Trăng Lạnh
CHƯƠNG 3
Một âm thanh khẽ khàng bên ngoài cửa sổ. Một tiếng lạo xạo của tuyết.
Amelia Sachs dừng cử động. Cô liếc nhìn ra khoảng sân sau yên tĩnh, trắng xóa. Cô không nhìn thấy ai cả.
Sachs đang ở cách thành phố nửa tiếng đồng hồ xe chạy về phía bắc, một mình trong ngôi nhà vùng ngoại ô theo kiểu kiến trúc Tudor cổ xưa im lìm tựa một nấm mồ. Một sự liên tưởng phù hợp, cô nghĩ, vì chủ ngôi nhà này chẳng còn tồn tại nơi thế giới những người sống nữa.
Lại âm thanh đó. Sachs là một cô gái thành phố, quen với những tiếng động hỗn tạp của thị thành – vừa đầy đe dọa vừa dễ chịu. Sự xâm phạm vào cái yên tĩnh quá mức ở vùng ngoại ô này khiến cô bối rối.
Có phải do một bước chân không?
Nữ thám tử có vóc người cao, mái tóc đỏ, mặc chiếc quần bò màu đen, chiếc áo khoác da ngắn máu đen và áo len màu xanh lính thủy. Cô thận trọng lắng nghe một lát, lơ đễnh gãi đầu. Cô nghe được một tiếng lạo xạo nữa. Kéo khóa chiếc áo khoác xuống để có thể dễ dàng rút khẩu Glock. Thu mình. Cô nhìn nhanh ra bên ngoài. Không nhìn thấy gì cả.
Và quay lại với nhiệm vụ. Sachs ngồi xuống chiếc ghế dựa kiểu văn phòng bằng da sang trọng, bắt đầu lục soát chiếc bàn làm việc khổng lồ. Đây là một nhiệm vụ đáng nản, vì vấn đề là cô không biết chính xác cô đang tìm kiếm cái gì. Thực tế, khó có thể gọi nơi này là hiện trường vụ án. Không có khả năng thủ phạm từng tới đây, không thi thể nào được phát hiện ra ở đây, không chút tài sản ăn cướp nào được cất giấu. Nó đơn giản là ngôi nhà hầu như bỏ không của người đàn ông mang tên Benjamin Creeley, người đã chết cách đó hàng dặm và cả một tuần lễ trước khi chết đã không có mặt tại ngôi nhà này.
Nhưng cô vẫn phải lục soát, và lục soát rất kĩ lưỡng – bởi Amelia Sachs không tới đây trong vai trò cô hay đảm nhận: cảnh sát khám nghiệm hiện trường. Cô đang là thám tử chính điều tra vụ án mạng đầu tiên của mình.
Thêm một tiếng động nữa bên ngoài. Băng tuyết, cành cây, nai, sóc… Sachs lờ đi và tiếp tục cuộc lục soát đã bắt đầu từ vài tuần trước, tất cả là vì một nút thắt trên một đoạn dây vải bông.
Đoạn dây phơi dài chừng ấy đã kết thúc cuộc đời Ben Creeley, năm mươi sáu tuổi. Ông ta được phát hiện ra trong tình trạng treo lủng lẳng từ lan can ban công ngôi nhà của ông ta ở khuUpper East Side(14). Một bức thư tuyệt mệnh nằm trên bàn, không có dấu hiệu là hiện trường giả.
(14) Upper East Side: Khu bờ Đông Thượng – một khu vực thuộcManhattan, New York, nằm giữa công viên Trung tâm và sông Đông.
Tuy vậy, ngay sau cái chết của người đàn ông này, Suzanne Creeley, bà quả phụ, đã đến Sở Cảnh sátNew York. Đơn giản là bà ta không tin chồng mình tự tử. Đúng, viên kế toán kiêm doanh nhân giàu có gần đây tính khí thất thường. Nhưng bà ta cho rằng chỉ vì ông ta làm việc quá nhiều với mấy dự án đặc biệt khó khăn mà thôi. Tâm trạng ủ rũ thi thoảng xuất hiện của ông ta rất khác chứng trầm cảm dẫn tới ý muốn tự tử. Ông ta không có tiền sử về sức khỏa tâm thần hoặc các vấn đề tình cảm, và không sử dụng thuốc chống suy nhược thần kinh. Tình hình tài chính của Creeley vững chắc. Không có những thay đổi mới về di chúc hay hợp đồng bảo hiểm của ông ta. Đối tác của ông ta, Jordon Kessler, đang đi làm việc với một khách hàng ở Pennsylvania. Tuy nhiên, Kessler và Sachs đã có trao đổi ngắn gọn và ông ta khẳng định trong giai đoạn gần đây, mặc dù Creeley dường như chán nản thì, ông ta tin chắc, người bạn làm ăn của ông ta cũng không hề đả động tới ý muốn tự tử.
Sachs thường xuyên được chỉ định giúp đỡ Lincoln Rhyme trong công việc điều tra hiện trường, nhưng cô không muốn chỉ thực hiện cái công việc khám nghiệm đơn thuần ấy. Cô đã vận động bộ phận Các vụ trọng án để giành một cơ hội trở thành thám tử chính điều tra một vụ án mạng hoặc một vụ khủng bố. Ai đó tại Tòa nhà Lớn đã quyết định rằng cái chết của Creeley chắc chắn cần điều tra thêm và giao cho cô. Tuy vậy, bên cạnh sự nhất trí ý kiến là Creeley không tự tử, đầu tiên Sachs chẳng thể tìm thấy chứng cứ nào của hiện trường giả. Nhưng rồi cô đã có một phát hiện. Nhân viên khám nghiệm y tế báo cáo là Creeley khi chết bị gãy một ngón tay cái, toàn bộ bàn tay phải bị bó bột.
Điều này khiến Creeley không thắt được nút thòng lọng treo cổ, cũng không buộc được sợi dây vào lan can ban công.
Sachs biết thế vì cô đã thử hàng chục lần. Không sử dụng ngón tay cái thì không thực hiện được. Có thể Creeley chuẩn bị nó trước tai nạn xe đạp, một tuần trước khi chết, nhưng lẽ nào người ta lại thắt sẵn một nút thòng lọng treo cổ, để đấy và chờ đợi một ngày nào đó tự kết liễu cuộc đời mình.
Sachs quyết định tuyên bố là cái chết đáng ngờ và mở một hồ sơ vụ án mạng.
Tuy nhiên vụ án tiến triển theo chiều hướng khó khăn. Quy luật đối với vụ án mạng là hoặc chúng được giải quyết trong hai mươi tư tiếng đầu tiên hoặc sẽ mất hàng tháng mới có thể đóng hồ sơ lại. Chứng cứ quá ít ỏi (chai rượu ông ta uống trước khi chết, bức thư tuyệt mệnh và sợi dây) không mang lại điều gì. Không nhân chứng. Báo cáo của Sở Cảnh sát New York chỉ vỏn vẹn nửa trang giấy. Viên thám tử lúc trước đảm nhận vụ này hầu như không dành chút thời gian nào để điều tra, phong cách điển hình cho các trường hợp tự tử, và không cung cấp thêm cho Sachs thông tin gì.
Chẳng còn dấu vết để lần theo bất cứ đối tượng nào ở thành phố, nơi Creeley từng làm việc và nơi gia đình ông ta sống phần lớn thời gian. Tất cả những việc còn làm được ởManhattanlà thẩm vấn sâu hơn Kessler, đối tác của người đã chết. Lúc này, Sachs đang khám xét một trong số quá ít ỏi các nguồn manh mối còn lại: ngôi nhà vùng ngoại ô của gia đình Creeley, nơi gia đình họ thảng hoặc mới đến sống.
Nhưng Sachs không tìm thấy gì. Cô ngồi ngả người trên ghế, đăm đăm nhìn tấm ảnh mới chụp Creeley bắt tay một người trông có vẻ là doanh nhân. Họ đứng trên đường băng sân bay, phía trước là chiếc máy bay riêng của một công ti nào đấy. Mờ mờ đằng sau là những giàn khoan và ống dẫn dầu. Ông ta đang mỉm cười. Ông ta trông không có vẻ gì là chán nản – nhưng liệu có ai trông chán nản khi chụp ảnh nhỉ?
Đúng lúc ấy có một tiếng lạo xạo nữa, rất gần, bên ngoài ô cửa sổ đằng sau Sachs. Rồi một tiếng lạo xạo nữa, thậm chí gần hơn.
Đó không phải là sóc.
Khẩu Glock được rút ra, một viên đạn tròn chín li sáng bóng nằm trong ổ và bên dưới nó còn mười ba viên. Sachs lặng lẽ bước ra ngoài qua cửa chính, đi vòng sang hông ngôi nhà. Cô cầm súng bằng cả hai tay, nhưng áp sát mạng sườn (không bao giờ giơ súng ra phía trước khi đi vòng qua một góc tường vì súng có thể bị đánh bay từ phía bên cạnh, các vị đạo diễn phim ảnh luôn luôn thể hiện sai cảnh này). Một cái nhìn nhanh. Hông nhà không có bóng dáng ai. Thế là cô di chuyển về đằng sau nhà, thận trọng đặt từng bước chân trong đôi giày cao cổ màu đen lên lối đi bộ phủ băng dày.
Dùng một chút, lắng nghe.
Phải, dứt khoát đó là những bước chân. Người nào đó đang di chuyển một cách ngập ngừng, có lẽ về phía cửa hậu.
Sẵn sàng, Sachs tự nhủ.
Cô thận trọng lần về góc tường phía sau của ngôi nhà.
Đúng lúc ấy chân cô trượt khỏi một mảng băng. Cô buột một hơi thở dốc yếu ớt, bất tự giác. Cô nghĩ khó mà nghe thấy được.
Nhưng nó đủ to đối với kẻ đột nhập.
Sachs nghe thấy tiếng chân bỏ chạy nện trên sân sau, sục vào tuyết kêu lạo xạo.
Chết tiệt…
Thu mình lại – phòng trường hợp đó là động tác giả kéo mình lại gần mục tiêu, cô quan sát xung quanh góc tường và nâng nhanh khẩu Glock lên. Cô nhìn thấy một người đàn ông cao lêu khêu mặc quần bò và áo khoác dày sụ đang guồng chân hết tốc lực trong tuyết.
Rõ khỉ… Thật đáng ghét khi có kẻ bỏ chạy. Sachs vốn phải chịu thua chiều cao và các khớp xương tồi tệ của mình – tức chứng viêm khớp – và sự kết hợp này khiến việc chạy là cả một nỗi khốn khổ.
“Cảnh sát đây. Dừng lại!” Sachs cũng bắt đầu guồng chân đuổi theo người đàn ông.
Sachs phải đuổi theo một mình. Cô không hề thông báo với Cơ quan Cảnh sát hạt Westchester rằng cô đang ở đây. Nếu cần hỗ trợ cô sẽ gọi 911 nhưng cô đã chẳng kịp gọi.
“Tôi yêu cầu lần cuối cùng. Dừng lại!”
Không một lời đáp.
Họ đuổi nhau qua khoảng sân rộng rồi vào khu rừng đằng sau ngôi nhà. Thở mạnh, cơn đau phía dưới các xương sườn phụ họa với cảm giác buốt nhói nơi đầu gối, Sachs cố gắng chạy nhanh hết mức có thể nhưng người đàn ông vẫn đang vượt lên bỏ xa cô.
Như cứt, mình sẽ tuột mất hắn.
Nhưng thiên nhiên đã can thiệp. Một cành cây trồi lên khỏi tuyết vướng vào giày của anh ta và làm anh ta ngã dúi dụi, thốt lên một tiếng kêu to đến nỗi Sachs nghe thấy từ cách đó hơn mười mét. Cô chạy tới, hít một hơi dài, gí khẩu Glock vào cổ anh ta. Anh ta thôi không quằn quại nữa.
“Đừng làm tôi đau! Xin cô!”
“Suỵt.”
Còng tay được rút ra.
“Đưa tay ra đằng sau.”
Anh ta hé nhìn. “Nhưng tôi chẳng làm gì cả!”
“Tay.”
Anh ta đành đưa tay ra theo yêu cầu, tuy nhiên bằng một động tác vụng về khiến Sachs thấy là anh ta chưa bao giờ bị cảnh sát tóm. Anh ta trẻ hơn lúc trước cô tưởng – một thiếu niên, mặt lấm tấm trứng cá.
“Đừng làm tôi đau, xin cô!”
Sachs lấy lại hơi thở và khám xét cậu ta. Không chứng minh thư, không vũ khí, không ma túy. Tiền và một bộ chìa khóa.
“Tên cậu là gì?”
“Greg.”
“Họ?”
Một chút chần chừ.
“Witherspoon.”
“Cậu sống gần đây à?”
Cậu ta lấy hơi, gật đầu xác nhận.
“Ngôi nhà đằng kia, ngay bên cạnh ngôi nhà của gia đình Creeley.”
“Cậu bao nhiêu tuổi?”
“Mười sáu.”
“Tại sao cậu bỏ chạy?”
“Tôi không biết. Tôi sợ.”
“Cậu không nghe thấy tôi bảo tôi là cảnh sát à?”
“Có, nhưng cô trông không giống một cảnh sát… một nữ cảnh sát. Cô thực sự là cảnh sát à?”
Sachs cho cậu ta xem thẻ. “Cậu đang làm gì tại ngôi nhà đó?”
“Tôi sống ngay bên cạnh.”
“Cậu đã nói điều này rồi. Cậu đang làm gì lúc ấy?” Sachs lôi cậu ta ngồi dậy. Trông cậu ta có vẻ rất khiếp sợ.
“Tôi nhìn thấy ai đó ở trong nhà. Tôi tưởng là bà Creeley hoặc có thể một người nào đấy trong gia đình hoặc đại loại vậy. Tôi chỉ muốn nói với họ chuyện này. Rồi thì tôi nhìn vào và thấy cô mang súng. Tôi hoảng sợ. Tôi nghĩ cô đi cùng bọn họ.”
“Ai là bọn họ?”
“Những người đàn ông đã đột nhập vào nhà. Đó là chuyện tôi định nói với bà Creeley.”
“Đột nhập?”
“Tôi nhìn thấy hai người đàn ông đột nhập vào nhà. Vài tuần trước. Khoảng dịp lễ Tạ ơn.”
“Cậu có gọi cảnh sát không?”
“Không. Tôi nghĩ đáng lẽ tôi đã phải gọi. Nhưng tôi lại chẳng muốn dính líu tới. Bọn họ trông hung bạo.”
“Hãy cho tôi biết đã xảy ra chuyện gì.”
“Tôi đang đứng bên ngoài, trên sân sau của nhà tôi, và tôi nhìn thấy bọn họ đi đến chỗ cửa hậu, ngó nghiêng xung quanh rồi nói chung, cô biết đấy, bẻ khóa và vào bên trong.”
“Da đen hay da trắng?”
“Tôi nghĩ là da trắng. Nhưng tôi không ở gần. Tôi không thể nhìn thấy mặt bọn họ. Bọn họ, cô biết đấy, chắc chắn là đàn ông. Quần bò và áo khoác ngắn. Một người to lớn hơn người kia.”
“Màu tóc của bọn họ?”
“Tôi không biết.”
“Bọn họ ở bên trong bao lâu?”
“Tôi nghĩ là một tiếng.”
“Cậu nhìn thấy xe của bọn họ chứ?”
“Không.”
“Bọn họ có lấy cái gì không?”
“Có. Một máy stereo, một ti vi, đĩa CD. Một vài trò chơi, tôi nghĩ thế. Tôi đứng dậy được chứ?”
Sachs kéo cậu ta dậy và dẫn cậu ta đi về phía ngôi nhà. Cô để ý thấy cửa hậu đã bị nạy. Cũng là một việc khá dễ dàng.
Sachs nhìn xung quanh. Chiếc ti vi màn hình lớn vẫn còn trong phòng khách. Rất nhiều đồ sứ đẹp đẽ trong tủ đựng cốc chén bát đĩa. Các thứ đồ bạc cũng ở đó. Và là bạc thật. Vụ trộm không có nghĩa gì. Phải chăng chúng lấy đi dăm ba món đồ để che giấu một cái khác?
Sachs xem xét tầng trệt. Ngôi nhà sạch bong, trừ lò sưởi. Nó là kiểu lò sưởi ga, nhưng bên trong rất nhiều tàn tro. Với bộ phận châm lửa bằng ga, không cần thiết phải sử dụng giấy hay đóm. Phải chăng bọn trộm đã đốt cái gì?
Không động vào bất cứ thứ gì, Sachs chiếu đèn pin lên các đồ vật.
“Cậu có để ý thấy những kẻ đó đốt lửa khi ở đây không?”
“Tôi không biết. Có thể.”
Cũng có những vệt bùn phía trước lò sưởi. Sachs mang theo các thiết bị khám nghiệm hiện trường căn bản trong cốp xe. Cô sẽ lấy dấu vết xung quanh lò sưởi và bàn làm việc, thu chỗ tàn tro, bùn và bất cứ vật chứng nào có thể hữu ích.
Đúng lúc ấy điện thoại di động của cô rung lên. Cô liếc nhìn màn hình. Một tin nhắn khẩn từ Lincoln Rhyme. Cô được yêu cầu trở về càng sớm càng tốt. Cô nhắn tin thông báo đã nhận tin.
Cái gì đã bị đốt? Sachs tự nhủ, nhìn chằm chằm vào lò sưởi.
“Vậy…”, Greg nói. “Bây giờ tôi đi được chưa?”
Sachs nhìn cậu ta vẻ dò xét.
“Tôi không biết cậu có ý thức được việc này không. Nhưng sau bất cứ cái chết nào, cảnh sát cũng tiến hành kiểm kê toàn bộ các đồ vật trong ngôi nhà vào ngày mà chủ nhà qua đời.”
“Thì sao ạ?” Greg nhìn xuống.
“Một tiếng nữa tôi sẽ gọi cho Cơ quan Cảnh sát hạt Westchester và đề nghị họ đối chiếu danh sách kiểm kê với các đồ vật hiện có ở đây. Nếu thiếu bất cứ thứ gì họ sẽ gọi cho tôi, tôi sẽ đưa cho họ tên cậu và gọi cho cha mẹ cậu.”
“Nhưng…”
“Những kẻ đó đã không lấy gì cả, phải không? Sau khi bọn họ đi khỏi, cậu vào bên trong qua cửa hậu và tự tiện lấy… những gì?”
“Tôi chỉ mượn tạm vài thứ. Từ phòng Todd.”
“Con trai ông Creeley à?”
“Vâng. Và một trong những cái đĩa Nintendo là của tôi. Nó đã không trả lại.”
“Còn hai kẻ kia? Bọn họ có lấy gì không?”
Một chút ngập ngừng. “Có vẻ là không.”
Sachs tháo còng tay. Cô nói: “Từ nay tới lúc ấy, cậu mang tất cả trả lại đây. Bỏ vào ga ra nhé. Tôi sẽ để cửa mở.”
“Ồ, vâng. Tôi xin hứa”, Greg đáp không kịp thở. “Dứt khoát thế… Có điều…” Cậu ta bắt đầu khóc. “Có điều tôi đã ăn mất ít bánh ngọt. Bánh cất trong tủ lạnh. Tôi không… Tôi sẽ mua đền.”
Sachs nói: “Họ không kiểm kê thực phẩm.”
“Không à?”
“Chỉ cần mang tất cả các thứ khác trả lại đây.”
“Tôi xin hứa. Thật đấy.” Greg dùng ống tay áo lau mặt.
Cậu ta bắt đầu bước đi. Sachs hỏi: “Còn điều này. Khi cậu nghe nói ông Creeley tự tử, cậu có ngạc nhiên không?”
“Ôi, có.”
“Tại sao?”
Cậu bé bật cười.
“Ông ta có một chiếc 740. Tôi muốn nói chiếc xe dài ấy. Ai lại tự tử khi có một chiếc BMW, phải không?”
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.