Marion và Bess nghiêng mình trên những dòng chữ mà Alice đang dùng ngón tay chỉ cho họ thấy. Đây là một đoạn văn trích dẫn viết bằng thứ tiếng Anh cổ lỗ, mà hai chị em chẳng hiểu tí nào cả.
– “Tôi đã giấu các kho báu của tôi trong các hốc âm tường của mật thất, nơi mà ngày nào chúng cũng dội vang dưới những bước chân rộn rã yêu đời của các vị lãnh chúa oai phong và các bà mệnh phụ thaạh lịch thả bộ ra sông để vui đùa nhảy nhót với nhau”, Alice phiên dịch, nhờ đã từng được cha chỉ dẫn về loại chữ này.
– Em chả hiểu tại sao chị lại hứng lên như vậy. Mấy thứ ấy nào có giúp ích gì cho bọn mình đâu? Bess ngớ ngẩn nêu thắc mắc.
– Hãy động não chút xíu đi, cưng. Lâu đài Trabert đã được xây dựng theo mẫu tòa lâu đài này. John Trabert và thân phụ của ông ta đâu có lạ lẫm gì mật thất với những nơi cất giấu trong đó.
– Hẳn nhiên rồi, Marion công nhận. Nhưng tớ vẫn chưa thấy cậu muốn ám chỉ gì cả.
– Nếu các thành viên thuộc dòng họ Trabert xưa kia có một kho báu cần giấu giếm, họ chắc chắn sẽ nghĩ ngay đến mật thất của họ.
– Ủa! Nhưng tớ có thấy mật thất nào bên trong khuôn viên Trabert đâu, Marion khăng khăng cãi cố.
Alice lật qua trang và ba nữ thám tử nghiệp dư cùng nghiêng mình trên một tấm hình chụp một đãy Hành lang dài, điểm lác đác những cậy trụ bằng đá, dẫn tới một dòng sông.
– Đây rồi, cái mật thất bí hiểm ấy! Liệu ở lâu đài Trabert có chỗ nào giống như thế không nhỉ?
– Lúc chị bay thám thính bên trên khu khuôn viên, chị không để ý thấy gì sao? Bess hỏi.
– Không!… Mà tuy vậy, mình đã nhìn thấy dường như là một con đường có trồng những cây bạch anh nổi gồ hẳn lên, kiểu như là một con đường hầm vậy, ta có thể nói thế, chạy dài từ tòa lâu đài ra đến bờ sông.
– Đó hẳn phải là cái mật thất… của cậu rồi! Marioncó vẻ thích thú với ý nghĩ ấy.
Đúng lúc ấy, chợt vang lên ngoài đường phố công thức rao hàng quen thuộc của người ngư phủ già bán ngao sò.
– Alice ơi! Đó chính là người có thể chỉ giùm bọn mình đấy, Marion bảo. Ông ta rành sông Muskoka không khác gì rành con tàu của ông ta vậy.
– Đúng, mình cũng tính thử hỏi ông ta xem sao, Alice đáp.
Khi bộ ba kéo vào gian bếp, là lúc Sarah đang bận tranh cãi với người thủy thủ già.
– Vú tự hỏi không biết tại sao vú cứ tiếp tục mua của ông ấy những con sò quái gở này làm gì, bà cằn nhằn. Có ngày chúng ta đến bị ngộ độc vì chúng mất thôi.
Điều ấy vẫn không cản trở bà mua một lúc tới ba ký sò clovisse.
Vừa thấy bóng mấy cô gái, một nụ cười đã làm hằn sâu những nếp nhăn trên mặt ông già.
– Rất hân hạnh được diện kiến bà con quí nương. Nhưng tôi vẫn chưa tìm được kẻ đã phá hoại chiếc ca nô của quí nương. Tuy vậy, đâu phải tại tôi đã không đảo qua cùng khắp từ hạ lưu lên mãi thượng nguồn dòng sông. Mấy cô có muốn tôi chở đến thám thính lần nữa quanh khu nhà xưởng xưa kia không nào?
– Thôi, thôi, xin cám ơn ông ạ, Alice vừa đáp vừa cười khúc khích. Một vụ nổ cũng đủ làm con tởn tới già rồi! Nhưng nếu đường sông của ông có thể đưa con vào được tòa lâu đài thì con cũng không dám chối từ. Trong các chuyến tuần du của mình, ông có bao giờ để ý thấy một kiểu đường hầm xuất phát từ bờ sông không ạ?
– Theo tôi nhớ được thì không hề có. Còn việc đi đến đó bằng thuyền thì quả là chuyện bất khả thi vì việc chèo ngược nước là cực kỳ gian khổ đối với những cánh tay con gái như các cô. Ta chỉ có thể ghé vào bờ nhờ một ca nô mà thôi.
– Nếu vậy thì, hôm nào ông không quá bận, liệu ông có thể nào làm ơn làm phúc… cô gái “ném đá dò đường” với một nụ cười… khó mà có ai cưỡng lại được.
– Ôi! Phải nhận là đàn bà con gái mấy người quả có tài sai khiến những người đàn ông tốt bụng đến… tội nghiệp như cái thân già đây! Người thủy thủ già vừa nói vừa vỗ đùi đen dét và cười ngặt nghẽo một cách khoái trá. – Thôi được rồi, mai sáng lúc mười giờ, các cô hãy đến gặp lão tại bến neo đậu tàu. Các cô hãy thuê một ca nô có gắn máy và tôi sẽ cột chiếc thuyền nhỏ của tôi vào cho nó kéo theo. Chừng nào tới gần chân tòa lâu đài, ta sẽ thả neo và tôi sẽ lái ca nô đưa mấy cô vào sâu trong đất liền. Sau đó chúng ta sẽ cùng nhau tìm kiếm cái đường hầm của các cô.
Phương án trên rất hợp ý Alice. Cô cảm ơn ông già “tốt bụng đến tội nghiệp”. Bess và Marion thì tuyên bố sẵn sàng tham gia đoàn thám hiểm.
Trước khi để cho người ngư phủ lên đường, Aliee cho ông ta coi những vỏ sò mà cô đã moi được từ dưới ao lên, nhân chuyên mạo hiểm đầy kịch tính của mình tại lâu đài Trabert.
– Có phải đây chính là loại sò mà từ nó xưa kia người ta đã từng chiết xuất được một loại thuốc nhuộm rất quí hiếm không hả ông?
– Ôi chu cha! ông già kêu lên, choáng ngợp vì sửng sốt. Cô tìm được mấy thứ này ở đâu vậy?
Alice kể lại cho ông già nghe. Khi được biết là cô đã khám phá được một khối lượng rất lớn loại sò đó, ông ta đã huýt gió khe khẽ:
– Quả là điều kỳ thú hết sức! Nhiều năm về trước, thiên hạ có thể làm giàu chỉ nhờ khai thác các vỉa sò clovisse. Rất có thể chính đó là nơi mà dòng họ Trabert đã gây dựng được sự nghiệp của họ. Ai mà biết được?
– Điều ấy thì không lấy gì làm chắc lắm, Alice nói, nhưng con tự hỏi biết đâu các thí nghiệm của cụ John Trabert lại chẳng đã đặt cơ sở trên loại phẩm màu tự nhiên ấy.
– Gì chứ điều này thì lão già Sam thừa sức tiết lộ cho cô rất nhiều chuyện lý thú đấy.
– Sam Morimex, nhà buôn đồ cổ và đồ nữ trang kim hoàn, hả ông Ba Còn?
– Đúng. Ông ta đã từng làm việc tại nhà máy Trabert trước khi ra mở cơ sở làm ăn riêng. Ông ta biết rất nhiều về vụ John.
– Cám ơn, con phải đến thăm ông Morimex mới được.
Bess và Marion ra về sau khi người thủy thủ già bỏ đi được một lát. Còn lại một mình, Alice quyết định lợi dụng thời gian rảnh rỗi để đến thăm dò Sam Morimex. Khi cô bước vào cửa tiệm, nhà buôn đang bận đánh bóng một bộ đồ trà bằng thiếc.
– Dễ thường đã mấy thế kỷ rồi tôi không thấy mặt cô dấy! Ông ta mừng rỡ chào đón cô gái. Cô có mang theo viên ngọc và cả cái vỏ của nó, như tôi đã yêu cầu không vậy?
Mặt mày bí xị, Alice thuật lại cho người chủ tiệm vụ xui xẻo của mình, rồi hỏi ông ta xem cụ John Trabert lúc sinh tiền có quan tâm gì đến giống sò clovisse không.
Câu hỏi trên khiến Sam ngạc nhiên hết sức: xưa nay ông vẫn ngỡ mình là kẻ duy nhất biết rõ về diễn tiến công trình nghiên cứu trong địa hạt đó của người bạn thân đồng thời là chủ cũ của mình.
– Có chứ, ông ta những mong sử dụng chúng trong công nghệ sản xuất nút áo bằng xà cừ nhằm có được những sắc độ lung linh vừa đa dạng vừa tinh xảo mà các đối thủ cạnh tranh của ông không sao mô phỏng được. Hồi ấy, cơ sở sản xuất của ông ta đang dộ xuống dốc thê thảm và ông ta toan tính cải tiến kỹ thuật để đem lại cho nó một sức bật mới.
– Ông ta đã tiến hành các cuộc thí nghiệm ở đâu ạ?
– Ngay tại lâu đài chứ còn ở đâu nữa. Nhưng ông ta đã không gặp may, tội thế đấy!
– Sao ông lại nói vậy?
– Một hôm, trong một con sò, ông ta đã tìm được một viên ngọc trai lớn đại, ít ra đó là điều ông ta đã kể với tôi. Ông ta đã đem ngọc về bên Anh cho thợ kim hoàn lắp ráp và đã tính đem nó tặng cho một nữ diễn viên múa đã đính hôn với ông từ trước.
Alice vểnh tai nghe. John đã tặng viên ngọc cho Floriane trước khi nàng mất tích, hay ông đã giấu nó trong một vách tường nào đó, hoặc giả trong một hốc âm tường của mật thất. Ông đã tiết lộ bí mật về nơi cất giấu cho những ai? Biết đâu có thể là John đã tiến rất xa trong các cuộc nghiên cứu của mình và khi chờ đợi lấy được bằng sáng chế ông đã cất giấu kỹ vài ve nhỏ đựng những mẫu phẩm nhuộm nhằm che mắt những kẻ tọc mạch. Mấy gã đàn ông lảng vảng rình rập trong khu nhà không phải là không có lý do để làm thế. Chúng đang ra sức tìm kiếm hoặc là viên ngọc trai, hoặc là các ve phẩm nhuộm; và theo lời của một tên trong bọn, thì chúng đã thành công trong việc tìm được không cái nọ thì cũng cái kia rồi.
Alice sắp sửa ra về thì bị lôi cuốn bởi một món trang sức đeo dính vào dây đeo đồng hồ quả quít đặt trên một cái đệm nhỏ bằng nhung. Đó chính là vật mà ông chủ tiệm đã mua lại của lão Hector Karoja.
– Đẹp đấy chứ, cô nhỉ? ông Morimex khẽ hỏi. Đây là một đồ trang sức kiểu Anh quốc. Một kỷ vật gia truyền.
Và ông chỉ cho Alice thấy một đôi bông tai, một vòng tay, một cái broche cài áo, toàn bộ, cái nào cái nấy đều được trang hoàng bằng cùng một họa tiết như nhau, chứng tỏ chúng thưộc về một bộ sưu tập đồng nhất.
– Lão luật sư đã bán cho tôi một bộ phụ liệu trang sức trọn bộ. Nhưng lão đúng là kẻ trái tính trái nết không ai chịu nổi! Lão không tiếc công bỏ ra cả tiếng đồng hồ để cò kè bớt một thêm hai, trả giá sát nút từng đồng từng cắc như bọn… hàng tôm hàng cá ngoài chợ vậy.
– Ông nói đây là những đồ gia bảo ư? Bộ lão Karoja có tổ tiên là dân Ăng Lê sao?
– Lão ta tự nhận là thế. Tuy nhiên, nói nhỏ giữa ta và cháu với nhau thôi, có thể là lão đã trấn lột được bộ phụ liệu trang sức này từ tay một thân chủ nào đó gặp cơn túng quẫn cũng chưa biết chừng.
Lúc thấy Alice về tới, Sarah liền cho cô biết là có người đã gọi điện từ Plainville. Ông Roy hoặc con gái ông có thể nào gọi điện càng sớm càng tốt đến đồn cảnh sát ở đó không?
Alice lập tức xin nói chuyện với số máy đó. Người ta báo cho cô biết là người đàn ông vận đồ màu nâu đã khởi hành ngay tối hôm ấy để đi River City. Tại đó, hắn đã đến ngôi nhà xưởng Trabert cổ xưa, để gặp một người đàn ông…
(ĐOẠN NÀY BỊ MẤT DO SÁCH MẤT 8 TRANG, HIC
Nội dung là 3 cô gái được ông Ba Còn đưa tới lâu đài, họ thám thính sao đó và lại ra về bằng ngã cổng, và được trung úy cho quá giang, còn ông Ba Còn vẫn ở lại trên thuyền. Trong chuyến thám thính này, 3 cô gái phát hiện ra Góc thi nhân với nguồn nước suối khoáng giúp phục hồi sinh lực).
– Lên đi, các em! Xe không mấy rộng nhưng cũng thừa đủ chổ để “đóng cá hộp” cả bốn chúng ta. Nếu chị đoán không lầm thì các em đã vào… giung giăng giung giẻ với nhau trong lâu đài Trabert, phải không? Nữ trung úy bồi thêm, với một tia hóm hỉnh trong ánh mắt.
– Vâng, chị quả có tài… đoán việc như thần: cảnh sát nhà nghề có khác! Alice thú thực. Đáng lý em nên thành khẩn khai báo đầu đuôi nội vụ cho chị, nhưng…
– Nhưng… đây là một bí mật nghề nghiệp chứ gì? Chị rành em quá mà. Tuy nhiên, ít nhất em cũng nên “rò rỉ” đôi chút để trả công cho “bác tài” tốt bụng đã cho bộ ba nữ thám tử nghiệp dư các em đi nhờ xe chứ. Bộ em tin là có thể tìm gặp được Floriane trước khi quá trễ ư?
– Em đã góp nhặt được nhiều manh mối, Alice đáp. Em và hai trợ thủ đắc lực đây vừa lần theo một đầu mối quan trọng, với sự hỗ trợ của ông Ba Còn.
– Ba Còn?
– Vâng, ông già bán ngao sò ốc hến.
– Và bọn em đã bỏ ông ta lại bên bờ sông Muskoka, Bess nói xen vào. Giờ phút này, hẳn là ông già đang phải sất bất sang bang với bọn lừa đảo ấy chứ chẳng chơi đâu.
– Bọn lừa đảo nào vậy?
– Chết! Em lại vừa mắc phải chứng nhiều chuyện nữa rồi! Bess xuýt xoa trong lúc ném về Alice một cái nhìn tạ lỗi.
Cực chẳng đã, Alice đành vội vã cung cấp đôi lời giải thích qua loa và hỏi xem phải làm sao để một tàu tuần tiễu của cảnh sát có thể lên đường ngay để tìm kiếm ông Ba Còn.
– Dễ ợt chứ có gì đâu, nữ phụ tá cảnh sát trả lời. Khi về đến River City, chị sẽ “phôn” ngay cho Cục cảnh sát dường sông.
Sau đó chị nói với Alice rằng chị đang cần gặp cô để nói về Fenimore, Roseline và về thằng Jeddy Houkker bạn của bé.
– Vậy mà nó đã hứa với em là nó sẽ nghỉ chơi với thằng ấy cơ đấy, Alice nói.
– Chị thì chị sẵn sàng tin là con bé đã cố giữ tròn lời hứa, nhưng… cái thằng Jeddy ấy gây cho chị nhiều phiền toái còn hơn toàn thể bọn trẻ mà chị có nhiệm vụ quản giáo gộp lại. Mới hôm qua, chị đã bất ngờ bắt gặp quả tang nó đang tìm cách bán mắc bán rẻ một viên ngọc trai tuyệt đẹp cho một chủ tiệm kim hoàn.
– Đồ chôm chỉa được, hẳn là thế! Alice buột miệng la lớn, trong lúc nghĩ đến viên ngọc trai “vắn-số” của chính mình.
– Điều đó thì chị không dám nói chắc. Khi chị đưa Jeddy về nhà nó, mẹ nó đã một mực nói không hề biết gì về viên ngọc trai ấy. Còn Jeddy thì lại khai là chính Roseline đã cho nó trong khi Roseline thì lại nằng nặc chối cãi. Vậy thì, chị biết nghĩ sao đây?
– Thật đáng tiếc vì bé Roseline lại có dính líu đến những vụ trộm ấy! Nó quả là dễ thương hết sức.
– Jeddy có một ảnh hưởng độc hại đối với nó, nữ phụ tá cảnh sát nói tiếp. Bà Fenimore cũng nhận thức được điều đó và đã sẵn sàng gửi con gái vào nội trú, nếu chị tìm được một trường thích hợp.
– Chuyện ấy thì có gì là khó lắm đâu, Bess ngứa miệng xen vào.
– Quả vậy, nhưng chị thích gửi nó vào sống trong một gia đình đằng hoàng thì hơn. À này, Alice! Em có quen biết ai sẵn lòng nhận lo cho nó trong ít lâu không nhỉ?
– Để em thử hỏi Sarah, vú nuôi của em xem sao. Vú có mấy người anh em bà con là chủ sở hữu một trang trại. Con bé sẽ được cưng chiều ở đó.
– Chính đó là cái mà con bé cần. Roseline vốn mê cảnh thiên nhiên, yêu thích các vật nuôi, chị Masters nói vào lúc dừng xe trước ngôi nhà của gia đình Roy. Nếu em không phản đối, chị sẽ điện thoại từ nhà em để cử người tới kiếm ông già đánh bắt ngao sò.
Nữ trung úy gọi điện cho Cục cảnh sát đường sông. Viên trung sĩ trực ban trả lời rằng ông đang kẹt về mặt nhân sự và chỉ có thể “cho mượn” duy nhất một nhân viên thôi. Liệu mấy cô gái có chịu đi chung với nhân viên ấy không, để lái chiếc ca nô gắn máy về? Tất nhiên, ba cô gái đã chấp nhận đề nghị trên.
Đúng lúc họ đang từ trong nhà đi ra, thì ông Roy cũng vừa về tới.
– Đừng đi vội, Alice ơi! Ông gọi với theo. Ba có chuyện cần nói với con đây.
– Hai bạn không phiền nếu phải đi một mình mà không có tớ cùng đi chứ? Alice hỏi cặp chị em họ.
– Chị đừng lo, tụi em còn được một cảnh sát đặc nhiệm hẳn hoi bảo vệ cơ mà! Bess cười đáp.
– Chừng nào về tới, hãy “phôn” cho mình liền nhe.
Nữ phụ tá cảnh sát dẫn Marion và Bess tới tận kè neo đậu tàu của Cục cảnh sát đường sông và tạm biệt họ. Hai chị em lên một chiếc tàu tuần tiễu do trung sĩ Carney cầm lái. Chẳng mấy chốc, tòa lâu đài đã hiện ra trong tầm nhìn của họ. Hai cô gái thấy nhẹ cả người khi nhìn thấy bóng chiếc ca nô thuê bao đong đưa bập bềnh trên đầu sợi dây neo thẳng băng. Nhưng, khi lại gần, họ đã nhận ra là ông Ba Còn không có mặt trên ca nô. Và, trên bờ sông, họ cũng không thấy bóng ông già đánh bắt ngao sò đâu cả.
Trung sĩ Carney thả neo và nhảy qua chiếc ca nô nhỏ mà ông đã kéo theo tàu tuần tiễu của mình. Hai cô gái cũng bắt chước nhảy sang. Ngay khi ghé vào bờ, họ liền hăm hở tìm kiếm người ngư phủ già. Họ hầu như đã tuyệt vọng không còn mong gì tìm lại được ông ta, thì chợt Marion thoáng thấy một hình hài nằm dài gần lối vào mật thất. Cô chạy vụt tới. Chính là ông Ba Còn. Cô vừa cúi xuống thì ông ta ngồi nhỏm dậy, hai tay dụi mắt.
Marion thoạt đầu tưởng là ông đã ngủ quên, nhưng cô chợt thấy máu me đầm đìa trên mặt và trên áo sơ mi của ông.
– Ông bị thương hả? Cô gái lo lắng kêu lên.
Nghe tiếng la thảng thốt ấy, Bess và trung sĩ Carney cùng chạy lại. Người thủy thủ già đứng lên và một mực nói rằng mình cảm thấy “khỏe re”.
– Cô Alice đâu rồi? Ông lập tức hỏi.
– Đang ở nhà chị ấy, Bess trả lời.
– Ở nhà cô ấy? Bằng cách nào chứ? Cô ta bề nào cũng đâu có lọt ra ngoài bằng ngõ này được, phải không? Miệng nói, tay ông chỉ về cái lỗ hổng toác hoác trên vách tường.
– Không phải bằng ngõ đó. Mà là qua ngả đường nhựa hẳn hoi, Marion giải thích. Con sẽ kể lại đầu đuôi cho ông nghe ở dọc đường. Ông hãy đi cùng chúng con. Mà, con thuyền câu của ông đâu rồi?
– Mấy thằng ôn hoàng dịch vật ấy đã đánh tao đến sặc máu mũi và đã cướp mất thuyền rồi còn gì.
Viên trung sĩ cảnh sát giúp người thủy thủ già lần mò đến bên chiếc ca nô gắn máy mà Alice đã thuê bao, đợi tới lúc nghe tiếng động cơ nổ giòn, rồi mới leo trở lên tàu của mình.
– Ông Ba Còn ơi, giờ thì ông hãy kể cho hai đứa con nghe chuyện gì đã xảy đến với ông đi, Marion bảo, trong lúc chiếc xuồng máy chở ba người vùn vụt rẽ sóng trên đường về River City.
– Ờ, lúc ấy tao đang loay hoay mò ngao sò, thì bỗng hai người đàn ông và một thằng nhóc bất ngờ nhảy xổ ra từ đâu không rõ. Chúng đã hỏi tao xem ai đang ở bên trong lâu đài Trabert.
– Hy vọng ông đã không nói cho chúng biết chứ? Bess lo lắng hỏỉ.
– Có đấy, thế mới chết chứ! Trước khi suy trước tính sau, tao đã trả lời: “Alice Roy và hai cô bạn của cô ấy”. Tao thiệt là ngu hết biết luôn! Tao đã hiểu ra điều ấy. Điên tiết, chúng đã lệnh cho tao “biến gấp”, còn bồi thêm là chúng sẽ… chăm lo chu đáo cho “mấy con nhỏ” ấy.
– Rồi sao nữa?
– Tao tính can gián chúng, nhưng chúng cứng đầu như lừa và cãi ngang như cua vậy. Một thằng trong bọn thậm chí còn dám nói rằng Alice Roy là một… cọn “ngựa non háu đá” đáng bị xẻ thịt lột da làm trống đánh cho bõ ghét. Nổi nóng tao đã “đục” cho nó một cú ngay mặt, làm nó bị “lỗ mũi ăn trầu” luôn.
– Ông thật tốt bụng nên mới nhiệt tình bảo vệ Alice đến thế, nhưng làm thế là liều mạng quá đấy, chúng có tới ba thằng lận.
– Tao đã phải trả giá đắt cho hành dộng đó! Trong cuộc loạn đả, tao đã bị áp đảo bởi số đông, người thủy thủ già đáp. Tao nhớ là đã có nghe một tên trong bọn bảo rằng cần phải tống cổ Alice vào nhà… đá “đếm lịch” vài sấp cho chừa cái thói “thọc gậy bánh xe” vào các kế hoạch làm giàu của bọn chúng.
– Mình phải cảnh báo Alice ngay mới được! Marion tuyên bố…
Trong lúc đó, tại nhà Alice, sau khi bạn bè và chị Master đi rồi, Alice đã ăn trưa với cha. Cô đã đưa cho cha coi toàn bộ ảnh chụp và cuốn sổ agenda, cũng như đã nói đến dấu hài in lại trên vách tường rào bên trong khuôn viên, và cả những hành tung của bộ ba Cobb, Biggs và Hector Karoja nữa.
– Chắc hẳn là con đã không có dư thì giờ rảnh rỗi! Ông Roy cười nói. Những gì ba sắp cho con biết xem ra chẳng thấm vào đâu so với những chuyện phiêu lưu mạo hiểm của con hồi sáng này.
– Thế những chuyện ấy có gì giúp con làm sáng tỏ được vụ bí ẩn này không, hả ba? Alice hỏi.
– Cái đó còn tùy ở cách mà con sẽ vận dụng sự thông tin của ba.
– Ôi, ba ơi là ba! Ba là luật sư, chứ có phải là “kỹ sư cơ dầu” đâu, mà… câu giờ với con kỹ thế? Ba thừa rõ là con gái ba đang nóng lòng muốn biết đó là tin gì rồi mà…
– Tin về cô y tá đã từng chăm sóc Floriane chứ còn tin gì nữa.
– Cô Emilia Foster hả ba?
– Ừ. Rốt cuộc ba cũng đã kiếm được địa chỉ của cô ấy. Sáng mai, cô ấy sẽ rất hân hạnh tiếp chuyện với con và sẽ kể con nghe tất cả những gì mà cô ấy biết.