Phân Tâm Học Nhập Môn

Chương 2 – Phần 8



Trước hết chúng ta có sự kiện là người nằm mơ có một lối diễn tả tượng trưng mà anh ta không biết đến và cũng không công nhận khi thức dậy. Điều này không làm chúng ta ngạc nhiên cũng như khi ta nói rằng chị hầu gái của chúng ta biết chữ Phạn dù chị ta sinh ở Đức và chưa bao giờ học chữ Phạn cả. Chúng ta không thể dùng quan niệm của chúng ta về tâm lý học để biết rõ điều đó. Chúng ta chỉ có thể nói rằng nếu người nằm mơ có biết đến những sự tượng trưng này thì chính là vô thức, sự biết này thuộc vào đời sống tinh thần vô thức. Điều giải thích này không đi xa được. Cho tới nay chúng ta chỉ cần công nhận là có những khuynh hướng vô thức nghĩa là khuynh hướng mà chúng ta không biết đến trong thời gian ngắn ngủi nào đó thôi. Nhưng bây giờ còn có gì hơn nữa: đó là những điều hiểu biết bằng vô thức, những liên quan vô thức giữa các ý tưởng, những sự so sánh vô thức giữa các vật, trong đó một trong các vật sẽ thay thế cho những vật khác một cách thường trực. Những sự so sánh này không phát sinh ra chỉ để dùng một lần cho một trường hợp nào đó, nhưng để dùng mãi mãi trong mọi trường hợp, và bao giờ cũng sẵn sàng xuất hiện. Chúng ta đã có bằng cớ về điểm này vì nhìn thấy chúng trong những người khác nhau hoàn toàn, nói hai thứ tiếng khác nhau.

Những điều biết tượng trưng này từ đâu ra? Tiếng nói thường ngày chỉ cung cấp có một phần nhỏ thôi. Những sự giống nhau trong các phạm vi khác, nhiều khi người nằm mơ không hề biết đến và nếu chúng ta có tập trung được vài ví dụ thì cũng khó nhọc lắm.

Thứ hai, những liên quan tượng trưng này không thuộc riêng về người nằm mơ và không biểu thị riêng cho công việc tiến hành trong giấc mơ. Chúng ta biết là những thần thoại, những chuyện cổ tích, những câu ca dao tục ngữ, những bài dân ca, tiếng nói hàng ngày và những nhà thi sĩ đều dùng sự tượng trưng đó. Phạm vi của sự tượng trưng rộng lớn vô cùng, sự tượng trưng trong giấc mơ chỉ là một khoảng nhỏ trong phạm vi đó. Chúng ta không nên khảo cứu toàn thể vấn đề bằng cách đi từ những giấc mơ. Nhiều ký hiệu tượng trưng dùng ở nơi khác, không xuất hiện trong giấc mơ hay chỉ xuất hiện rất ít; người ta cũng không luôn luôn tìm thấy ở ngoài đời những ký hiệu thường xuất hiện trong giấc mơ hay nếu có thì cũng chỉ lẻ tẻ thôi. Người ta có cảm tưởng đang đứng trước một lối diễn tả cũ kỹ nhưng đã mất đi rồi trừ một vài trường hợp còn sót lại, rải rác khắp nơi, chỗ này một ít chỗ kia một chút thay đổi trong rất nhiều phạm vi. Tôi nhớ đến một anh chàng điên khùng đã tượng trưng ra một tiếng nói căn bản trong đó những liên quan tượng trưng chỉ là những cái gì còn sót lại trong tiếng nói đó.

Thứ ba, các bạn chắc ngạc nhiên khi thấy trong các phạm vi khác những liên quan tượng trưng này không hoàn toàn thuộc về tình dục, trong khi giấc mơ thì lại hoàn toàn thuộc về tình dục thôi. Điều này cũng chẳng dễ cắt nghĩa gì. Có phải là những ký hiệu tượng trưng cổ xưa đã được áp dụng vào những trường hợp mới không, có phải những sự áp dụng mới này dần dần đã đưa những ký hiệu này đến độ mất hết ý nghĩa tượng trưng không? Tất nhiên là chúng ta không thể trả lời các câu hỏi đó khi cứ đi mãi trong phạm vi giấc mơ. Chúng ta chỉ nên nói rằng giữa những sự tượng trưng đó và đời sống tình dục có những dây liên lạc chặt chẽ.

Gần đây chúng ta nhận được một bài rất quan trọng về vấn đề này. Một nhà ngôn ngữ học, ông M H. Sperber tuy không khảo cứu về phân tâm học đã cho rằng những nhu cầu tình dục giữ một vai trò quan trọng trong việc phát sinh và phát triển ngôn ngữ. Những âm thanh đầu tiên được phát ra được dùng để gọi những người khác giới trong công việc tình dục; rồi sự phát triển sau đó của ngôn ngữ đi cùng với sự tổ chức công việc trong thời cổ xưa. Công việc được tiến hành chung nhịp nhàng theo những câu hò khoan. Sự quan tâm về tình dục đã di chuyển đến sự quan tâm về công việc. Người ta có thể cho rằng người thời cổ xưa chỉ bằng lòng chấp nhận công việc như một cái gì đến thay thế cho tình dục và cũng quan trọng như tình dục vậy. Vì thế nên những câu hò khoan đi theo sự làm việc có hai nghĩa. một nghĩa dính dáng đến công việc, một nghĩa dính dáng đến tình dục và phụ thuộc hẳn vào công việc. Những thế hệ sau, sau khi phát minh ra một tiếng có ý nghĩa tình dục, đã dùng tiếng đó trong một loại công việc mới. Nhiều tiếng gốc sau đó đã được thành lập, tiếng nào cũng bắt đầu có ý nghĩa là tình dục nhưng về sau bỏ mất ý nghĩa tình dục. Nếu những điều vừa phác họa được coi là đúng thì chúng ta sẽ có thể hiểu được tính chất tượng trưng trong giấc mơ, hiểu rõ tại sao giấc mơ trong khi giữ lại được một cái gì trong những điều kiện cũ kỹ đó, lại có nhiều ký hiệu liên quan đến tình dục như thế, tại sao những binh khí và dụng cụ lại dùng để tượng trưng cho đàn ông, những vải và đồ vật dụng lại tượng trưng cho đàn bà. Liên quan tượng trưng hình như cái gì còn sót lại của sự đồng hóa các tiếng trong thời cổ, những đồ vật ngày xưa có cùng một tên với những đồ vật có dính dáng đến hình cầu và đời sống tình dục bây giờ xuất hiện trong giấc mơ dưới danh nghĩa là ký hiệu tượng trưng cho hình cầu và đời sống này.

Những sự việc này được gợi ra khi nói đến các giấc mơ sẽ giúp cho chúng ta thấy rằng môn phân tâm học chính là một môn học có tính chất tổng quát chứ không phải như Tâm lý học và tâm thần học. Môn phân tâm học có liên quan đến nhiều khoa học tinh thần khác như thần thoại học, ngôn ngữ học, nhân chủng học, tâm lý quần chúng học, khoa học tôn giáo. Những công trình khảo cứu của những khoa học này cũng giúp chúng ta nhiều dữ kiện quý báu. Cho nên chúng ta sẽ không được ngạc nhiên khi thấy phong trào phân tâm học đã đưa đến sự xuất bản một tờ tạp chí dành riêng cho vấn đề khảo sát các liên quan giữa các môn học này với môn phân tâm học. Đó là tờ tạp chí Imago thành lập năm 1912 do Hans Sachs và Otto Rank. Trong sự liên lạc với các khoa học khác, môn phân tâm học cho nhiều hơn nhận. Tất nhiên những kết quả đó có vẻ kỳ khôi mà môn phân tâm học thu lượm được sẽ dễ dàng chấp nhận hơn một khi các công trình khảo cứu trong các khoa học chấp nhận. Nhưng chính môn phân tâm học đã cung cấp phương pháp kỹ thuật và các quan điểm áp dụng được trong các khoa học khác. Công trình khảo cứu của phân tâm học đã tìm ra trong đời sống tinh thần những sự kiện giúp cho chúng ta giải quyết hay đưa ra ánh sáng hơn một điều bí ẩn của đời sống công cộng.

Nhưng tôi chưa nói cho các bạn nghe trong trường hợp nào chúng ta có thể có được một tầm nhìn sâu xa nhất về vấn đề người ta gọi là “Tiếng nói căn bản” và phạm vi nào đã giữ lại được nhiều điều truyền lại từ ngày xưa nhất. Chưa biết các điều đó, các bạn không thể hiểu được hết tầm quan trọng của vấn đề. Phạm vi đó là phạm vi của các chứng loạn thần kinh với những triệu chứng và cách phát hiện mà môn phân tâm học có nhiệm vụ giải thích và chữa chạy.

Phương diện thứ tư của vấn đề đưa chúng ta quay lại điểm khởi đầu và hướng chúng ta theo chiều hướng đã vạch sẵn. Chúng ta đã nói rằng dù không có sự kiểm duyệt giấc mơ chăng nữa thì giấc mơ cũng không phải vì thế mà trở nên dễ hiểu hơn vì chúng ta sẽ phải giải quyết vấn đề diễn tả ngôn ngữ tượng trưng trong giấc mơ bằng ngôn ngữ trong khi thức. Vậy tính chất tượng trưng trong giấc mơ là một yếu tố khác trong sự biến dạng của giấc mơ không phụ thuộc vào sự kiểm duyệt. Nhưng ta có thể cho rằng sự kiểm duyệt có thể lợi dụng tính chất tượng trưng để tiện cho công việc của mình vì cả hai đều có một mục đích chung: làm cho giấc mơ trở thành kỳ khôi và khó hiểu.

Vì vậy, sau này chúng ta có thể tìm ra được một yếu tố mới cho sự biến dạng nữa. Nhưng tôi không muốn rời bỏ vấn đề tính chất tượng trưng mà không nhắc lại một lần nữa thái độ khó hiểu của một số người học thức đối với vấn đề này: chất tượng trưng đã được chứng minh đầy đủ trong huyền thoại, tôn giáo nghệ thuật và ngôn ngữ. Không biết chúng ta có nên tìm lý do của thái độ này trong những liên quan mà chúng ta đã tìm ra giữa tính chất tượng trưng và đời sống tình dục hay không?

Sự xây dựng giấc mơ

Nếu các bạn biết rõ sự kiểm duyệt và sự tượng trưng đã hoạt động như thế nào trong giấc mơ thì bạn có thể hiểu rõ sự hoạt động của các sự biến dạng. Muốn hiểu giấc mơ, các bạn dùng hai kỹ thuật bổ túc cho nhau: trước hết, gợi cho người nằm mơ nhớ lại nhiều điều cho đến khi dần dần tìm được thực chất của giấc mơ, rồi thay thế các kí hiệu tượng trưng bằng ý nghĩa thực của chúng. Thế nào bạn cũng sẽ gặp một vài điều không được chắc chắn, nhưng đó là điều chúng ta sẽ nói đến sau.

Đến đây chúng ta có thể tiếp tục công việc đã khởi đầu trước đây nhưng với phương tiện còn thiếu sót. Chúng ta đã có ý định sắp đặt các liên quan giữa những yếu tố của giấc mơ và thực chất của chúng; những liên quan này gồm có: liên quan giữa một phần và toàn thể sự phỏng chừng và ám chỉ, liên quan tượng trưng và sự biểu diễn bằng lời nói. Chúng ta sẽ làm lại công việc này trong một phạm vi rộng lớn hơn bằng cách so sánh nội dung rõ ràng với giấc mơ tiềm tàng những điều tìm ra được trong khi giải thích.

Tôi hy vọng là các bạn sẽ không lẫn lộn nội dung rõ ràng và những ý tưởng tiềm tàng nữa. Với sự phân biệt này, các bạn sẽ hiểu về giấc mơ hơn là những độc giả của cuốn sách “Đoán mộng” của tôi. Công việc biến đổi giấc mơ tiềm tàng thành nội dung rõ ràng gọi là “sự xây dựng giấc mơ”. Công việc, trái lại, biến đổi nội dung thành giấc mơ tiềm tàng gọi là “công việc giải thích giấc mơ”. Công việc giải thích tìm cách xóa bỏ công việc xây dựng. Những giấc mơ thuộc loại trẻ con, những sự thực hiện các ham muốn có một phần xây dựng, nhất là sự biến đổi lòng ham muốn cũng có một phần xây dựng, nhất là sự biến đổi lòng ham muốn thành sự thực, sự biến đổi những ý tưởng thành những hình ảnh thị giác. Đối với các giấc mơ này chúng ta không cần giải thích, chỉ cần xét qua loa về hai sự biến dạng thôi. Còn trong các giấc mơ khác, chúng ta phải làm công việc xây dựng, và sở dĩ phải làm việc này vì có sự biến dạng, sự biến dạng này chỉ có thể mất đi khi chúng ta giải thích xong.

Vì đã có dịp so sánh nhiều cách giải thích giấc mơ nên tôi có thể cắt nghĩa cho các bạn nghe công việc xây dựng một giấc mơ đã lợi dụng được những ý tưởng tiềm tàng trong đó như thế nào. Chỉ xin các bạn không nên đưa ra những lời kết luận quá vội vã. Tôi yêu cầu các bạn đặc biệt chú ý đến những điều dưới đây.

Công việc phải làm trước hết để xây dựng một giấc mơ là sự cô đọng lại giấc mơ. Tôi muốn nói là nội dung giấc mơ rõ ràng nhỏ hơn mục đích của giấc mơ tiềm tàng và chỉ là một bản tóm tắt thôi. Cũng có khi không có sự cô đọng nhưng trong thực tế sự cô đọng này bao giờ cũng có mặt và nhiều khi tỏ ra rất quan trọng. Chưa bao giờ người ta thấy nội dung của giấc mơ rõ ràng lại rộng và dồi dào hơn giấc mơ tiềm tàng. Sự cô đọng tiến hành theo ba phương pháp sau đây: 1/ Một vài yếu tố tiềm tàng bị gạt bỏ dễ dàng. 2/ Giấc mơ rõ ràng chỉ nhận vài mảnh nhỏ của một vài phương diện của giấc mơ tiềm tàng thôi. 3/ Những yếu tố trong giấc mơ tiềm tàng vì có một vài điểm đồng nhất được đồng hóa với giấc mơ rõ ràng.

Nếu muốn, bạn có thể dành cho phương pháp thứ ba này cái tên cô đọng. Hậu quả của phương pháp này rất dễ chứng minh. Chỉ cần nhớ lại giấc mơ của mình, bạn cũng dễ dàng tìm thấy trường hợp cô đọng của nhiều người thành sự cô đọng của một người. Từ một ông A, chúng ta có thể hiểu ông B, rồi ông này làm cho ta nhớ lại bà C, rồi với tất cả ta tìm ra D. Tất nhiên trong bốn người này có tính chất gì đó chung cho cả bốn. Cứ như thế chúng ta có thể thành lập một hợp thể gồm nhiều đối tượng, với điều kiện là các đối tượng này có một vài điểm chung nhau mà giấc mơ tiềm tàng nhấn mạnh đặc biệt. Gần như đó là một kỉ niệm mới mà điểm chung nhau chính là tâm điểm. Đem nhiều phần nhỏ hòa vào thành một hợp thể như thế, chúng ta sẽ có những hình ảnh mơ hồ giống như một tấm kính ảnh có thể được in thành nhiều tấm ảnh khác. Công việc xây dựng giấc mơ cần để ý đến những hợp thể đó thường do mình tạo ra khi chúng không có mặt, ví dụ như khi chúng ta tìm một chữ để diễn tả một ý. Chúng ta đã gặp những sự cô đọng và thành lập loại này, ví dụ như trong trường hợp lỡ lời. Các bạn hãy nhớ lại anh chàng trẻ tuổi muốn begleit – digen (do hai chữ beglei ten, đi cùng, và belei digen, thất lễ, họp thành) một bà. Có những gạch trí khôn cũng được họp thành bằng những kỹ thuật loại đó. Nhưng ngoài trường hợp này thì phương pháp cô đọng đó có vẻ kỳ lạ và kỳ khôi. Sự thành lập những hợp thể cũng giống những sự việc do trí tưởng tượng dồi dào của chúng ta sáng tạo ra bằng những yếu tố không hề có trong cuộc thí nghiệm: ví dụ như những con vật khổng lồ thời tiền sử trong thần thoại và trong các bức họa của Bocklin. Vả lại, trí tưởng tượng sáng tạo của mình thực ra chẳng sáng tạo được gì bao giờ, mà chỉ tập trung lại một nơi những yếu tố khác biệt thôi. Nhưng phương pháp dùng trong công việc xây dựng có đặc biệt là những vật liệu dùng để xây dựng toàn là những ý tưởng, trong đó có một vài ý thô tục không thể được chấp nhận nhưng tất cả đều được thành lập và diễn tả một cách đúng đắn. Công việc xây dựng gán cho những ý tưởng này một hình thức khác nhưng thực là một điều đáng chú ý và khó hiểu khi công việc này lại dùng sự dung hợp để diễn tả những ý tưởng này. Trong khi diễn dịch chúng ta đặc biệt chú ý đến những điểm đặc biệt trong nguyên bản và cố tránh không lẫn lộn những chữ có nghĩa giống nhau. Công việc xây dựng trái lại cố gắng có hai ý khác nhau để tìm ra một chữ có thể diễn tả được cả hai ý. Chúng ta không nên đưa ra những kết luận vội vã về điểm đặc biệt này, vì chính điểm đó có thể trở thành quan trọng trong khái niệm về công việc xây dựng.

Dù sự cô đọng lại có làm cho giấc mơ tối tăm hơn đi nữa, người ta cũng không cho đó là kết quả của kiểm duyệt. Nó có thể có những nguyên nhân có thành chất cơ khí hay kinh tế nhưng dù sao sự kiểm duyệt cũng có dự phần vào đó.

Những hậu quả của sự cô đọng có thể hết sức kỳ lạ. Sự cô đọng làm cho chúng ta có thể tập trung vào trong giấc mơ rõ ràng hai ý tưởng tiềm tàng khác hẳn nhau, và do đó giải thích được mà không cần một cách giải thích phụ nào khác nữa. Sự cô đọng còn có hậu quả làm cho liên quan giữa các yếu tố của giấc mơ tiềm tàng và của giấc mơ rõ ràng trở nên phức tạp. Vì thế nên một yếu tố trong giấc mơ rõ ràng có thể tương ứng với nhiều ý tưởng tiềm tàng và trái lại: như vậy tức là có một sự trao đi đổi lại. Trong khi giải thích giấc mơ người ta cần để ý rằng những ý tưởng xuất hiện tuần tự không nên đem ra dùng ngay mà phải chờ cho chúng ra hết rồi mới đem dùng.

Vậy công việc xây dựng diễn tả những ý tưởng trong giấc mơ một cách khác thường, không phải bằng cách dịch từng chữ một, hay chọn lựa theo một quy tắc nào đó, hay tìm cách thay thế một ý này bằng một ý khác. Công việc xây dựng là một công việc khác hẳn và phức tạp hơn nhiều.

Một hậu quả khác của công việc xây dựng là sự di chuyển, một công việc chúng ta đã có dịp được biết đến rồi và hoàn toàn là công việc của sự kiểm duyệt. Sự di chuyển, diễn tiến theo hai cách: một là thay thế một yếu tố tiềm tàng không phải bằng một yếu tố khác cùng loại nhưng bằng một yếu tố khác xa hơn, nghĩa là bằng một sự ám chỉ, hai là tính chất tinh thần được chuyển từ một yếu tố quan trọng đến một yếu tố bớt quan trọng hơn làm cho giấc mơ thành ra có một ý nghĩa khác hẳn.

Sự thay thế bằng một sự ám chỉ cũng xảy ra trong khi ta thức nhưng hơi khác. Trong tư tưởng trong khi thức sự ám chỉ cần dễ hiểu, giữa sự ám chỉ và ý tưởng thực sự phải có một liên quan về nội dung. Gạch trí khôn thường lợi dụng sự ám chỉ nhưng không theo điều kiện phải có sự liên tưởng giữa các nội dung. Sự liên tưởng này được thay thế bằng một sự liên tưởng bên ngoài ít khi dùng đến, đặt căn bản trên sự giống nhau giữa các thanh âm, các nghĩa khác nhau của một chữ. v.v… Nhưng gạch trí khôn lại theo thực sát điều kiện về sự dễ hiểu: gạch trí khôn sẽ không đạt được mục đích nếu người ta hay một sự cắt nghĩa gắng gượng. Sự kiểm duyệt trong giấc mơ chỉ đạt được mục đích khi làm cho người ta không thể tìm ra được con đường đưa từ sự ám chỉ tới thực chất của nó.

Sự di chuyển yếu tố tinh thần từ một yếu tố này qua một yếu tố khác trong giấc mơ là phương sách tốt nhất để diễn tả tư tưởng. Nhiều khi thức ta cũng dùng nó để có một ý nghĩa khôi hài. Tôi kể các bạn nghe câu chuyện sau đây: Trong một làng có một anh chàng đóng móng ngựa phạm một tội nặng. Tòa án quyết định rằng anh ta phải đền tội, nhưng vì trong làng ngoài anh ta ra không còn người đóng móng nào khác, vì thế anh trở nên cần thiết không thể giết được, trong khi đó trong làng có tới ba anh thợ may, nên ba anh này bị treo cổ thay thế cho anh đóng móng.

Hậu quả của công việc xây dựng, về phương diện tâm lý là hậu quả thích thú nhất. Đó là sự biến đổi các ý tưởng thành những hình ảnh thị giác. Điều đó không có nghĩa là tất cả những yếu tố cấu thành đều bị biến đổi hết; nhiều yếu tố giữ nguyên tính cách và xuất hiện nguyên hình trong giấc mơ rõ ràng; ngoài ra không phải các ý tưởng chỉ xuất hiện dưới hình thức của hình ảnh thị giác. Dù sao thì những hình ảnh thị giác này cũng giữ phần chính yếu trong sự thành lập một giấc mơ. Phần việc này của công trình xây dựng không thay đổi: chúng ta biết điều này rồi cũng như chúng ta đã biết đến “sự biểu diễn bằng lời nói” của những yếu tố riêng biệt trong mơ.

Tất nhiên người ta không dễ dàng gì đạt được kết quả đó. Để hiểu những sự khó khăn đó bạn cứ tưởng tượng trong một bài luận thuyết về chính trị, nghĩa là thay những chữ in bằng những hình vẽ. Đối với người và vật nói trong bài đó việc thay thế bằng hình ảnh chẳng có gì là khó, nhưng khi muốn thay thế những ý tưởng trừu tượng hay những sự liên lạc giữa ý này và ý nọ thì quả là một công việc đội đá vá trời. Đối với những chữ trừu tượng bạn có thể dùng đủ mọi cách, ví dụ như có thể viết lại theo một lối nói có lẽ ít được thông dụng hơn nhưng chứa đựng nhiều hình ảnh cụ thể hơn. Các bạn sẽ nhớ lại rằng những tiếng trừu tượng này chính là những chữ cụ thể ngày xưa rồi bạn sẽ tìm đủ mọi cách để tìm lại được ý nghĩa cụ thể lúc đầu. Ví dụ bạn sẽ rất thích khi có thể diễn tả ý “có một đồ vật gì” (be sizen) bằng ý nghĩa cụ thể là “ngồi trên vật đó” (đa rua fsizen). Công việc xây dựng không làm gì khác hơn. Chúng ta không nên đòi hỏi một sự chính xác quá đáng đối với một sự biểu diễn tiến hành trong điều kiện như thế. Cho nên chúng ta không tránh công việc xây dựng này khi nó thay thế một yếu tố rất khó hình dung như sự ngoại tình (Ehebruch) bằng một hình ảnh cụ thể như “gãy một cánh tay” (Armburch). Biết những chi tiết đó bạn có thể sửa chữa lại những sự vụng về của hình vẽ khi dùng để thay thế lời nói.

Nhưng những phương tiện này thiếu thốn khi diễn tả những dây liên lạc giữa hai ý: bởi vì, vì lí do, v.v… Những yếu tố này không thể được diễn tả bằng hình ảnh. Cũng thế, công trình xây dựng trong giấc mơ rút gọn nội dung giấc mơ thành những đối tượng và hành động cụ thể. Các bạn sẽ hài lòng nếu có thể diễn tả những liên quan trừu tượng bằng những hình ảnh. Công việc xây dựng dùng những tính chất hình thức trong giấc mơ rõ ràng, những mảnh nhỏ, những mức độ rõ ràng hay tăm tối để diễn tả một vài phần nội dung những ý tưởng tiềm tàng trong giấc mơ. Những ý tưởng tiềm tàng được phân chia thành nhiều giấc mơ nhỏ và số những giấc mơ này cũng tương ứng với số chủ đề chính trong giấc mơ, với những loại ý tưởng có trong đó; một giấc mơ nhỏ diễn ra trước giấc mơ chính y như một bài mở đầu cho một cuốn sách; một ý tưởng phụ thuộc thêm vào ý chính được thay thế bằng một vài cảnh bao gồm các biến cố của giấc mơ tiềm tàng được diễn tả trong giấc mơ rõ ràng. Sự việc cứ tiếp tục như thế. Hình thức của giấc mơ không phải là không quan trọng và cũng cần giải thích. Nhiều giấc mơ có thể xảy ra trong một đêm, giấc mơ nào cũng quan trọng như nhau chứng tỏ rằng có một vài sự kích động càng ngày càng tăng cường độ cần phải bị chế ngự. Trong một giấc mơ, một yếu tố đặc biệt có thể được biểu diễn bằng nhiều ký hiệu tượng trưng.

Làm công việc so sánh những ý tưởng trong giấc mơ và giấc mơ thực sự diễn ra, chúng ta biết được những điều không chờ đợi, ví dụ như chúng ta thấy rằng ngay những điều khó hiểu trong giấc mơ cũng có một ý nghĩa đặc biệt. Về điểm này, sự trái ngược giữa quan niệm y học và quan niệm phân tâm học về giấc mơ tới một mức độ ghê gớm đến nỗi trở thành tuyệt đối không giải quyết được. Theo quan niệm trên thì giấc mơ chẳng có nghĩa lý gì cả, vì tinh thần mà giấc mơ là hậu quả mất hết khả năng phê phán; theo quan niệm sau thì giấc mơ trở thành vô nghĩa lý một khi ngay trong giấc mơ người ta đã phê phán là điều đó thực vô nghĩa lý. Ví dụ như việc mua ba vé giá 1 fl.50 mà chúng ta đã thấy. Sự phê phán trong dịp này: lấy chồng sớm quá là một điều không hiểu được (hay là một điều dại dột).

Trong công việc xây dựng giấc mơ, chúng ta cũng biết điều gì tương ứng với những sự nghi ngờ, bất định của người nằm mơ, nghĩa là có thực một yếu tố nào đã được diễn tả trong giấc mơ hay không, và yếu tố này có đúng như điều mà mình nghĩ hay không hay là một điều khác. Không có gì trong giấc mơ tiềm tàng cho ta biết về những điều nghi ngờ, bất định đó; chúng chỉ là hậu quả của sự kiểm duyệt thôi và phải được coi như một mưu toan gạt bỏ được sự dồn ép.

Một trong các nhận xét làm mình ngạc nhiên nhất là nhận xét liên quan đến các công việc xây dựng dùng để giải quyết những sự trái ngược nhau trong giấc mơ tiềm tàng. Chúng ta đã biết là những yếu tố tương tự trong giấc mơ tiềm tàng được thay thế bằng những sự cô đọng trong giấc mơ rõ ràng. Nhưng những sự trái ngược cũng được giải quyết như những sự giống nhau và cũng được diễn tả bằng một yếu tố như nhau trong giấc mơ rõ ràng. Vì thế nên một yếu tố có điểm trái ngược trong giấc mơ rõ ràng cũng có thể có ý nghĩa, chúng ta phải tuỳ theo ý chính mà giải thích. Vì thế cho nên chúng ta mới hiểu tại sao trong giấc mơ không hề có hình dung câu trả lời “không” bao giờ.

Cách làm việc kỳ lạ của công việc xây dựng có một điểm tương tự trong công việc phát triển ngôn ngữ. Nhiều nhà ngôn ngữ học nhận thấy rằng trong ngôn ngữ thời cổ có những sự trái ngược như: yếu – khoẻ, rõ ràng – tăm tối, lớn – nhỏ đều được diễn tả cùng một gốc (nghĩa trái ngược trong những tiếng cổ xưa). Ví dụ như trong tiếng cổ Ai Cập ý khỏe và yếu đều được diễn tả bằng tiếng “ken”. Khi nói người ta dùng giọng cao hay thấp để phân biệt hai nghĩa; khi viết người ta thường vẽ thêm một hình ảnh không được đọc lên. Người ta viết chữ ken – khỏe bằng cách vẽ bên cạnh một người đứng thẳng dậy; và ken – yếu bằng hình ảnh một người đang ngồi xổm. Mãi sau này người ta mới dần dần thay đổi và dùng những chữ riêng để diễn tả hai ý trái ngược. Vì thế người ta đã chia chữ ken ra thành hai chữ ken – khỏe và ken – yếu. Một vài ngôn ngữ trẻ hơn và một vài sinh ngữ ngày nay còn giữ lại được dấu vết của sự trái ngược cổ xưa đó. Xin đơn cử một vài ví dụ theo C. Abel (1884).


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.