Hãy Cười Lên Các Con
KỲ NGHỈ HÈ Ở NANTUCKET
Mỗi kỳ hè, gia đình tôi đều đi nghỉ ở Nantucket, thuộc bang Massachussetts. Ở đó ba mua hai cây hải đăng và một ngôi nhà miền quê do nhà nước cho bán đấu giá. Ba cho dời hai cây hải đăng đến sát hai bên ngôi nhà, một cây hải đăng được dùng làm phòng làm việc và phòng ngủ của ba mẹ, một cây làm phòng ngủ của ba đứa con.
Ba đặt tên cho ngôi nhà là “Chiếc Giày” để tặng mẹ, bởi vì ba bảo mẹ giống như bà lão trong bài hát “Bà lão sống trong một chiếc giày với thật nhiều trẻ con”…
Khi đi từ Montclair đến Nantucket chúng tôi thường có thói quen nghỉ đêm trong một khách sạn ở New London, thuộc bang Connecticut. Ba quen ông chủ và các nhân viên khách sạn đó. Vì vậy mỗi lần gặp là họ không ngừng trêu chọc nhau rất vui, khiến mọi người thích thú tụ tập xung quanh.
Thí dụ như chúng tôi vừa bước chân vào khách sạn là ông chủ khách sạn ồm ồm la lên:
– Trời! Trời! Ngó coi ai tới nè!
Rồi ông quay sang một nhân viên của mình, bảo:
Báo động cho bên cứu hỏa và cấp cứu tới mau, nói lũ trẻ nhà Gilbreth đã tới. Cất cái lưỡi cắt xì-gà kia vào két sắt mau.
Còn ba sẽ mỉm cười bảo:
Ái chà! Ông vẫn còn cái máy chém chết người đó hả? Tôi biết là ông rất rầu khi hay tin là cái ngón út bị đứt của con gái tôi đã mọc dài lại bằng trước. Ernestine, con đưa tay cho bác ấy xem đi con.
Ernestine chìa ngón út trái ra. Trong lần ghé trước, Ernestine đã tò mò đút tay vào máy cắt và cụt hết khoảng 2-3 ly. Máu chảy ướt hết cả thảm, còn ba thì vừa cố nhét vào tay Ernestine con búp bê để dỗ vừa hét toáng lên đòi bác sĩ cấp cứu.
Ba vừa ghi tên tụi tôi và sổ đăng ký của khách sạn vừa hỏi:
– Nè, ông chủ, lũ trẻ người Ái Nhĩ Lan của tôi có được giảm giá vì tình nghĩa đồng hương không đó? Theo giá sỉ dành cho mỗi lố một tá nghe.
Ái Nhĩ Lan! Tôi mà quấn khăn đội đầu chắc ông sẽ bảo lũ trẻ người Ả Rập cho coi. Các cháu bây giờ lên tới số bao nhiêu rồi? Năm đó lúc tính tiền tôi đếm cả thảy là bảy, nhưng năm nay coi bộ con số gia tăng lên cả chục chớ không ít.
Ba nhìn nhận:
Ờ, không sai! Rất có thể chúng tôi đã thêm thành viên kể từ lần cuối ghé đây.
Ông chủ khách sạn gọi nhân viên:
Các cậu đưa ông bà Gilbreth đây, cùng với không biết bao nhiêu đứa trẻ “người Ái Nhĩ Lan” nữa, lên các phòng 503, 504, 505, 506 và 507.Và nhớ chăm sóc tất cả thật cẩn thận đấy.
Khi chúng tôi mới đến ở mũi Capecod, vùng Nantucket, xe hơi còn bị cấm di chuyển trong bán đảo ấy, vì vậy chúng tôi phải gửi “Xế Điên” trong một ga-ra ở New Bedford. Sau này khi lệnh cấm được bãi bỏ, chúng tôi chở “Xế Điên” trên Gay Head và Sanhaty là hai chiếc thuyền chạy bằng hơi nước, chuyên chở khách từ đất liền ra bán đảo. Ba có một cách cho xe chạy xuống thuyền rất dễ sợ, cho nên khi ba de xe, mẹ luôn bắt chúng tôi phải xuống xe và đứng cách ra xa, còn ba thì phải mặc phao cứu hộ.
Mẹ vẫn bảo:
Rồi có ngày cả nhà với xe rớt xuống biển hết cho coi! Ba thì ca cẩm:
Chẳng có ai, kể cả vợ tôi, tin tưởng tôi lái xe an toàn cả! Rồi ông ra vẻ cam chịu:
Vả lại tôi biết bơi mà!
Điều được quan tâm nhất cả trong xe lẫn trong thuyền là hai con hoàng oanh mà Martha được nhận phần thưởng trong kỳ thi kể chuyện ở trường. Chúng tôi đứa nào cũng thích cặp chim này, chỉ riêng có ba là không. Ba đặt tên cho một con là “Câm mồm” và con kia là “Bảo có nghe không”. Ba luôn chê hai con chim hôi hám làm hỏng cả chuyến đi, tiếng hót nghe chói tai hơn cả tiếng đám con của ba nữa. Bác Tom có nhiệm vụ dọn sạch chuồng chim thì đặt tên một con là “Nhóc ở dơ” và con kia là “Nhỏ thùng rác”. Mẹ thì không cho phép chúng tôi dùng những từ đó và mẹ gọi chúng là “Man di” bởi vì đối với mẹ bất kỳ những gì thiếu sạch sẽ đều là man di. Còn chúng tôi thì gọi đơn giản “Nhóc” và “Nhỏ”.
Một lần, lúc Fred đang cầm lồng chim đứng ngay đầu thuyền trong khi ba cho de xe lên thuyền, chúng tôi không hiểu làm sao mà cửa lồng chim lại bất ngờ bật mở, khiến cặp chim bay vù ra. Ban đầu, chúng bay lượn trên những thùng hàng chất trên bến cảng, sau đó chúng bay lên tới mái nhà kho. Khi ba đậu xe xong, ra đến cầu tàu thì ba đứa nhỏ nhất nhà đang khóc nức nở. Tiếng khóc lớn đến mức ông thuyền trưởng nghe thấy và bước đến hỏi:
Các cháu sao thế ông Gilbreth? Có chuyện gì không ổn sao?
Ba thấy đây là cơ hội tốt để bỏ các con chim lại nên vui vẻ trả lời:
Ồ không có chuyện gì cả. Thuyền trưởng cứ việc nhổ neo đi.
Ông thuyền trưởng vẫn khăng khăng:
Không ai có quyền ra lệnh cho tôi nhổ neo khi tôi chưa muốn nhổ neo.
Quay sang Fred ông nhất định hỏi:
Có chuyện gì vậy con trai? Fred gào lên:
Nhóc và Nhỏ đã bay khỏi thuyền rồi! Ông thuyền trưởng tái mặt:
Trời! Kể từ lúc gia đình Gilbreth đi thuyền, tôi vẫn sợ có ngày xảy ra chuyện này mà!
Ba bực mình bảo:
Nhóc và Nhỏ không phải là trẻ nhà Gilbreth, ông không phải lo lắng gì cả, cứ việc nhổ neo đi.
Nhưng ông thuyền trưởng tiếp tục quay sang hỏi Fred:
Nhóc và Nhỏ họ gì vậy cháu, nói đi. Fred nín khóc:
Con không biết họ của tụi nó, chỉ biết mẹ gọi tụi nó là Man di.
Ông thuyền trưởng ngẩn ngơ:
Cháu muốn nói có hai người … man di tên là Nhóc và Nhỏ đã bị rớt khỏi thuyền rồi ư?
Fred gật đầu.
Ba tức quá hét lên chỉ vào cái chuồng không:
Là hai con chim, cái chuồng của tụi nó kia kìa. Nhóc và Nhỏ là tên của chúng, ngoài ra chúng còn có các tên khác nữa. Chúng bay mất rồi. Thôi không làm phiền thuyền trưởng nữa, ông cứ cho tàu chạy đi.
Ông thuyền trưởng vẫn cố hỏi Fred cho ra lẽ:
– Cháu thấy chúng bay đi đâu rồi hả con trai?
Fred chỉ tay lên mái nhà kho trên bến. Ông thuyền trưởng thở dài:
– Tôi không chịu nổi cảnh trẻ con khóc.
Nói rồi ông ra lệnh cho các thủy thủ.
Thế là bốn thủy thủ mang lưới leo lên mái nhà tìm cách bắt lại cặp chim. Cứ thế, với tiếng reo hò động viên của hành khách, các chú ấy đuổi theo cặp chim từ mái nhà kho đến bến cảng, rồi trở lại mái nhà kho. Cuối cùng Nhóc và Nhỏ bay mất và ông thuyền trưởng đành bỏ cuộc.
Ông nói với ba:
Tôi rất tiếc. Tôi đành nhổ neo vậy. Ba tươi rói nói với ông:
Không sao, ông đã giúp quá nhiều rồi.
Và trong suốt thời gian con thuyền lao ra bán đảo, nom ba thật thanh thản. Ba còn dụ được Martha quăng cái lồng chim hôi hám xuống biển.
Ngày hôm sau, khi chúng tôi vừa mới xếp dọn đồ đạc xong ở ngôi nhà nghỉ mát thì một thùng cạc-tông có đục lỗ trên nắp được gửi tới Fred, người gởi là ông thuyền trưởng. Ba cau có bảo ngay:
Khỏi cần nói ba cũng biết ở trong đó là cái gì. Mũi của ba rất thính.
Ba lục túi lấy bóp ra, rút tiền đưa Martha:
Con cầm tiền này xuống làng mua cái lồng khác. Ba mong lần này các con biết chăm sóc tốt hơn món quà của mình.
Ngôi nhà nghỉ mát của chúng tôi có một phòng vệ sinh nhỏ, không có nhà tắm, không có nước nóng. Ba cho rằng sống thật đơn giản trong dịp hè là một điều rất tốt cho sức khỏe. Ba cũng cho rằng phải luôn sạch sẽ nên mỗi ngày chúng tôi phải đi tắm biển ít nhất là một lần, kể cả những ngày nhiệt độ xuống thấp hoặc trời mưa giá buốt. Ba luôn đi trước dẫn đường từ nhà ra bãi tắm, một tay cầm cục xà bông, tay kia xoa ngực cho máu lưu thông. Ba chạy ào ra, rồi nhảy ùm xuống biển khiến nước bắn tung tóe. Ba lặn một hồi lâu, rồi đưa ngón chân lên không trung, rồi lại lặn mất. Cuối cùng ba trồi đầu lên mỉm cười và phun một dòng nước giữa hai răng giả làm cá voi.
Ba kêu:
Các con, ra đây mau, nước biển thật tuyệt! Nói rồi ba bắt đầu xát xà-bông lên người.
Mẹ là người duy nhất cùng với hai bé út không bơi. Mẹ rất ghét nước lạnh, nước biển mặn và áo quần tắm. Mẹ luôn bảo nước biển làm mẹ nổi ngứa, còn quần áo tắm thì quá hở hang. Ba luôn trêu mẹ mặc quần áo đi tắm biển còn kín đáo hơn quần áo thường ngày.
Ba thông thạo rất nhiều lĩnh vực, chính ba là người dạy cho chúng tôi biết bơi. Một số đứa biết bơi từ năm lên ba tuổi, còn lại biết bơi từ năm lên năm tuổi. Việc mẹ không biết bơi là một bất đồng hiếm hoi giữa ba và mẹ.
Mỗi lần bắt đầu kỳ nghỉ hè là ba lại bảo mẹ:
Hè này anh nhất định tập mình bơi cho được, dù là bỏ hết cả thời gian nghỉ hè cho việc ấy đi nữa. Mình biết là không biết bơi rất nguy hiểm mà. Nếu thuyền bị đắm thì mình xoay xở ra sao khi không biết bơi? Không lẽ mình để anh một nách phải lo cứu cả mười hai đứa con của tụi mình sao? Ít nhất cũng phải phụ với anh chớ?
Mẹ nhẫn nại chiều ý ba:
Mình yên tâm, em sẽ tập mà. Nói vậy chớ vô vọng thôi.
Mỗi lần ra đến bãi biển, ba nắm tay mẹ kéo xuống nước, ba đầu mẹ còn can đảm chạy theo ba, nhưng khi nước biển tới đầu gối là mẹ giằng lại.
Chúng tôi đứng vây quanh và hết lời động viên mẹ:
Đó, vậy đó, đúng rồi… Mẹ thấy đó, đâu có sao đâu! Mẹ coi con bơi nè, coi con nè…
Đừng có làm nước bắn lên mẹ như vậy, con biết là mẹ không thích thế mà!
Trời ạ! Lillie, lại chỗ sâu hơn chút đi. Em làm sao học bơi được khi cứ đứng trên cạn như vậy.
Ra sâu đến mấy thì em cũng chìm xuống mà!
– Đừng sợ, ra sâu hơn đi! Mình sẽ thấy khác ngay hà.
Ba kéo mẹ cho đến khi nước lên tới eo lưng của mẹ. Ba bảo mẹ:
Việc đầu tiên là học bơi như một miếng ván vậy, miếng ván trôi được thì em cũng bơi được!
Như con nè mẹ! Coi con nè mẹ!
Ba bảo tụi tôi:
Các con tránh ra nào. Coi nào, Lillie, mình thấy đó, chẳng những ván biết trôi mà các con nhỏ cũng biết bơi nữa, chẳng lẽ em lớn hơn các con mà lại không làm được sao! Bơi đi mình… Không thể nào em không nổi lên được, theo định luật thì cơ thể mình đầy hơi nên nhẹ hơn nước mà!
Mình biết em luôn chìm mà.
Đó là chuyện của hè năm ngoái. Năm nay mình phải thử lại. Hãy tỏ ra có tinh thần thể thao một chút coi nào. Có anh bên cạnh, mình không sao đâu mà!
Em không muốn thử chút nào cả!
Em không biết mắc cỡ khi nói vậy trước mặt các con sao?
Không một chút nào cả. Nhưng nếu em không chịu thử thì mình nhất định không để cho em yên phải không. Mình nhớ coi chừng không để chuyện gì xảy ra với em đó nghe.
– Đừng lo, em chắc chắn sẽ nổi lên mà!
Mẹ hít một hơi dài nằm lên trên mặt nước rồi… chìm xuống nhanh như một tảng đá. Ba đợi một lát, tin chắc theo định luật vật lý mẹ sẽ phải nổi lên. Nhưng mẹ không hề nổi lên. Ba chán quá, đành cúi xuống đỡ mẹ lên. Mẹ sặc nước nhăn nhó. Đến lúc hoàn hồn mẹ nói với ba:
Mình thấy chưa! Em đã nói rồi mà! Ba hỏi lại mẹ:
Chắc là mình không cố tình để chìm lỉm như vậy chớ?
Không! Chỉ tại định luật Archimède không ứng dụng cho em, vậy thôi.
Vừa ho sặc vừa thở hào hển, mẹ quay về nhà.
Ba nhìn theo mẹ bảo:
Ba không tài nào hiểu nổi sao lại có thể như vậy chứ. Mẹ nói đúng đó. Mẹ là một bằng chứng phủ nhận định luật Archimède!
Trước khi đi nghỉ hè ba đã hứa là không bắt tụi tôi phải học dù dưới hình thức nào. Ba giữ lời hứa, nhưng rồi chúng tôi cũng nhận ra ba luôn dạy chúng tôi mà không ra vẻ là đang dạy và vào những lúc chúng tôi không ngờ.
Thí dụ như việc học bảng ký tự mật mã Morse.
Một ngày nghỉ hè nọ ba bảo chúng tôi:
Ba nghĩ ra cách cho các con biết mật mã Morse mà không cần phải học.
Tụi tôi phản đối vì không muốn học mật mã Morse hoặc bất cứ thứ gì trong hè cả.
Ba thuyết phục:
Ba không ép. Nhưng như thường lệ, ai biết trước thì sẽ được thưởng khiến những người khác phát thèm.
Sau bữa ăn, ba lấy một cây cọ và một hộp sơn đen, vô phòng vệ sinh vẽ các ký tự Morse lên tường. Trong suốt ba ngày không rời cây cọ và vẽ khắp trên bức tường các phòng quét vôi trắng của ngôi nhà “Chiếc giày”. Trên trần phòng ngủ của chúng tôi ba vẽ ký tự Morse và những từ mẫu giúp chúng tôi nhớ.
Thí dụ: A._ = Around[7]
Khi chúng tôi nằm ngửa trên giường để ngủ thì các ký tự và chữ tương ứng cứ hiện ra trước mắt, khiến có lúc chúng tôi nhận ra mình đang lẩm bẩm:
D_.. = Dangerous[8]
[7] Around: Vùng xung quanh
[8] Dangerous: Nguy hiểm
Ba cũng vẽ những lời nhắn bí ẩn bằng ký tự Morse trên các bức tường nơi cửa và phòng ăn. Tụi tôi hỏi ba:
Ba viết gì vậy ba? Ba ra vẻ bí mật trả lời:
Nhiều thứ lắm. Nhiều thứ bí mật và rất tức cười.
Chúng tôi sang các phòng chép lại các ký tự Morse do ba vẽ rồi đem so giải mã bản tin nhắn của ba. Ba vẫn tiếp tục vẽ nhưng mắt liếc chừng chúng tôi.
Chị cả Anne than:
Phải giải mã cho được, không thì tức quá! Ernestine cũng tức bực:
Tụi mình không thể chịu được trước khi hiểu hết các tin nhắn của ba. Lúc nào em cũng thấy toàn là chấm chấm gạch gạch không à! Đến nỗi em bắt gặp mình đang lẩm nhẩm: D_.. = Dangerous. Chữ này là chữ gì đây?
Cứ thế mỗi ngày ba để trên bàn ăn một mảnh giấy ghi tin nhắn bằng mật mã Morse. Có tờ giải mã ra là: “Ai giải mã xong sớm nhất thì ra coi trong túi quần ba treo trong phòng ba mẹ có cái gì”. Hoặc là: “Nhanh lên, ra coi ở ngăn kéo bên trái của máy khâu có cái gì trước khi người khác kịp giải mã”.
Trong túi quần hoặc trong ngăn kéo có món quà nhỏ: một thanh sô-cô-la, một đồng xu, một phiếu ăn kem.
Cũng có lúc, tin nhắn chỉ là cái bẫy: “Coi chừng! Không có quà lần này nhưng lần tới sẽ có! Đọc xong con giả bộ nhảy lên reo hò như thể đã tìm ra được cái gì hay lắm khiến người khác tưởng bở cũng sẽ cổ giải mã, như vậy không chỉ mình con bị mắc lừa”
Và đúng như ba dự đoán, chỉ trong vòng vài tuần tất cả chúng tôi đã thuộc làu mật mã Morse. Rành đến mức chúng tôi trao đổi với nhau bằng mật mã Morse trong bữa ăn, bằng cách gõ nĩa lên đĩa. Cứ tưởng tượng mười hai con người cùng gõ mật mã, mà thường là gõ nhắn tin cho nhau hơn là nhận tin, thì tiếng ồn ào khủng khiếp đến chừng nào!
Thấy cách dạy bằng hình vẽ trên tường quá ư hiệu quả, ba tiếp tục dùng nó dạy môn thiên văn học cho chúng tôi. Ba bắt đầu kích thích trí tò mò của chúng tôi bằng cách: làm ra một cái kính xem thiên văn bằng một ống nhòm đặt trên cái chân đỡ của máy chụp hình. Một đêm trăng sáng ba đặt nó ngoài sân và bắt đầu quan sát các vì sao mà không thèm để mắt tới chúng tôi.
Dĩ nhiên là chúng tôi xô lấn nhau bu quanh ba, bíu lấy ba đòi xem như ba.
Ba làm bộ từ chối:
Để yên ba coi nào. Ồ ba thấy có hai ngôi sao sắp đụng nhau nè. Ồ, may quá chúng chỉ suýt đụng nhau thôi! Để coi trong chòm Đại hùng tinh có gì không nhỉ? Ôi cha! Ngôi sao này to quá, sáng quá! Tuyệt vời!
Chúng tôi nài nỉ ba mới rời cái kính ra. Thế là tụi tôi có thể thấy vòng thiên hà bao quanh sao Thổ (Saturn), ba mặt trăng của sao Mộc (Jupiter), và những miệng núi lửa trên mặt trăng của trái đất. Ba chú ý nhất đến một ngôi sao mà bạn của ba đang tham gia nhóm nghiên cứu áp dụng quy trình Michelson để đo đường kính của nó.
Đến khi ba tin chắc là chúng tôi bắt đầu say mê môn thiên văn học, ba bắt đầu vẽ những hình mới về các vì sao lên các tường phòng. Trên một bức tường ba vẽ các vì sao theo đúng tỷ lệ kích thước, từ sao Thủy (Mercury) bé xíu bằng kích thước một viên bi, cho đến sao Mộc bự cỡ trái banh bong rổ. Trên một bức tường khác ba vẽ tỷ lệ khoảng cách từ các hành tinh đến Mặt trời, sao Thủy nằm gần nhất và sao Neptune nằm xa nhất ra tận gần nhà bếp. Thời đó sao Pluto chưa được tìm ra nếu không chẳng còn chỗ nào để vẽ nó.
Tiến sĩ Harlow Shapley, giảng viên đại học Harvard, cho ba hơn 100 bức hình về các sao, quầng mây, và nhật thực. Ba treo chúng gần chân tường để cho các em bé cũng thấy được.
Ba bảo:
Các con thường nghe nói con số hàng triệu, nhưng ít người được thấy cả triệu thứ cùng một lúc. Nếu một người có một triệu đô-la thì có nghĩa là người ấy có số đô-la nhiều bằng những ô nhỏ mà các con thấy trên bàn giấy này.
Bill hỏi ba:
Vậy ba có một triệu đô-la không, ba? Ba làm bộ buồn rầu bảo:
Không, ba không có một triệu đô-la. Thay vào đó ba có một triệu đứa con. Trong cuộc đời phải chọn giữa hai thứ đó lấy một, con ạ.
Ba cũng vẽ những bảng biểu diễn so sánh khác biệt giữa đơn vị đo lường theo hệ thống thập phân và theo hệ thống của Anh, thí dụ: metre so với yard, kilogram so với pound, litre so với quart. Ba cũng vẽ 17 dấu bí mật, mỗi dấu là tượng hình của một “therblig”. Therblig là một sáng chế của ba mẹ. Hai người giải thích: mỗi cá nhân có 17 therblig, và tùy theo cách các therblig được sử dụng mà chúng sẽ khiến cho cuộc sống trở nên dễ dàng hay khó khăn cho cá nhân có các therblig đó.
Ba cho rằng một kẻ biếng nhác luôn sử dụng tốt nhất các therblig của người đó bởi vì tính lười biếng sẽ khiến người đó không làm những động tác dư thừa. Mỗi lần ba bắt đầu một cuộc nghiên cứu tìm cách tiết kiệm các bước trong một quy trình sản xuất cho một xí nghiệp, ba luôn khởi đầu bằng việc chụp hình những người có tiếng là làm biếng ở xí nghiệp ấy.
Ba bảo:
Loại công nhân mà ba cần nghiên cứu đó là kẻ ruồi bu không buồn đuổi. Xí nghiệp nào cũng có kẻ như thế.
Ba đặt ra từ “therblig” dựa trên họ Gilbreth của ba. Chúng là đơn vị căn bản cho suy luận trong chuyên ngành của ba. Và từ cách chia mọi thứ thành từng therblig, ba đã nghĩ ra những bàn đạp dùng chân có thể mở nắp thùng rác, những cái ghế đặc biệt cho các công nhân chuyên ngành, các kiểu máy đánh chữ, các thay đổi cần thiết để tăng năng suất một cái máy. Cũng nhờ vào việc dùng therblig mà ba đã hướng dẫn cho những người bán hàng ở một công ty giày lớn có thể cởi giày của khách hàng chỉ trong vòng bảy giây và đi giày lại cho khách hàng, kể cả cột dây giày, chỉ trong vòng 22 giây.
Ngày nay therblig được dùng để chỉ đơn vị động tác hoặc tưởng. Tưởng tượng có một người nam bước vào phòng tắm để cạo râu. Lại giả sử là mặt người đó đã xát xà-bông cạo râu và anh ta sẵn sàng cầm lấy dao cạo râu. Anh ta biết dao cạo râu để ở đâu, nhưng đầu tiên anh ta vẫn phải dùng mắt để tìm xem con dao ở đâu; đó là therblig đầu tiên: tìm. Anh ta nhìn thấy con dao và tia mắt anh ta dừng lại ở đó; therblig thứ nhì: tìm thấy. Therblig thứ ba sẽ là: chọn lựa, thứ tư là: cầm lấy, thứ năm: mang lên (mặt), thứ sáu: đặt vào vị trí (nghiêng cho lưỡi dao đặt đúng chỗ sắp cạo). Và cứ thế có 11 therblig khác, cái cuối cùng là: suy nghĩ.
Mỗi khi ba phân tích một công việc nào đó thì ba bắt đầu chia nó ra thành từng therblig, rồi sau đó ba tìm cách giảm thiểu thời gian cần thiết để hoàn tất các therblig đó. Tất cả những therblig được đánh ký hiệu và một khi các ký hiệu được vẽ lên tường thì ba cho chúng tôi áp dụng chúng vào các công việc nhà như dọn giường, lau bụi, quét nhà, rửa chén.
Việc dạy con bằng cách vẽ lên tường đã khiến cho ngôi nhà ở Nantucket của chúng tôi trở thành điểm hấp dẫn du khách. Tụi tôi đã từng nghe thấy các hướng dẫn viên thêu dệt nhiều điều về ngôi nhà cũng như gia đình sống trong ngôi nhà đó. Có lúc cũng có người xin phép chúng tôi cho vào xem nhà. Hôm nào dọn dẹp gọn gàng thì chúng tôi vui lòng để họ vào.
Và cứ thế, chúng tôi ngạc nhiên thấy trong sổ vàng để ở sảnh trước có những cái tên lạ hoắc.
Ba hỏi mẹ:
Bạn của mình à?
Em không nghe tới tên họ bao giờ. Chắc bạn của các con.
Đến khi chúng tôi cũng không nhận đó là bạn mình thì ba hỏi bác Tom. Bác ấy nhận ngay là bác ấy đã cho các du khách muốn tham quan được đi một tua trong nhà. Một tua của bác Tom gồm đi xem phòng ngủ các con, phòng ngủ ba mẹ với em bé, phòng vệ sinh để xem các ký tự Morse được vẽ lên tường. Một số du khách thấy quyển sổ vàng bèn viết vào mấy chữ lưu niệm cảm tưởng. Bác Tom nhận tiền bao sau khi họ tham quan xong.
Mẹ tức điên lên được:
Em chưa bao giờ thấy chuyện như thế này trong đời cả. Nhà riêng của mình để cho người lạ vào xem, nhất là có những lúc nhà bừa bộn như một con tàu sắp đắm.
Ba lại hòa hoãn hơn:
Coi nào, Lillie, chắc họ muốn tìm hiểu cách giáo dục con của mình. Mình cũng không nên ích kỷ mà không cho họ biết.
Ba ngồi dựa ngửa trên chiếc ghế dài của một nhà thờ nào đó bỏ đi mà ba nhặt về, sửa lại cho chắc rồi đánh bóng véc-ni. Ba rất thích nó vì nó phù hợp với kích cỡ của ba. Đó là cái ghế duy nhất mà ba ngồi thoải mái và tin chắc là nó không gãy sập.
Ba làm bộ bàn với mẹ:
Không biết bác Tom thu được bao nhiêu tiền nhỉ? Hay mình chính thức mở cửa cho họ tham quan và chia phần trăm với bác ấy nhỉ?
Mẹ gắt:
Mình nghĩ cái gì vậy? Sẽ không có tham quan nào hết. Ba cười cầu hòa:
Mình không thấy là anh đang nói đùa sao? Bộ anh phải vừa cười vừa nói mình mới nhận ra là anh đang nói chơi hả? Coi nào, tính khôi hài của mình đi đâu rồi?
Mẹ lắc đầu:
Em biết là em không có máu khôi hài. Nhưng anh tưởng là có những phụ nữ khác nhận ra là chồng mình đang nói chuyện đùa khi anh ta bảo là anh ta đã mua hai ngọn hai đăng và…
Ba phá ra cười nghiêng ngả, tiếng cười của ba làm căn nhà như muốn rung rinh theo, vôi vữa trên trần nhà bay lở tở trên tóc ba. Khi ba cười là mọi người bị lôi cuốn cười theo, không cách chi cưỡng lại được. Và dù mẹ có cố gắng làm mặt nghiêm, nhưng cũng chỉ được một lát rồi mẹ cũng phải phì cười.
Ba bảo:
Em nói đúng đấy. Anh còn nghĩ là chẳng có phụ nữ nào chịu để chồng mình vẽ đầy lên tường các ký tự Morse, các vì sao, và cả các mật mã therblig nữa. Lại đây nào, bà chủ. Anh xin rút lại những lời anh nói về tính khôi hài của em!
Mẹ đến bên nhẹ nhàng đưa tay phủi những bụi vôi vừa rơi trên tóc Ba.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.