Phân Tâm Học Nhập Môn

Chương 2 – Phần 11



Nhưng một trạng thái giống như thế cũng nêu lên một vấn đề quan trọng hơn nhiều. Các bạn sẽ nói đúng là dù lòng mong muốn này có thực chăng nữa và được khẳng định bằng kỷ niệm gợi lên chăng nữa thì đó cũng không thể là một cách giải thích. Lòng mong muốn này biến mất từ lâu, chỉ còn ở trong vô thức như một kỷ niệm tầm thường chẳng có gì quan trọng, chẳng có kích thích được ai. Thực tế chẳng có gì chứng tỏ rằng sự kích thích này có đủ quyền lực mạnh mẽ. Thế tại sao lòng mong muốn này lại xuất hiện trong giấc mơ? Vấn đề đặt ra rất đúng. Việc trả lời câu hỏi này sẽ đưa ta đi rất xa, bắt buộc chúng ta phải có một thái độ nhất định đối với nhiều điểm quan trọng trong thuyết về giấc mơ. Trong lúc này chúng ta nên tự giới hạn trong khung cảnh bài học này thôi, chúng ta đã chứng minh được rằng lòng ham muốn bị kìm hãm đóng vai trò của sự kích động trong giấc mơ và tiếp tục khảo sát để xem có phải những lòng ham muốn xấu xa khác cũng bất nguồn ở dĩ vãng của đương sự hay không?

Điểm cần để ý nhất là người nằm mơ thường ích kỷ nên lòng ham muốn luôn luôn gạt bỏ mọi trở lực trên đường phát triển, và chính lòng ham muốn này đã là nguyên nhân phát sinh ra giấc mơ. Mỗi khi có kẻ nào ngăn trở ta trên con đường ta đi, giấc mơ luôn luôn tìm cách tiêu hủy kẻ đó dù kẻ đó là cha, mẹ, anh em, chồng vợ, v.v… Sự độc ác này của loài người thường làm cho ta nằm mơ và ta không sẵn sàng chấp nhận những kết quả tìm ra rằng những sự ham muốn đó bắt nguồn trong dĩ vãng, chúng ta sẽ tìm thấy ngay thời gian của sự việc đó đối với chúng ta sẽ không còn làm chúng ta ngạc nhiên nữa. Chính trong những năm đầu tiên của cuộc đời mà đứa bé chỉ yêu có mình nó thôi, mãi sau này nó mới biết yêu người khác và hy sinh một phần nào cái tôi của nó. Nếu đứa bé có yêu một người nào ngay trong những năm đầu tiên đó chỉ là vì nó cần đến người đó, nghĩa là vì mục đích ích kỷ. Trong thực tế, chính lòng ích kỷ đã dạy cho nó biết yêu mến.

Chúng ta chỉ cần so sánh thái độ của đứa bé đối với anh chị em và đối với cha mẹ là thấy ngay. Đứa bé thường không yêu anh em hay chị em, cho anh chị em là người cạnh tranh với mình, thái độ này kéo dài nhiều năm sau có khi ngoài cả tuổi dậy thì nữa. Thỉnh thoảng nó cũng tỏ ra âu yếm anh em, chị em nhưng thường thì lòng thù địch bao giờ cũng vẫn đi trước. Ví dụ như thái độ của những đứa bé chừng hai tuổi rưỡi đến năm tuổi khi có em mới chào đời, thái độ đối với em thường là không thân thiện. Luôn luôn chúng nói: “Con không muốn có em, cho chim đem nó đi.” Sau đó nó dùng đủ mọi cách để làm giảm giá trị của em, kể cả những cách ác độc. Nếu giữa hai đứa bé không xa nhau lắm về tuổi, khi đời sống tinh thần dồi dào hơn, đứa bé thường sẵn sàng ghét em hơn. Nhưng khi hơn nhau khá nhiều tuổi thì đứa bé có thể có cảm tình với em một phần nào, không phải vì yêu em mà vì em nó có cái gì hay hay, coi em như một con búp bê song; khi cách nhau tám tuổi hay hơn thì đứa bé, nhất là bé gái, thường coi em như con. Nhưng nói thực, một khi trong giấc mơ người ta mong muốn cho anh em hay chị em chết đi, lòng mong muốn này thường bắt nguồn trong thời thơ ấu, có khi trong một thời kỳ chậm hơn trong cuộc sống chúng.

Giữa trẻ con với nhau ít khi không có sự va chạm mạnh mẽ, lý do là đứa nào cũng muốn chiếm độc quyền tình yêu của bố mẹ, chiếm giữ các đồ chơi và một chỗ ngồi. Những tình cảm thù nghịch này xảy ra đối với những đứa lớn cũng như đứa bé. Chính B. Shaw cũng nói: nếu có một người nào mà một người đàn bà Anh ghét hơn ghét mẹ thì đó chính là người chị cả. Sự nhận xét này làm chúng ta ngỡ ngàng. Chị em ghét nhau là một chuyện còn chấp nhận được, tại sao mẹ con lại có thể ghét nhau được.

Cố nhiên là đứa bé bao giờ cũng có cảm tình với cha mẹ hơn là đối với anh chị em: việc cha mẹ con cái không yêu nhau trái với quy luật tự nhiên là sự thù ghét giữa anh chị em. Nhưng trong thực tế người ta thường thấy tình yêu giữa cha mẹ và con cái thường không đạt tới mức lý tưởng mà xã hội đòi hỏi, và nếu không bị kìm hãm bởi lòng hiếu thảo thì sự thù ghét đó có thể xuất hiện được. Lý do của sự thù ghét này ai cũng biết: đó là cái động lực thường làm cho những người cùng giống xa nhau, ví dụ như con gái xa mẹ, và con trai xa cha. Con gái thường cho mẹ làm nhụt chí của mình và đại diện xã hội để kìm hãm bản năng tình dục của mình. Nhiều khi giữa hai mẹ con có cả một sự thù ghét cạnh tranh. Giữa cha và con trai sự giao thiệp còn căng thẳng hơn nữa. Con trai thường coi bố như tượng trưng cho những sự bó buộc của xã hội mà nó chịu không nổi. Người cha thường làm nhụt ý chí của người con, ngăn trở không cho nó thỏa mãn tình dục hay hưởng thụ của cải. Ví dụ như người con muốn nối ngôi của cha thường mong cho cha chết càng sớm càng hay. Trái lại sự giao thiệp giữa cha và con gái hay giữa mẹ và con trai thân thiện hơn nhiều. Nhất là giữa mẹ và con trai thì lòng yêu tinh khiết hơn, bớt ích kỷ hơn.

Chắc các bạn tự hỏi tại sao tôi lại nói với các bạn những điều tầm thường ai cũng biết đó nhỉ? Bởi vì luôn luôn người ta không chấp nhận điều đó và cho rằng lý tưởng xã hội luôn luôn được tôn trọng. Nhà tâm lý học cũng như những kẻ sống sượng đều nói sự thực cả, nhưng người ta thích để cho những nhà tâm lý học nói hơn. Người ta cứ muốn cho rằng lý tưởng xã hội đạt được trong đời sống thực hàng ngày, nhưng các nhà thi văn hay kịch sĩ lại được tự do nói đến sự vi phạm của xã hội đối với lý tưởng đó.

Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trong giấc mơ người ta thường tỏ ý muốn tiêu diệt cha mẹ, nhất là người cùng phái với mình. Lòng ham muốn này cũng có thực trong khi ta thức, có khi trở thành cố ý khi có thể được che giấu dưới những danh từ hay nguyên cớ hợp lý hơn ví dụ như trường hợp của giấc mơ 3, trong đó lòng ham muốn cho cha chết đi được giải thích hợp lý là nếu người cha còn sống chăng nữa thì cũng chỉ kéo dài thời gian đau đớn vô ích mà thôi.

Nhưng ít khi chỉ có lòng thù ghét không thôi, nhiều khi lòng thù ghét này nấp sau tình cảm âu yếm hơn và dồn ép thù ghét vào trong vô thức phải chờ giấc mơ mới xuất hiện, được phát triển đến một mức độ quá đáng rồi lại cả trong trường hợp không có lý do gì cả trong đời sống thực, và người nằm mơ không bao giờ chịu công nhận, chúng ta vẫn thấy lòng mong đợi cho người thân chết đi xuất hiện. Ta có thể giải thích điều này bằng cách nói rằng, lòng mong đợi đó đã bắt rễ ngay từ những năm đầu tiên của cuộc sống trong thời thơ ấu và bây giờ mới xuất hiện ra ánh sáng, nhất là đối với những người cùng phái.

Nguyên do vẫn nằm trong sự cạnh tranh về đời sống tình dục. Ngay từ khi còn nhỏ, đối với mẹ đứa bé đã có một lòng yêu đặc biệt: cho rằng mẹ mình là của riêng mình và người cha thường bị coi như một người cạnh tranh, luôn luôn xâm phạm đến của riêng của nó: đối với đứa con gái cũng thế, coi mẹ như một người tranh giành tình yêu của nó đối với người cha. Sự quan sát sẽ cho chúng ta biết rõ vào tuổi nào đứa bé sẽ có cái mặc cảm mà ta gọi là mặc cảm Oedipe, bởi vì trong con người Oedipe có hai sự ham muốn giằng co; muốn giết cha và lấy mẹ. Tôi không khẳng định rằng mặc cảm Oedipe có thể cắt nghĩa được hết thái độ giữa cha mẹ và con cái vì sự thực thái độ này phức tạp hơn nhiều. Vả lại ngay mặc cảm Oedipe cũng có mức độ khác nhau, có thể bị thay đổi, nhưng dù sao mặc cảm này cũng là một yếu tố rất quan trọng, luôn luôn có mặt trong đời sống tinh thần của trẻ con, chúng ta thường không gán cho nó một giá trị đúng mức hơn là gán cho nó một ảnh hưởng và những hậu quả quá đáng. Nếu đứa bé phản ứng lại mặc cảm Oedipe thì chính do cha mẹ gây ra bởi vì do sự khác giống mà ra, một khi tình vợ chồng bị suy giảm thì người cha bao giờ cũng yêu con gái hơn và người mẹ bao giờ cũng yêu con trai hơn và trái lại cũng thế.

Loài người không hề biết ơn môn phân tâm học khi môn này tìm ra được mặc cảm Oedie. Mặc cảm này đã gặp sự chống đối rất dữ dội của xã hội, mọi người nhao nhao cho rằng mặc cảm đó không có thực. Tôi vẫn giữ nguyên lập trường cho rằng chẳng có gì đáng phủ nhận và phản đối cả. Mình phải tập cho quen dần với mặc cảm đó vì ngay chính người Hy Lạp cũng công nhận rằng đó là điều không thể tránh được. Điều thú vị là nếu xã hội kết tội mặc cảm Oedipe thì xã hội lại để cho các nhà thi văn mặc tình khai thác nó. O. Rank đã chứng minh là mặc cảm này đã hiến cho văn chương kịch nghệ những đề tài thực cao đẹp, tuy nó bị thay đổi gói ghém dưới hình thức này hay hình thức khác, giống như những sự biến dạng mà sự kiểm duyệt đã thi hành đối với giấc mơ. Mặc cảm này có cả trong những người nằm mơ không có cơ hội gì để chống đối với cha mẹ, mặc cảm này liên can chặt chẽ đến một mặc cảm khác mà chúng ta gọi là mặc cảm bị thiến, một phản ứng đối với những sự bó buộc mà người cha thường đưa ra để ngăn cản sự phát triển đời sống tình dục của con trai.

Khảo sát về đời sống tinh thần trẻ con, chúng ta có thể dùng lý luận tương tự để giải thích nguồn gốc của những sự ham muốn bị cấm chỉ khác thường xuất hiện trong giấc mơ: đó là những khuynh hướng quá đáng về tình dục và chúng ta tìm ra những sự kiện sau đây: người ta lầm lớn khi cho rằng trẻ con không có đời sống tình dục và đời sống này chỉ phát hiện sau khi đến tuổi dậy thì, khi cơ quan sinh dục phát triển hoàn toàn. Trái lại, đứa trẻ có một đời sống tình dục rất dồi dào khác đời sống tình dục về sau trên nhiều phương diện. Điều ta gọi là trụy lạc trong đời sống người lớn khác với tình trạng bình thường ở chỗ: vượt qua giới hạn của sự khác biệt giữa người và vật, giới hạn của sự kinh tởm, sự loạn luân, sự đồng tính luyến ái, sự dùng các cơ quan khác trong người thay thế vào cơ quan tình dục để thỏa mãn dục tình. Những giới hạn đó không có ngay từ đầu nhưng được phát triển mạnh sau đó theo đà tiến triển của nhân loại. Đứa trẻ chưa biết đến những giới hạn đó, không biết rằng giữa người và vật có cả một vực thẳm không vượt qua được, chỉ mãi sau này nó mới biết người ta tự hào khi khác với giống vật. Lúc đầu nó chẳng thấy kinh tởm gì phân của nó, mãi sau này nhờ giáo dục nó mới thấy kinh tởm. Lúc đầu nó cho những cơ quan sinh dục chẳng có gì khác nhau cả. Những ham muốn tình dục của nó xuất hiện đối với những người gần nó nhất: cha, mẹ, anh chị em, những người săn sóc nó. Trong đứa trẻ thấy xuất hiện một điều mà mãi sau này người lớn thường làm khi tình dục lên đến tột độ: đó là việc đứa trẻ tìm cách thỏa mãn tình dục không phải bằng cơ quan sinh dục mà bằng những chỗ khác trong thân thể cũng có tác dụng làm cho nó có cảm giác giống như cơ quan sinh dục.

Vậy ngay trong đứa bé, chúng ta thấy có một sự trụy lạc dưới nhiều hình thức, nếu những khuynh hướng này chỉ xuất hiện một cách rụt rè đó là vì chúng chưa đạt đến một cường độ mạnh như về sau khi nhiều tuổi hơn, và cũng là vì càng về sau, những khuynh hướng này càng bị giáo dục kìm hãm, dồn ép không cho xuất hiện. Sự kìm hãm này từ địa hạt thực tế qua địa hạt lý thuyết, người lớn nhắm mắt làm ngơ trước sự phát hiện tình dục của đứa bé rồi tìm cách bóp nghẹt phương diện khác của sự phát triển khuynh hướng tình dục: sau đó phủ nhận hết mọi sự là điều tiện nhất. Chính những kẻ phủ nhận này lại là những người tìm hết mọi cách để kìm hãm bản năng tình dục của đứa trẻ nhưng lại vẫn cho rằng đứa trẻ không có đời sống tình dục trụy lạc như thế. Mỗi khi trẻ được thả lỏng, hay bị ảnh hưởng gì xấu xa là lập tức nó có những cử chỉ về tình dục. Nhiều người cho rằng những sự đó cũng chẳng có hại gì và đứa bé chẳng chịu trách nhiệm gì trước tòa án tập quán xã hội và luật pháp. Tuy nhiên, những sự đó vẫn có thực, có tầm quan trọng riêng biệt, như những triệu chứng của đời sống, báo hiệu về đời sống tình dục về sau, cho ta biết nhiều điều về đời sống tình dục của trẻ con và luôn cả nhân loại nói chung. Vì vậy nếu chúng ta tìm thấy những sự ham muốn trụy lạc đó trong các giấc mơ bị biến dạng của chúng ta chính là vì giấc mơ đã đưa chúng ta lùi lại về thời thơ ấu.

Trong những ham muốn bị cấm chỉ này, chúng ta phải đặc biệt chú ý đến những sự loạn luân. Ai cũng biết thái độ của xã hội đối với sự loạn luân như thế nào rồi và xã hội đã làm gì để kìm hãm nó. Người ta đã tìm đủ mọi lý do cắt nghĩa sự chống đối sự loạn luân. Có người cho rằng sự cấm chỉ loạn luân chỉ là hình dung của sự lựa chọn của thiên nhiên, vì sự giao cấu giữa những người cùng máu mủ luôn luôn đưa đến sự suy giảm những đặc tính của xã hội. Có người cho rằng chính vì sống quá gần nhau mà người cùng máu mủ không hề nghĩ đến sự giao cấu với nhau ngay từ khi còn nhỏ. Nhưng trong cả hai trường hợp, sự loạn luân đều bị tự động gạt bỏ ra ngoài lề xã hội mà không cần phải cấm đoán nghiêm khắc gì cả. Chính những sự cấm đoán này mới chứng tỏ sự có mặt của sự loạn luân, công cuộc khảo sát của môn phân tâm học đã chứng tỏ rằng, tình ái loạn luân chính là hành vi đầu tiên của tình ái và chỉ sau này nó mới gặp sức chống đối gây nên bởi tâm lý người đời.

Bây giờ ta hãy kiểm điểm lại những dữ kiện do sự khảo sát tâm lý trẻ con cung cấp có thể giúp chúng ta tìm hiểu giấc mơ. Không những chúng ta thấy rằng những vật liệu trong đời sống trẻ con đã bị quên lãng lại xuất hiện trong giấc mơ, chúng ta còn thấy đời sống tinh thần của đứa bé với mọi đặc điểm như sự ích kỷ, những khuynh hướng loạn luân, v.v… đều sống mãi trong vô thức để xuất hiện trong giấc mơ, và giấc mơ đã đưa chúng ta quay lại thời thơ ấu. Do đó chúng ta khẳng định rằng cái vô thức trong đời sống tinh thần không gì khác hơn là giai đoạn ấu thơ của đời sống này. Nhận xét này sẽ giảm bớt cảm giác ngỡ ngàng của mọi người khi thấy sao loài người lại có thể xấu xa đến như thế. Những điểm xấu xa này chỉ là những yếu tố đầu tiên, sơ khởi, trẻ con của đời sống tinh thần, những yếu tố thường thấy trong hoạt động của đứa bé nhưng không được để ý đến vì chúng quá nhỏ, hay vì chúng ta cho là không quan trọng nên không để ý đến. Lùi lại đằng sau như thế, giấc mơ vạch cho chúng ta xem những điều xấu xa trong bản tính chúng ta. Nhưng thực ra điều này không đúng hẳn, chúng ta không đến nỗi xấu xa như những điều do sự giải thích giấc mơ đưa ra.

Chính vì những khuynh hướng trong giấc mơ chỉ là những cái gì còn sót lại của thời thơ ấu, chính vì giấc mơ đã biến chúng ta thành những đứa bé con về phương diện tinh thần và tình cảm nên chúng ta chẳng có lý do gì xấu hổ về những điều giải thích trong giấc mơ. Nhưng sự hợp lý không phải là tất cả đời sống tinh thần của chúng ta, sự không hợp lý cũng chiếm giữ một phần trong đó nên chúng ta thường xấu hổ mà không có lý do gì cả. Vì thế nên chúng ta mới kiểm duyệt giấc mơ và xấu hổ, khó chịu khi thấy những sự ham muốn bị cấm chỉ lọt vào ý thức của chúng ta, trong một vài trường hợp chúng ta còn xấu hổ cả đối với những giấc mơ bị biến dạng làm như chúng ta hiểu chúng lắm. Các bạn hãy nhớ lại cái bà lúc trước nằm mơ thấy mình đề nghị cung cấp ái tình. Vì vậy vấn đề không thể được coi là đã giải quyết, cũng có thể là nếu cứ tiếp tục khảo sát giấc mơ, biết đâu chúng ta lại chẳng tìm ra một đường lối để phán xét bản tính của con người.

Đến giai đoạn cuối của cuộc khảo sát, chúng ta đứng trước hai dữ kiện khởi đầu cho hai điều bí ẩn, nghi ngờ khác. Điều thứ nhất: sự thụt lùi do sự xây dựng giấc mơ gây ra không chỉ có tính chất hình thức mà còn có tính chất nội dung nữa. Sự thụt lùi này không những diễn tả những ý tưởng của chúng ta một cách sơ khai mà còn thức dậy những đặc tính của đời sống tinh thần cổ lỗ, sự nổi bật cũ kỹ của cái tôi, những khuynh hướng cổ sơ của đời sống tình dục, những căn bản cũ kỹ của trí thức nếu quả thực chúng ta gán cho những sự việc kể trên cái tên ký hiệu tượng trưng. Điều thứ hai: tất cả những cái gì có tính cách trẻ con đó ngày xưa quan trọng, nhưng ngày nay lùi vào vô thức. Cái gì chỉ tiềm tàng nhất thời không còn là vô thức nữa: vô thức họp thành một phạm vi tinh thần đặc biệt, có những khuynh hướng riêng biệt, cách diễn tả đặc biệt, và những sự hoạt động về tinh thần riêng cho phạm vi này thôi. Nhưng những ý tưởng tiềm tàng do sự giải thích giấc mơ tìm ra không thuộc phạm vi này: ngay trong khi thức chúng ta cũng có thể có những ý tưởng tiềm tàng đó. Vậy mà những ý tưởng đó đều vô thức cả. Làm sao giải quyết được sự mâu thuẫn đó? Có lẽ chúng ta cần phân biệt: một cái gì đó thoát ra từ ý thức của chúng ta – ta có thể gọi là dấu vết của những biến cố trong ngày – chia đôi những đặc tính ra, liên kết với một cái gì thuộc phạm vi vô thức, rồi giấc mơ thoát ra từ sự liên kết đó. Công việc xây dựng trong giấc mơ diễn biến giữa hai loại ý tưởng đó. Ảnh hưởng của vô thức đối với dấu vết của những biến cố trong ngày cung cấp điều kiện của sự thụt lùi. Đó là điều đầy đủ nhất mà chúng ta thu lượm được về tính chất của giấc mơ trong khi chờ đợi thám hiểm được những phạm vi tinh thần khác. Nhưng đã đến lúc chúng ta phải gán cho tính chất vô thức của những ý tưởng tiềm tàng trong giấc mơ một cái tên khác để phân biệt với những yếu tố vô thức trong phạm vi tính chất ấu trĩ của giấc mơ.

Tất nhiên chúng ta có thể đặt câu hỏi sau đây: cái gì đã làm cho tinh thần thụt lùi như thế trong giấc mơ? Tại sao tinh thần lại không hủy bỏ được những sự kích động gây rối trong giấc ngủ mà không cần đến sự thụt lùi này? Và nếu tinh thần này vì sự kiểm duyệt phải thay đổi bộ mặt của các sự hình dung trong giấc mơ bằng cách quay về dĩ vãng thì việc gì nó phải làm sống lại những khuynh hướng tinh thần, những sự ham muốn, những đặc tính lỗi thời, nghĩa là thêm vào tính cách hình thức của sự thụt lùi một tính cách nội dung nữa. Câu trả lời duy nhất thỏa đáng đó là phương tiện duy nhất để hợp thành một giấc mơ, và về phương diện tác động thì không thể quan niệm khác hơn về sự hủy diệt những sự kích động gây rối trong giấc mơ. Nhưng trong tình trạng hiểu biết hiện thời của chúng ta, chúng ta chưa có quyền trả lời như thế.

Sự thực của ham muốn

Không biết tôi có phải nhắc lại cho các bạn biết về con đường mà chúng ta đã đi qua không? Không biết tôi có cần nhắc lại là vì sự áp dụng kỹ thuật của chúng ta đã đặt chúng ta trước sự biến dạng của giấc mơ mà chúng ta đã có ý định tạm gác sự biến dạng sang một bên để tìm trong những giấc mơ trẻ con những dữ kiện có tính quyết định về tính chất giấc mơ không? Tôi có cần phải nhắc lại là sau khi đạt được những kết quả này chúng ta đã tấn công sự biến dạng trong giấc mơ và loại dần từng khó khăn một đi không? Bây giờ thì chúng ta bị bắt buộc phải công nhận rằng những kết quả đạt được theo con đường thứ nhất không phù hợp với những kết quả trong con đường thứ hai. Do đó chúng ta phải kiểm điểm lại hai loại kết quả này cho phù hợp với nhau.

Trong cả hai trường hợp chúng ta đều biết rằng công việc xây dựng giấc mơ chính là một sự biến đổi những ý tưởng thành những biến cố ảo giác. Sự biến đổi đó là cả một điều bí mật, nhưng đó là một vấn đề thuộc phạm vi tâm lý học tổng quát không liên can gì đến chúng ta. Nhưng giấc mơ trẻ con đã cho thấy là công việc xây dựng giấc mơ có mục đích dùng sự thực hiện một ham muốn để huỷ diệt một sự kích động gây rối trong giấc mơ. Chúng ta không thể nói như thế đối với sự biến dạng của giấc mơ trước khi có thể giải thích được sự biến dạng đó. Nhưng ngay từ lúc đầu chúng ta đã chờ đợi để có thể đem những giấc mơ bị biến dạng về cùng một phương diện với những giấc mơ trẻ con. Kết quả thứ nhất của sự chờ đợi đó là chúng ta đã tìm ra rằng mọi giấc mơ đều là những giấc mơ trẻ con, hoạt động với những vật liệu trẻ con, những khuynh hướng và diễn biến trẻ con. Vì vấn đề biến dạng của giấc mơ được coi là đã giải quyết xong, chúng ta cần xét đến vấn đề xem sự thực hiện những ham muốn có thể áp dụng được cho những giấc mơ bị biến dạng hay không?Trong phần trên chúng ta đã đem nhiều giấc mơ ra giải thích nhưng không để ý đến sự thực hiện các điều ham muốn. Tôi tin rằng hơn một lần các bạn đã tự hỏi: “Sự thực hiện các điều ham muốn đi đến đâu rồi, khi giáo sư cho rằng đó chính là mục đích của việc xây dựng?”. Câu hỏi đó có nhiều ý nghĩa: đó là câu hỏi của tất cả mọi người dù không chuyên môn. Nhân loại thường ghê sợ những sự mới mẻ trong bình diện tri thức, cho nên sự mới mẻ nào cũng bị thu hẹp lại thành một cuốn phim rất nhỏ.

Trong lý thuyết về giấc mơ, sự thực hiện các điều ham muốn chính là cái phim thu nhỏ đó. Vừa nghe nói giấc mơ là sự thực hiện các điều ham muốn, người ta đã vội vã hỏi ngay xem sự thực hiện đó ở chỗ nào? Và cả ngay khi vừa mới đặt vấn đề xong người ta đã trả lời bằng một lời phủ nhận. Sực nhớ lại những kinh nghiệm của chính mình trong đó người ta gặp bao nhiêu sự khó chịu lo âu vì những giấc mơ, người ta tuyên bố ngay rằng thuyết của phân tâm học về giấc mơ không đúng sự thực. Chúng ta trả lời dễ dàng rằng trong những giấc mơ bị biến dạng, sự thực hiện những điều ham muốn thường không rõ ràng, cần phải tìm ra cho nên không thể chứng minh được trước khi đem ra giải thích giấc mơ. Chúng ta cũng biết rằng những điều ham muốn trong những giấc mơ thường là những sự ham muốn bị cấm đoán, bị kiểm duyệt dồn ép, chính là nguyên nhân của sự biến dạng, lý do cho sự can thiệp của kiểm duyệt. Nhưng khó làm cho những người không chuyên môn hiểu được là trước khi giải thích giấc mơ người ta không thể đi tìm sự thực hiện các điều ham muốn được. Họ sẽ luôn luôn quên điều đó. Thái độ của họ đối với vấn đề thực hiện các điều ham muốn thực ra chỉ là kết quả của sự kiểm duyệt trong giấc mơ. Thái độ đó thay thế cho những sự ham muốn bị kiểm duyệt và là hậu quả của sự phủ nhận sự có mặt của những điều ham muốn này.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.