – Sikes nói.

– Barney, hãy mang cho chúng ta những cây gậy.

Chúng ta chỉ còn thiếu thứ đó.

Sikes nắm lấy tay Oliver và cả hai bước ra cùng Tobie.

Bóng tối thăm thẳm, sương mù còn dày đặc hơn lúc màn đêm vừa buông xuống.

Cả bọn rảo bước, rời đường lớn và đi vào một hẻm nhỏ bên tay trái. Chẳng bao lâu, chúng dừng lại trước một ngôi nhà tách biệt có tường bao quanh vườn. Trong giây lát, Tobie đã trèo lên tường..- Đưa thằng bé cho tôi. – Hắn nói với Sikes.

Trước khi Oliver kịp nhận ra sự việc, em cảm thấy mình bị kẹp chặt dưới những cánh tay và được đẩy qua phía tường bên kia. Sikes bám theo ngay và cả bọn tiến lại phía ngôi nhà.

Thế là Oliver sợ hãi hiểu rằng mục đích của chuyến đi này là một vụ ăn cắp, thậm chí có thể là một vụ giết người. Mồ hôi lạnh toát ra đầy mặt, chân em luýnh quýnh và em ngã khụy xuống.

– Đứng lên! Nghe cho rõ này, ranh con. – Sikes nói. – Ta sẽ đưa mày qua cửa sổ này, mày sẽ cầm lấy cây đèn, bước nhẹ nhàng lên những tầng cấp trước mặt, băng qua chỗ để áo, và mở cửa chính cho chúng ta.

– Phía trên cao cánh cửa có một chốt khóa mà mày có thể tìm thấy ngay. Mày trèo lên một cái ghế. – Tobie nói.
– Im đi, nếu có thể được. – Sikes nói. – Cửa phòng mở phải không?

– Mở to, – Tobie đáp. – Thật hay là người ta luôn để cửa hé mở để con chó có thể tha hồ chạy rông khi nó không ngủ. Tối nay Barney đã tống khứ nó giúp chúng ta rồi.

Sikes ra lệnh cho nó im lặng và bắt đầu bắt tay vào việc. Tobie vâng lệnh và đặt cây đèn xuống đất. Nó đứng sát tường, dưới cánh cửa sổ nhỏ, tay chống gối sao cho lưng nó làm thành cái thang.

Sikes trèo lên người nó, cho người Oliver qua cửa sổ và không buông em ra, mà thả cho em đặt chân xuống.

– Cầm cây đèn này. – Gã vừa nói với em vừa nhìn vào trong phòng. – Mày có thấy cái cầu thang ngay trước mặt không?

– Có. – Oliver sợ hãi đáp.

Sikes hất nòng súng, chỉ cho em thấy cánh cửa chính và nhắc nhở em rằng lúc nào em cũng ở trong tầm ngắm của gã. Nếu em làm điều gì sai, em sẽ bị chết ngay lập tức.

– Ta thả mày ra đây! Đi thẳng, việc này chỉ được làm trong một phút.

– Cái gì vậy? – Crackit thì thầm. Cả bọn chăm chú lắng nghe.

– Không có gì cả. – Sikes vừa nói vừa thả Oliver ra. – Nào, vào việc đi.

Oliver đã quyết tâm, thậm chí nếu điều đó có khiến em thiệt mạng, là tiến về phía cầu thang và báo động. Em rón rén tiến về phía những bậc tam cấp.

– Lại đây! – Sikes bỗng đột ngột la lên. – Quay lại đây nhanh.

Tiếng la thốt lên bất thần giữa không gian im lặng như tờ và tiếp theo là tiếng thét xé tai khiến.Oliver kinh hoảng đến nỗi làm rơi cây đèn cầy. Em không biết mình nên tiến hay lùi lại nữa.

Mọi người nghe thấy tiếng kêu thứ hai. Một ánh đèn rọi sáng phía trên cầu thang, hai người đàn ông sợ hãi xuất hiện ở đầu cầu thang… Đứa trẻ thoáng thấy ánh sáng lóe lên… thấy khói… em nghe một tiếng nổ. Em lảo đảo và ngã lộn xuống.

Sikes đã biến đâu một lúc. Hắn quay lại ngay và trước khi khói tan hết, hắn đã nắm lấy cổ áo đứa trẻ. Hắn xả súng vào hai người đàn ông đã đang rút lui và mang Oliver đi.

– Hãy giữ chặt lấy ta. – Sikes vừa nói với em vừa đẩy em qua cửa sổ. – Tobie, đưa cho tao cái khăn choàng. Thằng bé trúng đạn. Nhìn xem nó chảy máu kìa.

Tiếng chuông rung mạnh hòa với tiếng súng nổ, tiếng la thét của mọi người trong nhà. Oliver cảm thấy người ta đang mang em đi. Tiếng ồn xa dần. Rồi em bất tỉnh.

Đêm hôm sau, lão già Fagin ngồi trong sào huyệt của mình cùng với các tên đàn em hiểm ác của lão: Láu Cá, Charlot Bates và Chitling. Chúng nóng lòng chờ tin của Sikes. Như mọi khi, chúng cãi nhau, đấm đá nhau, bỗng nhiên chuông cửa reo.
Láu Cá đi ra xem có ai đến vào một giờ muộn như vậy, và quay lại nói thật khẽ vào tai lão già Do Thái rằng Tobie đang ở đó.

– Một mình thôi à?

– Vâng, mỗi một mình!

– Cho nó vào, nhưng hãy để Charlot và Chitling rời khỏi nơi này đã.

Láu Cá lại quay ra, trong khi đó Charlot và Chitling đi ra bằng một cánh cửa bí mật.

Nó quay lại cùng với Tobie, nhợt nhạt, đầu tóc, áo quần rối bù.

Tobie thả mình xuống ghế dựa, để đôi chân đầy bùn lên những thanh củi của lò sưởi.

– Tôi không thể nói chuyện công việc trước khi ăn và uống. – Hắn tuyên bố.

Tobie có vẻ mệt mỏi rũ rượi. Hắn ăn ngấu nghiến phần thức ăn được đặt trước mặt, trong khi lão Do Thái nóng lòng nhìn hắn dò xét. Sau khi ăn xong, lấy lại sức, Tobie hỏi:

– Trước khi bắt đầu, Guillaume Sikes thế nào rồi?

– Cái gì? – Lão già Do Thái la lên.

– Lão không có tin gì về nó à? – Tobie nói mặt tái mét.

– Không! Chúng ở đâu! Sikes và đứa trẻ? Tại sao chúng không ở đây?

– Phi vụ bị hỏng rồi. – Tobie rụt rè nói. – họ đã bắn và thằng bé bị thương. Bọn tôi đã chạy băng.qua cánh đồng, nhảy qua những đường hào, những bờ rào, mang theo thằng Oliver. Người ta đuổi theo bạn tôi… Guillaume đã cõng thằng bé nhưng rồi buộc phải bỏ nó lại, nằm sóng soài, chết hay sống mặc, trong một cái hố, vì sự tồn tại của bọn tôi.

Người ta bám theo gót chân tụi tôi và rồi cả bọn có nguy cơ bị treo cổ…

Lão già Fagin hét lên một tiếng khủng khiếp, vò đầu bứt tai và nhảy vọt ra đường.

Lão già, dần dần lấy lại được bình tĩnh, tiến lại gần một khu phố nổi tiếng bất lương, nhan nhản những kẻ chứa hàng gian và những tên trộm cướp.

Lão vào một quán cà phê, nơi mà lão biết rằng Guillaume Sikes thích đến. Không một ai thấy hắn và Fagin mất công dò hỏi nhiều người nhưng lão không biết thêm gì mới.

Lão còn hỏi thêm có phải một người đàn ông tên là Monks sẽ đến đây tối nay không, khi mọi người khẳng định rằng hắn ta sắp đến, lão Do Thái nói rằng lão không có thời gian để đợi hắn nữa nhưng ngày mai lão sẽ vui lòng gặp hắn tại nhà lão.

Lão già Fagin bước ra và tiến về chỗ ở của Guillaume Sikes, nhưng lão chỉ tìm thấy mỗi Nancy.

Cô gái đang ngồi một mình, đầu tì trên bàn, tóc xõa tung…

Cô chỉ hơi nhúc nhích khi lão Fagin cho cô biết những tin mới nhất. Cô không biết Guillaume có thể ở đâu, còn về cậu bé, cô thích biết tin em chết còn hơn là tin em rơi vào tay lão Do Thái và bè bạn của lão.

Điều đó không lọt tai lão Fagin, lão giận đỏ mặt và tuyên bố rằng đứa trẻ có thể mang lại cho lão hàng nghìn frăng và nếu do lỗi của Sikes mà lão mất cơ hội tốt đẹp để làm giàu, thì lão Fagin này có thể báo thù một cách tàn ác và tố cáo Sikes trước tòa án, tòa đã dành cho gã một giá treo cổ ra trò từ lâu rồi.

Nancy không buồn cãi lại, cô chỉ nói đơn giản rằng Guillaume chắc cũng xoay xở tốt như Tobie và mọi người sẽ thấy gã quay về ngay thôi.

Vào khoảng một giờ sáng, đến góc phố nơi mình ở, lão Fagin lục túi lấy chìa khóa nhà, lúc đó một nhân vật bước ra từ dưới một mái hiên, băng qua đường và lẻn nhanh về phía lão trong yên lặng.

– Fagin! – Một giọng nói thì thầm vào tai lão.

– A! Anh bạn! – Lão Do Thái nói.

– Tôi đã chờ lão hai giờ rồi đấy. Quỷ thần ơi, lão ở đâu vậy?

– Ta đi lo việc của anh. – Lão Fagin vừa tiếp lời vừa nhìn đồng bọn của mình vẻ bối rối..Cả hai bước vào nhà lão Fagin. Bọn chúng thì thầm với nhau một lát. Lão Do Thái càng kể chuyện của mình, người lạ mặt tên là Monks càng tỏ vẻ giận dữ khủng khiếp. Hắn nói cao giọng:

– Ta nhắc lại với lão rằng chuyện đó đã được tiến hành thật trái khoáy. Tại sao không giữ đứa trẻ đó ở đây cùng những đứa khác? Tại sao không biến nó thành một kẻ cắp ngay?

– Ta thấy, – lão Do Thái đáp, – rằng không dễ bắt nó vào việc đâu. Chuyến đi đầu tiên với Láu Cá và Charlot suýt nữa nguy hại đến chúng ta.

– Tuy nhiên các ông phải thành công. – Monks nói tiếp.

– Anh muốn nó trở thành một thằng ăn cắp. -Lã o Do Thái đáp. – Nếu nó sống, ta có thể hứa với anh rằng sẽ rèn nó… và nếu nó chết…

– Đó sẽ không phải là lỗi của tôi. – Monks vừa nói với vẻ sợ hãi vừa run rẩy xiết chặt cánh tay lão Fagin. – Tôi chẳng dính dáng gì vào đó. Tất cả, trừ cái chết, tôi đã nói trước rồi. Tôi không muốn đổ máu. Cuối cùng chúng ta bị phát hiện. Đó không phải là lỗi của tôi. Cái gì vậy?

– Gì cơ? – Lão Do Thái hỏi.

– ở đằng kia! – Tên kia vừa đáp vừa chỉ bức tường trước mặt. – Tôi thấy bóng của một phụ nữ. Chúng lao vội ra khỏi phòng. Cây đèn cho phép chúng nhìn thấy chiếc cầu thang trống không.

– Anh mơ rồi. – Lão Do Thái quay về phía tên kia nói.

– Tôi thề mà. – Monks nói.

Lão Fagin khinh bỉ nhìn bộ mặt tái mét của Monks. Chúng nhìn vào tất cả các phòng. Tất cả đều lạnh lẽo, trơ trọi và trống không. Chúng lại đi xuống phòng ngoài và từ đó, đến hầm rượu. Rêu xanh bám đầy phía tường thấp, những vệt ốc sên bò sáng lên nhấp nhoáng dưới ánh đèn mờ, nhưng ở khắp mọi nơi chỉ có sự im lặng như tờ.

– Nào bây giờ anh nghĩ gì? – Lão Do Thái nói khi cả hai quay lại phòng ngoài. – Ngoài chúng ta, trong nhà chỉ có vài thằng nhóc và chúng nó thì yên tâm đi. Tôi đã nhốt chúng vào để chúng ta có thể nói chuyện thoải mái.

Và lão rút hai chìa khóa ở túi ra.

– Lão có lý đấy, tất cả chỉ có thể là kết quả của trí tưởng tượng ở tôi mà thôi. – Monks nói.

Cuối cùng thì hắn cũng yên tâm và cười về sự sợ hãi của mình. Chúng chia tay nhau vào khoảng hai giờ sáng..


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.