Phân Tâm Học Nhập Môn

Chương 3 – Phần 14



Loại thứ ba đặt chúng ta trước một điều bí ẩn vì chúng ta không thể biết được giữa sự lo sợ này và sự hiểm nguy đe dọa người bệnh có những liên quan gì. Trong bệnh náo loạn thần kinh chẳng hạn, sự lo sợ đi liền với những triệu chứng náo loạn khác hay xảy ra trong bất cứ điều kiện kích động nào; thành ra trong khi chờ đợi một sự phát hiện tình cảm, chúng ta ngạc nhiên nhiều khi xuất hiện một sự lo sợ mà chúng ta không chờ đợi. Sau cùng lo sợ có thể xuất hiện mà chẳng cần điều kiện gì cả, y như một cơn sợ đột nhiên xuất hiện chẳng có một nguyên nhân gì. Trong những cơn sợ xuất hiện tự nhiên này chúng ta thấy chúng có thể bị phân tích ra được. Cả cơn sợ có thể xuất hiện bằng một triệu chứng duy nhất cường độ rất mạnh như run lẩy bẩy, choáng váng, hồi hộp, nghẹn ngào. Chúng ta không thấy trong sự lo sợ này tình cảm chung cho mọi sự lo sợ khác. Những trạng thái này phải được coi như lo sợ thực sự cả về phương diện chuẩn bị cũng như căn bệnh.

Đến đây có hai câu hỏi đột nhiên xuất hiện. Giữa sự lo sợ trong bệnh thần kinh trong đó sự nguy hiểm không giữ một vai trò nào cả, hay chỉ giữ một vai trò chẳng có nghĩa gì và sự lo sợ thực sự bao giờ cũng là phản ứng đối với một mối nguy thực sự có liên quan gì không? Phải hiểu sự lo sợ thần kinh đó như thế nào? Chúng tôi muốn trước hết không bỏ được nguyên tắc: mỗi khi có sự lo sợ xảy ra tất phải có một điều gì gây ra sự lo sợ đó.

Quan sát trong bệnh viện cho thấy một số yếu tố giúp ta hiểu được bệnh lo sợ thần kinh. Tôi muốn đem vấn đề ra thảo luận với các bạn.

A/Chúng ta không khó gì khi cho rằng sự lo sợ trong chờ đợi hay lo sợ tổng quát lệ thuộc vào một vài hoạt động của đời sống tình dục hay nói cho đúng hơn vào một vài sự áp dụng tính khát dục. Trường hợp giản dị và bổ ích nhất cho sự học hỏi là trường hợp của những người chịu kích động vô bổ, thấy thỏa mãn, như những người đàn ông trong thời kỳ đính hôn hay những người đàn bà có chồng bất lực, hay sợ có mang nên thường rút dương vật ra ngoài âm hộ trước khi xuất tinh. Trong những trường hợp này sự kích động khát dục biến mất nhường chỗ cho lo sợ hoặc lo sợ trong chờ đợi hoặc một cơn lo sợ có mang thường gây bệnh thần kinh lo sợ cho đàn ông và nhất là cho đàn bà và xảy ra nhiều đến nỗi mỗi khi đứng trước một người bệnh các bác sĩ thường bảo nhau nên nghĩ đến căn bệnh đó trước nhất. Làm như thế chúng ta có dịp quan sát rằng bệnh đó biến mất ngay một khi người chồng thôi không ngừng giao hợp trước khi xuất tinh như thế.

Theo chỗ tôi biết thì chính những bác sĩ ở ngoài môn phân tâm học cũng công nhận liên quan giữa sự ngưng giao hợp và bệnh thần kinh lo sợ. Nhưng có nhiều người sẽ cho rằng sở dĩ có những người ngưng giao hợp như thế là vì họ đã có sẵn mầm mống của sự lo sợ trong người từ lâu rồi. Lý luận này được cải chính ngay tức khắc bằng thái độ của người đàn bà mà hoạt động tình dục có tính cách tiêu cực, nghĩa là chịu theo hướng dẫn của đàn ông. Một người đàn bà càng có nhiều khí chất bao nhiêu càng thích giao hợp bấy nhiêu, càng có khả năng hưởng thụ tình dục bấy nhiêu và càng có phản ứng bằng hiện tượng lo sợ đối với sự bất lực và sự ngưng giao hợp của người đàn ông bấy nhiêu.

Sự tiết dục được nhiều bác sĩ khuyên nên dùng tất nhiên chỉ gây ra trạng thái lo sợ trong trường hợp sự khát dục không được thỏa mãn đã tăng lên đến một cường độ nào đó và không bị hủy bỏ vì những cái dùng để thay thế. Sự phát sinh ra trạng thái bệnh hoạn bao giờ cũng lệ thuộc vào những yếu tố chất lượng. Nhưng ngay cả khi không nói đến chuyện bệnh tật nữa mà chỉ nói đến tính tình thôi, những người tiết dục thường là những người tính nết bất định, nay lo sợ, nghi ngờ, còn những người bạo dạn, luôn luôn không bao giờ làm cái trò ngưng giao hợp bao giờ. Dù đời sống văn minh đã thay đổi những liên quan giữa đời sống tình dục và tính nết con người thế nào chăng nữa thì những liên quan đó cũng vẫn mật thiết hơn bao giờ.

Tôi chưa nói cho các bạn nghe về những quan sát xác định những liên quan này giữa khát dục và sự lo sợ. Chúng ta sẽ phải nói đến vai trò của một vài giai đoạn trong đời sống như tuổi dậy thì hay tuổi tắt kinh chẳng hạn trong việc phát sinh ra bệnh lo sợ, những giai đoạn này là thường làm tăng sự khát dục lên rất nhiều. Trong nhiều trường hợp khi bị kích động, người ta còn quan sát thấy sự dung hòa giữa khát dục và bệnh lo sợ và sự thay thế tình dục bằng sự lo sợ nữa. Từ những sự kiện này, chúng ta đưa ra hai kết luận: người ta có cảm tưởng rằng đó chỉ là sự tích lũy của sự khát dục bị ngăn trở không cho hoạt động và tất cả mọi sự diễn biến đã nhận thấy đều có tính cách cơ thể. Người ta không nhìn thấy sự lo sợ đã phát sinh ra như thế nào từ sự khát dục; người ta chỉ nhận thấy rằng khát dục đã vắng mặt và được thay thế bằng lo sợ.

B/Một điểm khác đã được sự phân tích bệnh thần kinh tâm lý nhất là bệnh náo loạn thần kinh cung cấp. Chúng ta đã biết là trong những bệnh này sự lo sợ chỉ xuất hiện cùng với các triệu chứng nhưng cũng có khi có một sự lo sợ không liên quan gì đến triệu chứng cả và xuất hiện dưới hình thức của từng cơn một hay trong một tình trạng thường trực. Người bệnh không biết tại sao họ lại lo sợ như thế và thường gán cho chứng sợ này cho sự lo sợ thông thường nhất: sợ chết, sợ bị điên dại, sợ động kinh. Khi phân tích sự lo sợ hay triệu chứng đi cùng với sự lo sợ người ta thường tìm ra nguyên do chính là vì dòng hoạt động của tinh thần bình thường không lưu thông và đã bị lo sợ thay thế. Hay nói rõ hơn chúng ta coi sự hoạt động của vô thức không chịu một sự dồn ép nào, phát triển bình thường cho tới khi đến ý thức. Sự diễn tiến này thường có một trạng thái tình cảm đi theo và chúng ta ngạc nhiên khi thấy rằng trạng thái tình cảm này trong mọi trường hợp đều bị dồn ép và thay thế bằng sự lo sợ dù đặc tính của trạng thái ấy ra sao mặc lòng. Cho nên khi đứng trước một trạng thái lo sợ náo loạn thần kinh, chúng ta có quyền cho rằng đồng bạn vô thức đi cùng với nó hoặc là một tình cảm cùng tính chất – như lo sợ, xấu hổ, ngượng ngùng – hoặc là sự kích động khát dục hoặc là một tình cảm đối nghịch, hung hăng như sự giận dữ ghê gớm hay bình thường. Vậy sự lo sợ tức là một món tiền thường được dùng để đổi lấy sự kích động tình cảm của nội dung của chúng đã bị sự phát biểu hủy diệt và dồn ép.

C/Một cuộc thí nghiệm thứ ba lấy trong những người bị ám ảnh, những người hầu như không bị lo sợ bao giờ. Khi chúng ta ngăn cản không cho những người bị ám ảnh làm những cử chỉ ám ảnh của họ hay khi chính họ tự ý thôi không làm những cử chỉ đó nữa, họ thường bị lo sợ xâm chiếm và nhiều khi phải làm lại những cử chỉ ám ảnh này. Đến đó chúng ta hiểu rằng lo sợ luôn luôn núp đàng sau những cử chỉ ám ảnh và những cử chỉ này được thực hiện chỉ vì người bệnh muốn tránh khỏi lo sợ. Vì thế nên trong bệnh thần kinh ám ảnh sự lo sợ không xuất hiện ra ngoài vì đã được các triệu chứng thay thế; và nếu chúng ta quay trở lại với bệnh náo loạn thần kinh, chúng ta cũng thấy tình trạng tương tự, kết quả của sự dồn ép: hoặc là một nỗi lo sợ thuần túy, hoặc một sự lo sợ đi kèm các triệu chứng hoặc là toàn thể các triệu chứng đầy đủ không có lo sợ. Như thế chúng ta có thể nói rằng, nếu những triệu chứng xuất hiện thì chỉ là vì chúng muốn ngăn cản không cho lo sợ xuất hiện và nếu không có chúng thì lo sợ thế nào cũng xuất hiện. Quan niệm này làm cho sự lo sợ trở thành trung tâm điểm của sự quan tâm của chúng ta đối với vấn đề có liên quan đến bệnh thần kinh.

Những điều quan sát của chúng ta liên quan đến bệnh lo sợ thần kinh đưa đến kết luận là chính sự di chuyển của khát dục ra ngoài con người thường ngày gây ra sự lo sợ chính là giai đoạn cuối cùng của sự diễn tiến của cơ thể. Phân tích bệnh náo loạn thần kinh và bệnh bị ám ảnh, chúng ta cũng đi đến kết luận như thế vì nó cho ta thấy rõ sự đi sai đường và sự lo sợ đều bắt nguồn ở sự từ chối không chịu can thiệp của các yếu tố tinh thần. Đó là tất cả những điều chúng ta biết về cách phát sinh ra bệnh lo sợ trong bệnh thần kinh; nếu những điều này có thể mơ hồ thì lúc này tôi chưa tìm ra con đường có thể đưa chúng ta đi xa hơn.

Còn một vấn đề khó giải quyết nữa là vấn đề quy định những liên quan về sự lo sợ thần kinh, bắt nguồn từ một sự hoạt động bất bình thường của khát dục và sự lo sợ thực hiện tương ứng với một phản ứng chống lại một mối nguy hiểm. Người ta tưởng rằng đó là những cái gì rời rạc, nhưng thực ra chúng ta không có phương tiện nào để phân biệt được hai loại lo sợ này.

Nhưng dây liên lạc đó hiện ra ngay khi chúng ta xét đến sự trái ngược giữa cái tôi và sự khát dục. Như chúng ta đã biết, lo sợ sở dĩ xuất hiện như một sự phản ứng của cái tôi và là dấu hiệu báo trước sự chạy trốn; trong sự lo ngại bệnh thần kinh chúng ta cũng có thể cho rằng cái tôi tìm cách chạy trốn để thoát khỏi sự đòi hỏi khát dục, coi sự hiểm nguy bên trong ngày càng khác mối nguy hiểm bên ngoài. Quan điểm này dẫn tới một kết luận: mỗi khi có sự lo sợ là phải có một sự kiện gây ra sự lo sợ đó. Nhưng sự giống nhau giữa hai loại còn đi xa hơn nữa. Cũng như gặp một mối nguy hiểm bên ngoài nào đó lo sợ thường tìm cách chạy trốn. Nhưng chính sự mưu toan chạy trốn này lại dẫn đến sự dừng chân lại để tìm cách chống cự, sự phát triển của sự lo sợ cũng bị ngưng lại bởi sự xuất hiện của các triệu chứng để rồi sau cùng nhường chỗ cho chúng.

Điều khó hiểu trong các liên quan giữa sự lo sợ và các triệu chứng nằm chỗ khác. Lo sợ có nghĩa là cái tôi chạy trốn trước khát dục, vậy mà chính sự khát dục lại gây ra lo sợ. Sự kiện này tuy không đập vào mắt người ta, vẫn là một sự kiện có thực; vì thế nên chúng ta đừng quên rằng khát dục của người nào đó cũng là một thành phần trong người đó và không thể chống lại người đó như một sự kiện từ bên ngoài vào. Điều chúng ta chưa hiểu rõ là sự sống động chung cho mọi nỗi lo sợ, là vấn đề tự hỏi xem trong khi hoạt động thì những nghị lực tinh thần đem dùng là những nghị lực nào và nghị lực này từ những hệ thống tinh thần nào đến. Tôi không thể hứa trả lời được các câu hỏi nói trên, nhưng chúng ta sẽ xem xét hai dấu vết khác nhau và đòi hỏi không chỉ nghiên cứu và quan sát trực tiếp hiến cho chúng ta một sự khẳng định cần thiết. Chúng ta sẽ xét đến vấn đề phát sinh ra sự lo sợ đối với trẻ con và vấn đề nguồn gốc của sự lo sợ trong bệnh thần kinh liên kết với các chứng sợ.

Trạng thái lo sợ luôn luôn xảy ra đối với trẻ con và thực khó biết, sự lo sợ của trẻ con có phải là một sự lo sợ thực sự hay chỉ là một sự lo sợ do bệnh thần kinh gây ra không. Chính thái độ của trẻ con cải chính sự khác biệt mà chúng ta dành cho hai loại lo sợ này. Một đằng chúng ta thấy có gì lạ lùng khi thấy đứa trẻ con tỏ ra lo sợ khi đứng trước người lạ mặt, trước những tình thế mới và những đối tượng mới. Chúng ta hiểu phản ứng này của chúng vì chúng yếu ớt và không biết nhiều. Vì vậy chúng ta cho rằng trẻ con lo sơ thực sự và khi ra đời chúng đã mang mầm mống của sự lo sợ này rồi với tính cách di truyền. Trẻ con chỉ lập lại thái độ của người cổ sơ và người mọi rợ, vì không biết rõ và không có cách tự bảo vệ, nên tỏ ra lo sợ trước những cái gì mới, trước những sự việc đối với những con người văn minh thì chẳng có nghĩa lý gì, đã trở thành quen thuộc và không hề làm cho họ lo sợ. Và tất nhiên những chứng sợ của trẻ con cũng có thể được coi như tương tự với những điều chúng ta thường gán cho những giai đoạn cổ sơ trong quá trình phát triển của người lớn.

Dù sao chúng ta không nên bỏ qua sự việc là không phải bất cứ đứa trẻ con nào cũng bày tỏ một nỗi lo sợ giống nhau, cùng một cường độ như nhau và đứa trẻ nào tỏ ra lo sợ trước bất cứ vật gì và tình thế gì đều là những đứa sau này sẽ mắc bệnh thần kinh. Vậy mầm mống bệnh thần kinh có sẵn trong người đứa bé cũng phát hiện dưới hình thức của một tính nết dễ dàng, lo sợ thực sự, trạng thái lo sợ xuất hiện như một trạng thái đầu tiên, và người ta kết luận rằng trẻ con cũng như người lớn đều tỏ ra lo sợ trước sức mạnh của khát dục chính là vì họ sợ bất cứ một cái gì. Quan niệm sự việc như thế chẳng khác gì phủ nhận rằng chính sự khát dục đã sinh ra lo sợ, và khi xét những điều kiện của một sự lo sợ thực sự, chúng ta sẽ tự nhiên đi đến kết luận là chính cái ý thức rằng mình bất lực, yếu ớt, không có giá trị gì cả mà trẻ con cũng như người lớn sau này mắc bệnh thần kinh, nói khác đi, chính ý thức này là nguyên nhân đầu tiên gây ra bệnh thần kinh, khi ý thức thay vì phải chấm dứt khi hết tuổi ấu thơ lại cứ tiếp tục tồn tại trong người lớn.

Lối lý luận này có vẻ giản dị và quyến rũ khiến cho chúng ta chú trọng đến. Nhưng nó lại đưa đến hậu quả là di chuyển điều bí mật về tinh thần bất an sang một chỗ khác. Vì ý tưởng rằng mình không có giá trị gì cả cứ tồn tại mãi được coi như một điều có thực đến nỗi chúng ta phải tự hỏi tại sao những người đó có khi lại có một sức khỏe bình thường. Nhưng trạng thái lo sợ của trẻ con cho ta biết những gì? Đứa bé chỉ tỏ ra lo sợ khi đứng trước những người lạ đi kèm, còn những đồ vật mới gây lo sợ cho trẻ chỉ đến sau người và tình thế nói trên. Nhưng đứa trẻ lo sợ trước một người lạ chỉ vì nó cho rằng người này đối với nó có ý xấu, vì nó cảm thấy mình quá yếu đối với người lạ, người này có thể mang lại cho nó một mối hiểm nguy đối với đời sống, an ninh và sự sung sướng của nó. Thực ra không làm gì có những đứa bé lúc nào cũng nghi ngờ, lúc nào cũng lo sợ mình bị tấn công và những sự tấn công này tràn ngập cả nhân loại. Đúng hơn đứa bé sở dĩ lo sợ khi đứng trước mặt người lạ là vì từ xưa tới nay nó chỉ quen nhìn một người mà nó yêu mến: đó là người mẹ. Sự thất vọng và buồn rầu của nó biến thành lo sợ; vậy sự lo sợ đó chính là sự khát dục không còn dùng được nữa và sự khát dục này vì không dùng được nữa nên phải biến thành lo sợ. Và không phải là ngẫu nhiên nếu chúng ta thấy trong sự lo sợ của đứa trẻ hình ảnh của sự lo sợ đầu tiên xảy ra trong lúc mình mới sinh, sự tách bạch đứa trẻ ra khỏi lòng người mẹ.

Chứng sợ đầu tiên nhận thấy ở đứa trẻ con là chứng sợ bóng tối và cô đơn; chứng đầu tiên còn tồn tại mãi trong suốt cuộc đời và cả hai chứng đều có một nguyên nhân chung nhau, đó là sự vắng mặt của người mẹ yêu dấu và chăm sóc nó. Một đứa bé lo sợ trong bóng tối hét lên nói với người cô ngồi trong phòng bên: “Cô ơi, cô nói cho con nghe đi, con sợ lắm.” – “Cô nói lên thì có lợi gì cho con vì con có trông thấy cô đâu.” Đứa bé trả lời: “Khi có tiếng người, cháu cảm thấy như trời sáng hơn.” Vậy sự buồn rầu cảm thấy trong bóng tối biến thành sự lo sợ bóng tối. Vậy khi chúng ta nói rằng sự lo sợ trong bệnh thần kinh là một hiện tượng phụ thuộc và chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự lo sợ thực sự thôi, chúng ta đã nói một điều không đúng: ngoài ra đối với đứa trẻ, trong sự lo sợ thực sự và sự lo sợ thần kinh có một điểm chung nhau: đó là ở cả hai nơi đều có một nguyên nhân. Sự khát dục đã không được đem dùng. Còn về nỗi lo sơ thực sự trẻ con có vẻ như chỉ có trong một mức độ không lấy gì làm nặng lắm. Trong tất cả những tình thế sau này có thể trở nên chứng sợ như đứng trên núi cao, đi cầu hẹp trên mặt nước, đi xe lửa hay đi trên tàu biển, trẻ em không tỏ vẻ lo sợ vì nó không biết. Đáng lẽ ra trẻ con phải nhận được bằng di truyền nhiều bản năng tự vệ hơn và như thế nhiệm vụ của những giám thị trông nom cho chúng khỏi bị nguy hiểm sẽ trở nên dễ dàng hơn nhiều. Nhưng trong thực tế nhiều khi trẻ không có tự lượng sức mình mà làm nhiều điều nguy hiểm, chính vì nó không biết thế nào là nguy hiểm. Nó chạy trên bờ nước, trèo lên cửa sổ, chơi dao kéo, đồ nhọn hay với lửa, nghĩa là tất cả những thứ gì nguy hại cho nó và làm cho mọi người lo sợ. Chính sự giáo dục đã làm cho lo sợ phát sinh bởi vì chúng ta không thể để cho chúng tự học lấy những điều đó bằng kinh nghiệm được.

Nếu có những đứa trẻ chịu ảnh hưởng của sự giáo dục phát sinh ra lo sợ này tới một mức độ làm cho chúng tự mình tìm được những sự nguy hiểm mà người lớn đã nói đến nhưng không bao giờ biết trước là nguy hiểm, chính là vì trong người chúng có một nhu cầu khát dục mạnh hơn hay vì chúng có thói quen thỏa mãn tình dục rất sớm. Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy nhiều đứa trẻ sau này sẽ trở nên những kẻ tinh thần bất an bởi lẽ không có gì làm cho bệnh thần kinh dễ phát ra hơn là việc con người không đủ khả năng chịu đựng trong một thời gian dài hay ngắn của sự dồn ép khát dục. Các bạn hãy nhận thấy rằng, ở đây chúng ta chú trọng đến yếu tố cấu thành mà quan trọng chưa hề bị chúng ta phủ nhận. Chúng ta chỉ chống đối lại cái quan niệm, chỉ chú trọng đến yếu tố cấu thành thôi mà không để ý đến những yếu tố khác, rằng cho yếu tố cấu thành một địa vị quan trọng nhất ngay cả trong trường hợp yếu tố này chỉ giữ một vai trò phụ thuộc thôi hay không có liên can gì cả.

Bây giờ các bạn cho phép tôi tóm tắt những kết quả lượm được trong việc quan sát trạng thái lo sợ trong đứa trẻ: sự lo sợ của đứa trẻ con gần như không có gì chung với sự lo sợ thực sự, trái lại rất gần sự lo sợ bệnh thần kinh của người lớn. Nó bắt nguồn từ một sự khát dục không đem dùng, rồi chỉ vì không tìm được đối tượng để tập trung tình ái vào đã thay thế khát dục bằng một vật bên ngoài hay một tình thế mới.

Và bây giờ các bạn hẳn không bực mình khi nghe tôi nói rằng chúng ta chẳng cần gì học các chứng sợ nữa. Trong các chứng sợ này giống y những sự lo sợ của trẻ con: khát dục không được đem dùng luôn luôn biến thành một sự lo sợ thực sự và do đó bất cứ một sự nguy hiểm nào từ bên ngoài vào đều có thể trở thành một cái gì thay thế cho sự đòi hỏi của khát dục. Sự tương đồng các chứng sợ và sự lo sợ trẻ con chẳng có gì đáng cho ta ngạc nhiên cả vì những chứng sợ trẻ con không những chỉ điển hình cho những chứng sợ của người lớn mà còn là điều kiện phát sinh trực tiếp của những chứng này nữa. Bất cứ một chứng sợ nào trong bệnh náo loạn thần kinh của người lớn bao giờ cũng bắt nguồn ở một chứng sợ trẻ con và chỉ tiếp tục chứng sợ này ngay cả khi nó có một nội dung khác hẳn và có một tên khác. Hai chứng bệnh nói trên chỉ khác nhau về cách hoạt động thôi. Trong người lớn, muốn cho sự lo sợ trở thành khát dục, sự việc khát dục không được dùng đến trong một khoảng thời gian nào đó chưa đủ. Người lớn từ lâu đã biết tạm xếp khát dục ra một bên và dùng nó một cách khác. Nhưng khi khát dục là thành phần của một sự hoạt động tinh thần đã bị dồn ép thì người ta lại thấy một tình trạng giống như tình trạng của trẻ con khi chúng không phân biệt được giữa vô thức và ý thức. Chính nhờ sự thụt lùi về chứng sợ trẻ con này mà khát dục tìm được một phương sách tiện lợi để biến thành lo sợ. Chúng ta đã nói nhiều đến sự dồn ép nhưng bao giờ cũng để ý đến số phần của trạng thái tình cảm đi liền với sự biểu thị của sự dồn ép và mãi đến tận bây giờ mới biết được số phận đầu tiên của trạng thái tình cảm này là phải biến thành lo sợ mặc dầu trong trạng thái bình thường đặc tính của nó ra sao. Sự biến đổi của trạng thái tình cảm này là phần quan trọng nhất của sự hoạt động của sự dồn ép. Nói đến nó không phải dễ dàng gì vì chúng ta không thể khẳng định sự có mặt của những trạng thái tình cảm vô thức như chúng ta đã khẳng định sự có mặt của các sự phát biểu vô thức. Dù vô thức hay hữu thức thì bao giờ sự phát biểu cũng vẫn có những tính chất như nhau và chúng ta rất có thể nói đến cái gì đã tương ứng cho một sự phát biểu vô thức. Nhưng một trạng thái tình cảm bao giờ cũng là một sự hoạt động phóng điện và phải được quan niệm khác một sự phát biểu; chưa tìm cách phân tích và vạch rõ những tiền đề liên quan đến những hoạt động tinh thần, chúng ta chưa thể nói trong trạng thái tình cảm sự vô thức tương ứng với cái gì. Vì thế nên chúng ta không làm công việc đó ở đây, nhưng chúng ta muốn giữ nguyên cái cảm tưởng là sự phát triển của lo sợ gắn liền vào hệ thống vô thức.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.