Phía Tây Không Có Gì Lạ

Chương 9 – Phần 1



Chúng tôi đi xe lửa luôn mấy ngày. Những chiếc máy bay đầu tiên đã xuất hiện trên trời. Chúng tôi vượt những đoàn tàu chở quân nhu. Đại bác, lại đại bác. Chúng tôi chuyển sang đường sắt dã chiến. Tôi đi tìm trung đoàn. Chẳng ai biết nó ở đâu. Ban đêm, bạ đâu tôi ngủ đấy, đến sáng người ta cho ăn và chỉ dẫn một cách mơ hồ. Thế là lưng đeo ba lô, vai khoác súng, tôi lại đi.

Khi đến nơi, chẳng còn một ai trong đơn vị chúng tôi ở lại trong cái vùng đã bị bom đạn tàn phá hết này.

Tôi được biết tin đơn vị chúng tôi đã trở thành một sư đoàn cơ động, chỗ nào gay go là bị điều đến ngay. Cái tin ấy không làm tôi vui mấy. Người ta nói quanh vùng này, đơn vị chúng tôi đã bị thiệt hại nặng nề. Tôi hỏi thăm Cát và An be. Cũng chẳng ai biết gì cả…

Tôi lang thang khắp nơi, tiếp tục tìm kiếm; tình cảm lạ lùng…

Lại một đêm, rồi lại một đêm nữa, tôi cắm trại như một anh da đỏ. Cuối cùng, tôi được tin tức đích xác và đến quá trưa, tôi đến được văn phòng đại đội Viên đội nhất giữ tôi lại. Hai ngày nữa đại đội tôi sẽ về. Không cần thiết phải cho tôi đi tìm họ.

– Thế nào, về nghỉ phép khoái chứ? – Anh ta hỏi tôi.

– Tương đối thôi, – Tôi nói.

– Phải, phải, – Anh ta nói, – Giá mà không phải đi nữa nhỉ!

Ấy cái nửa sau bao giờ cũng hỏng bét vì thế đấy. Tôi đi lang thang cho đến sáng thì gặp đại đội trở về, xám ngắt, bẩn thỉu, nhăn nhó và buồn bã. Thế là tôi chồm lên, lao vào giữa hàng quân, đưa mắt sục sạo. Đây là Jađơn, đây là Muynlơ đang xì mũi và đây là Cát và Cốp nữa. Chúng tôi xếp đặt ổ rơm cạnh nhau. Nhìn thấy chúng nó, tôi tưởng như mình có lỗi gì mà thực ra chẳng có gì phải nghĩ như thế. Trước khi đi ngủ, tôi lấy chỗ bánh rán và mứt sệt còn lại ra để cho chúng nó cũng được hưởng một tí.

Hai cái bánh rán giấu ở gối bắt đầu mốc; nhưng vẫn còn ăn được như thường. Tôi giữ lại phần tôi và đưa cho Cát và Cốp những cái nguyên vẹn. Cát nhai và hỏi:

– Bánh nhà cậu làm phải không?

Tôi gật.

– Đúng, cứ ăn là biết ngay, – Anh ta nói.

Tôi gần phát khóc. Tôi không nhận ra mình nữa.

Tuy vậy, bây giờ tôi đã ở đây với Cát, với An be và những đứa khác nữa, mọi việc sẽ tốt đẹp hơn. Tôi đã trở về đúng chỗ của tôi.

– Cậu may đấy, – Cốp thì thầm với tôi trước khi ngủ, – Người ta nói cánh mình sẽ sang Nga.

Sang Nga! Nếu vậy không phải là chiến tranh nữa.

Phía xa xa, mặt trận gầm rống. Vách lán trú quân rung chuyển.

Mọi người cuống cuồng chải chuốt. Hết loạt điểm danh này đến loạt điểm danh khác. Người ta kiểm tra chúng tôi lu bù. Cái gì rách là được đổi ngay lấy cái lành. Thế là tôi vớ được một cái áo mới toanh, không chê vào đâu được, còn Cát, dĩ nhiên là được cả một bộ trang phục đầy đủ. Có tin đồn là đình chiến, nhưng một ý kiến khác nghe có lí hơn, ấy là chúng tôi sắp được chuyển sang Nga. Nhưng tại sao sang Nga lại phải ăn mặc khá hơn? Cuối cùng sự thật dần dần sáng tỏ.

Hoàng đế Đức sắp đến duyệt binh chúng tôi. Vì thế mới chuẩn bị rối tinh lên như vậy.

Tám ngày liền, người ta ngờ chúng tôi đang đóng trong một trại tân binh, mọi người làm việc và tập tành thật là ghê gớm. Ai cũng nhăn nhó và cáu kỉnh vì sự chải chuốt quá đáng như vậy không thích hợp với chúng tôi, những kiểu đi duyệt binh lại càng không hợp nữa. Chính những cái ấy làm người lính bực hơn cả chiến hào.

Cuối cùng, ngày giờ ấy đã đến. Chúng tôi đứng nghiêm, im phăng phắc và hoàng đế xuất hiện.

Chúng tôi tò mò muốn biết dáng điệu của ngài thế nào. Ngài đi dọc trước hàng quân và nói cho đúng, tôi cũng hơi thất vọng: cứ như những bức chân dung tôi thấy, tôi tưởng ngài phải to lớn hơn, đường bệ hơn và nhất là tiếng nói phải sang sảng hơn mới đúng.

Ngài phân phát những huân chương chữ thập sắt rồi nói chuyện với người này người khác. Sau đó, chúng tôi rút lui.

Thế rồi, chúng tôi bắt đẩu bàn tán. Jađơn nói bằng giọng ngạc nhiên:

– Ấy đấy vị thủ lĩnh tối cao đấy. Ai cũng phải đứng nghiêm trước ngài, không trừ một ai? – Nó nghĩ một lúc – Trước mặt ngài, cả đến Hinđenbua (Thống chế tư lệnh Đức ở mặt trận miền Đông năm 1915) cũng phải đứng nghiêm chứ?

– Đúng, – Cát nói.

Jađơn chưa nói hết. Nó nghĩ một lúc rồi hỏi:

– Một ông vua có phải đứng nghiêm trước một vị hoàng đế không nhỉ?

Chẳng ai biết sự thực ra sao, nhưng chúng tôi không tin là như vậy. Cả hai vị đều đã cao cấp lắm rồi, chắc hẳn cái khoản đứng nghiêm chỉnh ấy không thể có được giữa hai vị với nhau.

– Cậu nói những chuyện vớ vẩn gì thế! – Cát nói.

– Cái chính là cậu, cậu phải đứng nghiêm, thế thôi.

Nhưng Jađơn cứ bị ám ảnh mãi, óc tưởng tượng của nó rất nghèo nàn, thế mà lần này lại phong phú gớm.

– Này, – Nó nói, – Tớ không thể nào hiểu được một vị hoàng đế mà cũng phải đi ỉa như tớ!

– Ấy, ông bạn của tôi ơi, thế mà vẫn cứ phải đi đấy, cậu có thể cầm chắc như thế. – Cốp vừa nói vừa cười.

– Một thằng gàn cộng với mày thành hai thằng gàn, – Cát thêm vào, – Mày đâm ra lẩm cẩm rồi đấy Jađơn ạ, đi ỉa ngay lập tức đi, cho đầu óc mày nó tỉnh táo ra và không ăn nói như bọn trẻ con thò lò mũi xanh nữa.

Jađơn bỏ đi.

– Nhưng tớ muốn biết một điều, – An be nói. – Nếu hoàng đế mà nói không, liệu chiến tranh có thể xảy ra không nhỉ?

– Riêng tớ nghĩ thì vẫn xảy ra, – Tôi nói, – Người ta nói đâu chính ngài cũng không muốn chiến tranh.

– Phải, có lẽ mình ngài thì chưa đủ, những trên thế giới có độ hai chục hoặc ba chục người nữa, cùng với ngài, đều nói không cả, thì chắc là đủ lắm.

– Có thể như vậy? – Tôi nói vẻ nhượng bộ, – Nhưng chính cái hai hay ba chục người ấy lại muốn có chiến tranh cơ mà.

– Càng nghĩ càng thấy kì quặc, – Cốp nói tiếp. – Chúng mình ở đây để bảo vệ tổ quốc của chúng mình.

– Nhưng tụi Pháp chúng nó cũng ở đây để bảo vệ tổ quốc của chúng nó. Vậy ai có lí?

– Có lẽ cả hai cùng có lí, – Tôi nói bừa.

– Cho được đi, – An be nói (xem điệu bộ nó, tôi biết nó sắp hỏi tôi một câu hóc búa đây). – Nhưng các giáo sư của chúng mình, cha cố của chúng mình, các báo chí của chúng mình đều nói rằng chỉ có chúng mình mới có chính nghĩa, và tớ cũng mong là như thế. Còn bọn giáo sư, bọn linh mục và báo chí của tụi Pháp lại nói rằng chỉ chúng nó mới có chính nghĩa. Như vậy thì ra làm sao?

– Mình cóc hiểu gì cả, – Tôi nói, – Dù sao thì cũng là chiến tranh và mỗi tháng nó lại thêm vào một số nước nữa tham gia.

Jađơn lại vào. Nó vẫn còn bứt rứt và nó chen ngay vào câu chuyện, hỏi tại sao chiến tranh lại nổ ra?

– Thông thường, là tại một nước này xúc phạm nặng nề đến một nước kia. – An be trả lời với giọng kẻ cả.

Nhưng Jađơn làm ra bộ ngớ ngẩn:

– Một nước ư? Tớ không hiểu. Nhưng một quả núi của nước Đức làm sao lại có thể xúc phạm một quả núi của nước Pháp được, một con sông, một khu rừng, một cánh đồng lúa mì, cũng thế thôi.

– Sao mà mày ngu đến thế, hay là mày muốn khôi hài. – Cốp lầu bầu. – Tao có định nói thế đâu.

– Một dân tộc này xúc phạm một dân tộc kia.

– Nếu vậy thì tớ ở đây làm gì – Jađơn đáp lại. – Tớ chả thấy bị xúc phạm tí nào cả.

– Người ta lại phải trình với mày với mình nữa hay sao? – An be nói với giọng bực tức. – Cái hạng dân ngu khu đen như mày thi ai đếm xỉa đến.

– Nếu vậy lại thêm một lí do nữa để tớ trở về nhà. – Jađơn nhấn mạnh.

Mọi người cười ồ lên.

– Thật đồ ngu như lợn, đây là một dân tộc nói chung, nghĩa là nhà nước. – Muynlơ thét lên.

– Nhà nước, nhà nước (vừa nói Jađơn vừa búng ngón tay một cái ranh mãnh) những bọn xen đầm, cảnh sát, thuế má, đấy nhà nước của các cậu đấy. Nếu những cái đó làm cho cậu thích thú thì tớ xin bái phục cậu.

– Đồng ý. – Cát nói – Lần đầu tiên cậu nói được một câu có nghĩa lí đấy, Jađơn ạ; giữa nhà nước và tổ quốc, quả là có một sự khác nhau.

Nhưng cái này đi đôi với cái kia. – Cốp suy nghĩ.

– Làm gì có một tổ quốc mà lại không có nhà nước?

– Đúng! – Cát đáp – Nhưng cậu thử nghĩ mà xem, chúng ta hầu hết là con nhà bình dân, và ở Pháp cũng vậy, phần đông là lao công, thợ thuyền và dân làm thuê. Tại sao một anh thợ khóa và một anh thợ giày người Pháp lại muốn đánh chúng ta? Không, đó chỉ là những chính phủ. Trước khi đến đây, mình chưa hề gặp một người Pháp nào và phần đông người Pháp đối với chúng ta cũng thế thôi. Chẳng ai hỏi ý kiến họ, cũng như chẳng ai hỏi ý kiến chúng mình bao giờ.

– Vậy tại sao lại có chiến tranh? – Jađơn hỏi.

Cát nhún vai:

– Phải có những người kiếm chác được trong chiến tranh được chứ.

– Ấy! Tớ không phải cái hạng người ấy đâu nhé! – Jađơn cười khẩy.

– Chẳng phải cậu cũng chẳng phải ai trong số những người ở đây.

– Vậy ai kiếm chác được trong chiến tranh? – Jađơn gặng – Chiến tranh cũng chẳng có lợi lộc gì cho hoàng đế. Ngài đã có đủ mọi thứ rồi cơ mà…

– Chớ nói thế. – Cát đáp. – Cho đến bây giờ, hoàng đế chưa làm một cuộc chiến tranh nào. Mà bất cứ vị hoàng đế nào mà chả cần ít ra là một cuộc chiến tranh, nếu không thì làm sao mà nổi danh được. Cậu hãy xem trong những quyển sách giáo khoa thì biết.

– Các vị tướng cũng nhờ có chiến tranh mà nổi tiếng đấy. – Đêtơrinh nói.

– Nổi tiếng hơn cả là những vị hoàng đế ấy nữa chứ? – Cát xác nhận.

– Chắc hẳn đằng sau bọn này còn có những người khác cũng muốn chiến tranh mang lại lợi lộc cho họ chứ? – Đêtơrinh lầu bầu.

– Tớ cho rằng nó là một thứ bệnh phát sốt thì đúng hơn. – An be nói. – Thật ra chẳng ai muốn chiến tranh cả, thế mà đùng một cái, nó đến. Chúng mình không muốn chiến tranh, những người khác cũng nói vậy; thế mà một nửa nhân loại đang lăn xả vào đấy.

– Nhưng ở phía bên kia, chúng nó nói dối nhiều hơn bên chúng mình, – Tôi nói. – Các cậu hãy xem những tờ giấy bắt được trong người bọn tù bình thì biết; chúng nó nói rằng ở Bỉ, chúng mình ăn thịt cả trẻ con… Những thằng khốn nạn viết lách như vậy phải đem mà treo cổ lên. Những thằng ấy là thủ phạm chính cống đấy.

Muynlơ đứng dậy:

– Dù sao thì chiến tranh diễn ra ở đây còn hơn ở bên Đức. Các cậu hãy nhìn những cánh đồng hố trái phá kia kìa?

– Đúng đấy, – Jađơn hòa vào, – Nhưng chẳng có tí chiến tranh nào cả thì còn tốt hơn nữa.

Nó đi ra có vẻ tự hào, vì nó đã cho chúng tôi, bọn lính tình nguyện có học thức, một bài học. Ý kiến của nó rõ ràng là điển hình; người ta luôn luôn vấp phải cái ý kiến ấy, mà không có cách nào đối đáp lại cho hẳn hoi, vì cái ý kiến ấy gạt hết tất cả mọi kiểu suy luận khác. Tình cảm dân tộc của anh lính quèn chỉ bao gồm có việc anh ta phải đến đây, chỗ mặt trận này và nó dừng lại đấy; còn những gì khác thì anh ta nhìn nhận bằng con mắt thực tiễn và phán đoán theo tâm lí của anh ta.

An be nằm ườn trên cỏ, có vẻ khó chịu.

– Thôi nói làm quái gì đến cái của khỉ ấy nữa!

– Vả lại nó có thay đổi tí gì đâu. – Cát nói.

Khổ nhất là chúng tôi phải trả lại hầu hết những quần áo vừa được lĩnh, rồi người ta quăng lại cho chúng tôi đống quần áo cũ. Những của tất chỉ dùng cho việc phô trương thôi. Đáng lẽ sang Nga, chúng tôi lại trở ra tiền tuyến.

Dọc đường, chúng tôi đi qua một khu rừng thảm hại với những thân cây bị tiễn gãy xơ xác và mặt đất bị cày nát lên. Ở vài chỗ, có những cái hố khủng khiếp.

– Mẹ kiếp! Chỗ này nó nã khiếp lắm đây, – Tôi nói với Cát.

– Mìn, – Anh ta vừa trả lời vừa ra hiệu cho tôi nhìn lên không.

Nhiều xác chết mắc trên cành cây. Một anh lính trần truồng như ngồi xổm trên một cái chạc cây, đầu vẫn đội mũ. Nói cho đúng, trên cây chỉ có một nửa người của anh ta, cái mình thiếu chân.

Tôi hỏi tại sao lại thế

– Cậu ta vừa bị nó lột trần ra đấy mà. – Jađơn lầu bầu.

Cát nói:

– Thật là kì quặc, bọn tờ đã nhiều lần nhìn thấy thế. Khi cậu bị một quả mìn, thế là quần áo cậu bị tụt phăng đi đâu mất. Đó là do sức ép của không khí.

Tôi lại nhìn chỗ khác. Đúng như lời anh ta nói.

Chỗ này chỉ móc độc có những mảnh quân phục, chỗ kia dính bết một đống lầy nhầy, máu me, mới đây là những chân tay người. Một thân hình nằm đó với một mảnh quần đùi ở một chân, và cái cổ áo quân phục quanh cổ. Ngoài ra hắn gần như trần truồng, quần áo của hắn rải rác trên một cái cây. Không có hai cánh tay, khác nào chúng bị xoắn lại mà giật ra.

Tôi nhìn thấy một cánh tay cách đó hai mươi bước, trong bụi rậm.

Người chết úp mặt xuống đất. Ở chỗ cánh tay bị giật văng đi, mặt đất đen ngòm những máu. Dưới chân hắn lá bị nhầu nát y như hắn vẫn còn giẫm chân lên.

– Không phải đùa Cát nhỉ, – Tôi nói.

– Một mảnh trái phá vào bụng cũng không phải đùa đâu, – Anh ta vừa trả lời vừa nhún vai.

– Đừng có cảm động nhé, – Jađơn nói.

Sự việc xảy ra chắc chưa lâu lắm, vì máu hãy còn tươi. Những người mà chúng tôi trông thấy đều đã chết cả; nên chúng tôi không dừng lại mà chỉ báo cho trạm quân y gần đấy. Vả lại chúng tôi có phải làm nhiệm vụ của ngựa cáng đâu.

Có lệnh cử một đội trinh sát xuất phát để dò xét vị trí địch còn được phòng thủ đến mức độ nào. Vừa đi phép về, tôi cảm thấy ngường ngượng trước mặt anh em, nên tôi xung phong vào đội trinh sát. Sau khi bàn bạc kế hoạch hành động, chúng tôi trườn đến hàng rào dây thép gai rồi chia nhau, bò lên phía trước, mỗi người một ngả. Một lúc sau tôi thấy một hố trái phá không sâu lắm, tôi liền tụt xuống. Từ chỗ ấy tôi quan sát khắp chung quanh.

Trận địa bị một hỏa lực vừa phải của súng máy quét. Đạn tưới đều bốn phía, tuy không ác liệt lắm nhưng cũng đủ làm cho chúng tôi không dám nhỏm người lên quá cao.

Một chiếc pháo sáng mở tung cái dù ra trên không trung. Mặt đất bị lạnh cứng lại dưới luồng ánh sáng nhợt nhạt ấy. Sau đó bóng tối lại ập xuống, mù mịt hơn nữa. Trong chiến hào người ta cho biết là có lính da đen ở phía trước mặt chúng tôi. Thật là rầy rà, khó mà nhìn rõ chúng, hơn nữa, chúng trinh sát rất giỏi. Nhưng kể cũng lạ, nhiều khi chúng rất dại dột, vì thế một lần Cát và Cốp đang thám thính, đã hạ được những tên phản trinh sát da đen, vì những tên này vừa đi vừa hút thuốc. Cát và Cốp chỉ việc nhắm những chấm đỏ lập lòe mà bắn.

Cạnh tôi, một quả đại bác hạng nhẹ rít lên. Tôi không nghe thấy tiếng nó đến, nên khiếp quá. Đồng thời một sự sợ hãi vô ý thức xâm chiếm lấy tôi. Chỉ có mình tôi ở đây và gần như bị chìm ngập trong bóng tối. Không biết chừng từ lâu đã có một đôi mắt ở một hố trái phá đang theo dõi tôi và một quả lựu đạn đang sẵn sàng ném tới, xé nát tôi ra từng mảnh. Tôi cố trấn tĩnh lại. Không phải đây là lần đầu tôi đi trinh sát, hơn nữa, nó cũng không có gì đặc biệt nguy hiểm. Nhưng là lần đầu từ khi nghỉ phép về, tôi đi thám thính và tôi không nắm được khu vực này mấy.

Tôi tự nhủ rằng xúc động như vậy là ngu ngốc quá, rằng trong bóng tối chẳng có cái gì rình mò cả, nếu không hỏa lực đời nào lại rời rạc thế. Nhưng vô ích. Những ý nghĩ lộn xộn quay cuồng trong óc tôi: tôi nghe thấy những lời vỗ về của mẹ tôi, tôi trông thấy những người Nga râu phất phơ, đứng tựa hàng rào; trước mặt tôi hiện lên hình ảnh sáng sủa và tuyệt diệu của một căng tin với những chiếc ghế ngồi, hình ảnh của một rạp chiếu bóng ở Valăngxiên; qua trí tưởng tượng nhức nhối của tôi, tôi thấy một họng súng đen ngòm, tàn nhẫn, đang xé địch một cách im lặng, đang đe dọa tôi và theo dõi từng cử động của cái đẩu tôi. Mồ hôi toát ra đầm đìa… Tôi vẫn nằm yên trong hố. Tôi nhìn đồng hồ, mới chỉ có mấy phút trôi qua. Trán tôi ướt, lồng mắt ướt đẫm, tay tôi run lên và tôi thở hổn hển, khe khẽ. Đó chỉ là một cơn sợ, một cơn sợ hãi xấu xa và mãnh liệt làm tôi không dám nhô đầu ra và tiến lên.

Sự hoảng loạn của tôi tràn ra như một nồi cháo đang sôi, làm cho tôi chỉ muốn nằm ì ra đó. Chân tay tôi dính chặt xuống đất; tôi đã toan trỗi dậy, nhưng vô ích, chúng không muốn rời khỏi mặt đất. Tôi nép mình xuống đất, tôi không thể nào tiến lên một bước được, tôi quyết định cứ ở lại đây, nằm dài ra. Nhưng ngay lúc đó, tôi bị một ý nghĩ hổ thẹn, hối hận và có cả cầu an nữa xâm chiếm lấy tôi. Tôi ngẩng lên một tí, để nhìn xem những gì đã xảy ra.

Đôi mắt tôi nóng rực vì trong bóng tối, tôi đã căng mắt nhìn trừng trừng. Một chiếc pháo sáng vọt lên tròi. Tôi lại co rúm cả người.

Trong tôi diễn ra một cuộc đấu tranh hỗn loạn và vô ý thức, tôi muốn bò ra khỏi hố, thế mà tôi vẫn cứ chúi vào đấy. Tôi tự nhủ: “Bổn phận của mình, bạn bè của mình; đây có phải là một mệnh lệnh ngu ngốc đâu.”

Nhưng ngay sau đó. “Làm quái gì tất cả những cái ấy. Chỉ có một đời sống, không được để nó mất đi…” Tất cả những cái này là do kì về nghỉ phép đây. Tôi nghĩ một cách cay đắng, như để tự bào chữa cho mình.

Nhưng chính tôi cũng không tin lời bào chữa ấy. Tôi cảm thấy vô cùng rời rã. Tôi từ từ nhỏm dậy, đưa cánh tay ra phía trước, trong khi lưng tôi trườn theo; bây giờ tôi đã nằm nửa người trên miệng hố trái phá. Nhưng tôi chợt nghe thấy cái gì, nên tôi giật mình lùi lại. Mặc dầu tiếng ầm ì của pháo binh, tôi cũng vẫn nhận thấy rõ ràng những tiếng lào xào. Tôi lắng nghe: tiếng động ấy ở phía sau tôi. Đó là người của ta đang vượt chiến hào. Bây giờ tôi lại nghe cả tiếng nói khe khẽ. Trong đám ấy hình như có cả tiếng Cát.

Bất giác, một hơi nóng ấm lạ kì tràn ngập cả người tôi. Những lời nói ấy, vài ba tiếng thì thầm ấy, những bước chân trên chiến hào phía sau tôi, đã lập tức lôi tôi ra khỏi cảnh cô đơn khốc liệt của sự sợ chết mà tôi gần như bị vất vào đó. Những tiếng nói ấy còn hơn cả sự sống của tôi. Chúng hơn cả sự có mặt của người mẹ, hơn cả sự khiếp sợ; chúng là một trong những sức mạnh nhất trên dời, che chở hiệu lực nhất cho tôi: “Đó là tiếng nói của các bạn tôi.”

Tôi không còn là một mảnh đời run rẩy, cô đơn trong bóng tối nữa; tôi gắn bó với họ và họ với tôi; chúng tôi đều có những cái sợ giống nhau và một cuộc sống giống nhau; chúng tôi kết hợp với nhau một cách vừa đơn giản vừa sâu sắc. Tôi muốn vục mặt vào trong những giọng nói ấy, vào trong mấy tiếng thì thầm ấy đã cứu giúp tôi và sẽ còn nâng đỡ tôi mãi.

Tôi trườn ra khỏi hố một cách thận trọng và bò như một con rắn. Rồi tôi đi lom khom; mọi sự yên lành cả; tôi xác định phương hướng, tôi nhìn chung quanh, nhận xét hỏa lực pháo binh ra sao để còn lần về. Rồi tôi tìm cách liên lạc với những người khác.

Cái sợ vẫn còn lẩn quẩn trong tôi, nhưng là một cái sợ có nghĩa lí hơn, nó là một sự thận trọng đi đến chỗ quá đáng. Ban đêm, trời nổi gió, những bóng đen hiện lên đây đó khi có tia lửa từ những khẩu trọng pháo phụt ra. Lúc ấy người ta nhìn thấy vừa quá nhiều, lại vừa quá ít. Nhiều lúc tôi sợ cứng người, nhưng vẫn không có gì xảy ra. Cứ thế, tôi tiến lên khá xa, rồi tôi quay lại đằng sau, nhưng theo dường vòng cánh cung. Tôi không gặp một người nào bên mình cả. Mỗi bước nhích lại gần chiến hào nhà, càng làm cho tôi thêm vững tâm; thực tình tôi chỉ mong chóng về đến nơi. Bây giờ mà xơi một viên đạn thì thật là đời khốn nạn.

Nhưng tôi lại đâm hoảng. Tôi không nhận rõ phương hướng nữa. Tôi rón rén ngồi xuống một cái hố trái phá và tìm phương hướng. Đã nhiều lần, có những anh lính khoái trí nhảy bổ vào một chiến hào, nhưng khi nhận ra là chiến hào địch thì đã quá muộn.

Tôi lại nghe ngóng một lúc nữa. Vẫn chưa đúng đường. Đám hố trái phá, chằng chịt, hỗn loạn, làm cho tôi không còn biết đằng nào mà mò nữa, đến nỗi trong lúc hoang mang tôi không biết quay về phía nào. Có lẽ tôi đã bò song song với các dãy chiến hào, nếu vậy bò quanh năm cũng không về đến nhà. Do đó tôi lại bò ngoặt sang một bên.

Những cái pháo sáng chết tiệt kia? Tưởng chừng chúng nó cháy lâu đến một tiếng đồng hồ chắc, không thể làm một cử động gì mà không cảm thấy một viên đạn réo sát bên người.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.