Tiền Không Mua Được Gì?

TƯ DUY LẠI VỀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG



Ngay cả nếu bạn đồng ý rằng chúng ta cần tranh luận về những vấn đề lớn liên quan đến đạo đức của thị trường thì hẳn bạn cũng không tin là cuộc tranh luận sẽ đi đến hồi kết. Lo ngại này là chính đáng. Nếu muốn tư duy lại về vai trò và phạm vi của thị trường, trước hết chúng ta cần biết rằng sẽ gặp phải hai trở ngại lớn, dễ gây nản chí.
Thứ nhất là tư duy thị trường đã có uy tín và quyền lực từ lâu, ngay cả sau khi thị trường vừa gặp phải thất bại lớn nhất trong 80 năm qua. Thứ hai là các cuộc tranh luận công khai xưa nay thường vô nghĩa và chứa đầy ác ý. Hai trở ngại này không phải hoàn toàn độc lập với nhau.
Trở ngại đầu tiên khá khó hiểu. Giờ đây, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 được đa phần mọi người coi là hậu quả đạo đức của việc o bế thị trường một cách mù quáng trong ba thập kỷ, trải qua nhiều thay đổi về chính trị. Nhưng khi các công ty tài chính một thời lừng danh của Wall Street gần như sụp đổ, đòi hỏi ngân sách nhà nước – vốn là thuế người dân đóng vào – phải chi một số tiền cứu trợ khổng lồ thì có vẻ cần xem xét lại vai trò của thị trường. Ngay cả Alan Greenspan, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, một “thầy cả” của tín ngưỡng tôn vinh thị trường cũng phải thừa nhận mình bị rơi vào “tình trạng choáng váng mất niềm tin” vì hóa ra thị trường tự do không còn khả năng tự sửa chữa sai lầm [20]. Trang bìa The Economist – một tạp chí ủng hộ mạnh mẽ thị trường tự do của Anh – đã đăng hình một cuốn giáo trình kinh tế học đang tan thành bùn dưới hàng tít lớn: KINH TẾ HỌC ĐÃ SAI Ở ĐÂU? [21]
Kỷ nguyên tôn vinh thị trường đi đến kết cục thảm hại. Vì vậy, giờ hẳn là lúc để nghĩ về đạo đức, là khoảng thời gian để suy ngẫm lại, thật kỹ càng, về niềm tin vào thị trường. Nhưng mọi chuyện không diễn ra như thế.
Thất bại ngoạn mục của thị trường tài chính nhìn chung không làm suy giảm đi bao nhiêu niềm tin vào thị trường. Thực tế là cuộc khủng hoảng tài chính làm tổn thất uy tín của chính phủ nhiều hơn là của ngân hàng. Năm 2011, các cuộc điều tra cho thấy người dân Mỹ cho rằng chính phủ liên bang có lỗi lớn hơn các thể chế tài chính Wall Street trong vấn đề kinh tế mà đất nước đang gặp phải – với tỷ lệ cao hơn 2:1 [22].
Cuộc khủng hoảng tài chính đã nhấn sâu nước Mỹ và phần lớn thế giới vào một đợt suy thoái kinh tế tồi tệ nhất kể từ thời Đại Khủng hoảng và khiến hàng triệu người mất việc làm. Nhưng nó vẫn không làm cho chúng ta suy nghĩ lại một cách nghiêm túc về thị trường. Tại Mỹ, hậu quả rõ ràng nhất về mặt chính trị chỉ là sự nổi lên của phong trào Tea Party của những người thù ghét chính phủ và ủng hộ thị trường tự do quyết liệt đến mức Ronald Reagan cũng phải xấu hổ. Mùa thu năm 2011, phong trào Chiếm phố Wall đã gây ra những cuộc biểu tình ở khắp các thành phố trên nước Mỹ và cả thế giới. Người dân biểu tình chống lại sức mạnh của các ngân hàng và công ty lớn và phản đối sự bất công về thu nhập và tài sản đang ngày càng gia tăng. Mặc dù có xu hướng tư tưởng khác nhau, nhưng cả hai đều thể hiện sự giận dữ kiểu dân túy trước cách nhà nước tung tiền cứu trợ [23].
Mặc dù các phong trào biểu tình đã lên tiếng phản đối, nhưng một cuộc tranh luận nghiêm túc về vai trò, phạm vi của thị trường gần như vẫn chưa xuất hiện trong đời sống chính trị. Đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa, như bấy lâu nay, vẫn cãi cọ về thuế, chi tiêu, thâm hụt ngân sách, chỉ khác là giờ tư tưởng đảng phái của họ mạnh hơn và gần như không có khả năng tạo cảm hứng hay thuyết phục người khác. Ảo tưởng về nền chính trị vỡ tan khi người dân trở nên chán nản trước một hệ thống chính trị không thể hành động vì lợi ích chung hay làm gì để giải quyết những vấn đề gay cấn nhất.
Trở ngại thứ hai ngăn cản chúng ta tranh luận về giới hạn đạo đức của thị trường là các cuộc tranh luận công khai chẳng đâu vào đâu. Giờ đây, các cuộc tranh luận chính trị chủ yếu chỉ là hai người hét vào mặt nhau trên truyền hình, những bài đả kích chua cay nặng tính đảng phái trên sóng phát thanh, những trận “ẩu đả” tư tưởng tại Quốc hội. Trong tình hình đó, thật khó tưởng tượng xã hội sẽ tranh luận nghiêm túc về những vấn đề đạo đức gây tranh cãi để đánh giá đúng giá trị của những thứ như sinh con, trẻ em, giáo dục, sức khỏe, môi trường, trách nhiệm công dân… Nhưng tôi tin là chúng ta có thể tranh luận nghiêm túc, và nó sẽ tiếp thêm sinh lực cho đời sống xã hội chúng ta.
Một số người thấy trong nền chính trị đầy ác ý này lại chứa niềm tin đạo đức thái quá: Quá nhiều người tin tưởng quá sâu sắc, quá phấn khích vào niềm tin của họ và muốn áp đặt nó cho mọi người xung quanh. Với tôi, nghĩ như vậy là hiểu sai tình hình tồi tệ hiện tại. Vấn đề mà nền chính trị đang gặp phải không phải là người ta tranh luận quá nhiều về đạo đức mà thực ra là quá ít. Và căng thẳng chính trị lên quá cao chính là vì nó hầu như không có chút đạo đức, tinh thần nào cả. Nó không thể trả lời được những câu hỏi lớn mà mọi người quan tâm.
Có nhiều nguyên nhân khiến chính trị hiện đại thiếu vắng yếu tố đạo đức. Một trong số đó là chúng ta thường tìm cách loại bỏ các khái niệm về sống đẹp ra khỏi các cuộc tranh luận công khai. Với mong muốn tránh xung đột bè phái, chúng ta thường yêu cầu các công dân phải cởi bỏ niềm tin đạo đức và tinh thần của họ trước khi bước vào diễn đàn chung. Mong muốn ấy đúng, nhưng khi ngần ngại tranh luận thế nào là sống đẹp trong chính trị, chúng ta đã tạo cơ hội thuận lợi cho tư tưởng tôn vinh thị trường và lập luận dựa vào thị trường phát triển.
Lập luận dựa vào thị trường cũng làm đời sống xã hội mất đi ý nghĩa đạo đức theo cách của riêng nó. Thị trường hấp dẫn một phần là ở chỗ nó không phán xét lựa chọn của con người. Nó không hỏi cách đánh giá giá trị hàng hóa này có tốt hơn, đáng coi trọng hơn cách kia hay không. Nếu có người sẵn lòng trả tiền để được phục vụ nhu cầu tình dục hay để mua một quả thận, và có một người trưởng thành khác sẵn lòng đáp ứng thì câu hỏi duy nhất các nhà kinh tế học đưa ra là: “Bao nhiêu tiền?” Thị trường không chỉ tay vào mặt ta và bảo: Không được. Nó không phân biệt lựa chọn nào cao quý, lựa chọn nào tầm thường. Mỗi người tham gia giao dịch được tự quyết định mình đặt giá bao nhiêu cho hàng hóa, dịch vụ được đem ra mua bán.
Quan điểm không phán xét đối với các giá trị là cốt lõi của lập luận dựa vào thị trường và nó giải thích đáng kể tại sao thị trường được ưa chuộng. Nhưng khi ngại ngần tranh luận về đạo đức và tinh thần, cộng với việc quá o bế thị trường, chúng ta đã phải trả giá đắt. Dòng chảy đạo đức và tinh thần công dân trong các cuộc tranh luận chung đã cạn kiệt. Nền chính trị kiểu kỹ trị, quản lý đã hình thành, ảnh hưởng xấu đến rất nhiều xã hội hiện nay.
Một cuộc tranh luận về giới hạn đạo đức của thị trường sẽ cho phép chúng ta, với tư cách là một xã hội, quyết định được ở đâu thì thị trường có thể mang lại điều tốt đẹp và ở đâu thì không. Nó cũng sẽ tiếp thêm sinh lực cho nền chính trị khi mời gọi các quan điểm khác nhau về sống đẹp quay trở lại diễn đàn chung. Vì những lập luận này còn đem lại điều gì nữa? Nếu bạn đồng ý rằng việc mua bán một loại hàng hóa sẽ làm hư hỏng, suy thoái hàng hóa ấy thì hẳn bạn phải tin rằng có cách khác phù hợp hơn để đánh giá giá trị của nó. Thật vô nghĩa nếu nói rằng một hành vi, một vai trò nào đó có thể bị hư hỏng – chẳng hạn như làm cha mẹ hay tư cách công dân – nếu bạn không nghĩ rằng có cách làm cha mẹ, hoàn thành nghĩa vụ công dân tốt hơn những cách khác.
Những phán xét đạo đức nói trên chính là nguyên nhân khiến thị trường
vẫn có một số rất ít giới hạn nó chưa vượt qua. Chúng ta không cho phép cha mẹ bán con hay công dân bán phiếu bầu. Và một trong những lý do chính là rõ ràng chúng ta đang phán xét: chúng ta tin rằng bán con hay bán phiếu bầu có nghĩa là chúng ta đánh giá sai giá trị của con cái, của lá phiếu, đồng thời gieo mầm cho nhiều tư tưởng xấu.
Khi suy ngẫm về giới hạn đạo đức của thị trường, chúng ta sẽ không tránh được những vấn đề trên. Nó đòi hỏi chúng ta phải công khai tranh luận cùng nhau về cách thức đánh giá giá trị của những điều tốt đẹp mà chúng ta coi trọng. Thật điên rồ nếu ta hy vọng rằng một môi trường tranh luận chung chú trọng hơn về đạo đức, kể cả khi chú trọng hết mức có thể, sẽ giúp chúng ta đồng thuận về mọi vấn đề đang gây tranh cãi. Nhưng nó sẽ làm cho xã hội lành mạnh hơn. Và nó sẽ khiến chúng ta biết rõ hơn cái giá mình phải trả khi sống trong một xã hội mà mọi thứ đều đem ra mua bán được.
Mỗi khi nghĩ về đạo đức trong thị trường, chúng ta liên tưởng ngay đến các ngân hàng ở Wall Street với những việc làm khinh suất của họ; các quỹ phòng ngừa rủi ro với khoản tiền cứu trợ và cải cách quy định quản lý. Nhưng thách thức đạo đức và chính trị mà chúng ta đang phải đối mặt lại trần tục hơn, rộng lớn hơn nhiều. Đó là phải tư duy lại về vai trò, phạm vi của thị trường trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa con người và cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Chú thích:

[20] Edmund L. Andrews, “Greenspan thừa nhận sai lầm trong quản lý”,
New York Times, 24/10/2008.

[21] “Kinh tế học đã sai ở đâu?”, The Economist, 16/7/2009.

[22] Frank Newport, “Người Mỹ cho rằng chính phủ liên bang có lỗi lớn hơn các thể chế tài chính trong vấn đề kinh tế”, Điều tra của Gallup, 19/10/2011, www.gallup.com/poll/150191/Americans-Blame-Gov-Wall- Street-Economy. aspx.

[23] William Douglas, “Người biểu tình Chiếm phố Wall và Tea Party có chung lý do nhưng khác mục đích”, Miami Herald, 19/10/2011; David S. Meyer, “Phong trào Chiếm phố Wall học được gì từ phong trào Tea Party”, Washington Post, 7/10/2011; Dunstan Prial, “Phong trào Chiếm phố Wall và Tea Party đều phản đối cứu ngân hàng”, Fox Business, 20/10/2011, www.foxbusiness. com/markets/2011/10/19/occupy-wall- street-tea-party-born-bank-bailouts.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.