Trăng Lạnh
CHƯƠNG 14
Tại nhà Rhyme, Sachs giao các chứng cứ cho Mel Cooper.
Trước khi xỏ đôi găng cao su, cô bước tới chỗ một cái hộp nhỏ, lấy ra mấy chiếc bích quy của chó và đút cho Jackson. Chú ta chén vội vàng.
“Anh có bao giờ nghĩ sẽ kiếm một chú chó giúp việc không?”, Kathryn Dance hỏi Rhyme.
“Nó là một con chó giúp việc đấy.”
“Jackson ấy à?”, Sachs cau mày.
“Đúng. Nó giúp đỡ tôi rất nhiều. Nó khiến mọi người mất tập trung và tôi không phải mua vui cho họ.”
Hai người phụ nữ bật cười.
“Tôi muốn nói một chú chó giúp việc thực sự.”
Một trong những bác sĩ trị liệu của Rhyme đã có gợi ý về một chú chó. Nhiều người mắc chứng liệt và chứng liệt tứ chi nuôi các con vật giúp việc. Chẳng bao lâu sau tai nạn, khi vị luật sư lần đầu tiên nêu ý tưởng này, anh đã phản đối kịch liệt. Anh không thể giải thích chính xác tại sao, nhưng cho rằng vấn đề là ở chỗ anh không thích phải phụ thuộc vào cái gì, hay ai khác. Bây giờ, ý tưởng này xem chừng chẳng quá tệ.
Rhyme cau mày. “Chị có thể huấn luyện chúng rót rượu whisky không?” Nhà hình sự học chuyển ánh nhìn từ chú chó sang Sachs. “Ồ, khi em đang ở hiện trường có người gọi điện cho em đấy. Một người tên là Jordan Kessler.”
“Ai cơ?”
“Ông ta nói em biết ông ta mà.”
“Ồ, khoan não, chắc chắn rồi, đối tác của Creeley.”
“Ông ta muốn trao đổi với em. Anh bảo em đang không ở đây nên ông ta để lại lời nhắn. Ông ta nói ông ta đã trao đổi với tất cả nhân viên công ti và thời gian về sau này đích thị là Creeley có biểu hiện chán nản. Kessler vẫn chưa tập hợp xong danh sách khách hàng. Nhưng sẽ mất khoảng một hai ngày.”
“Một vài ngày à?”
“Đó là ông ta nói thế.”
Ánh mắt Rhyme hướng vào các chứng cứ Sachs đang sắp xếp lên một chiếc bàn khám nghiệm cạnh Cooper. Tâm trí anh rời khỏi vụ quán Thánh James – mà anh gọi là “Vụ Kia”. Đối lập với “Vụ Của Anh”, vụ Thợ Đồng Hồ. “Chúng ta hãy đến xem xét các chứng cứ nào”, anh thông báo.
Sachs xỏ đôi găng cao su và bắt đầu mở các túi, hộp.
Chiếc đồng hồ cũng giống như hai chiếc trước, đang kêu tích tắc và chỉ đúng giờ. Cái mặt hình trăng hơi qua kì tròn đầy một chút.
Cooper cùng Sachs tháo chiếc đồng hồ ra nhưng không tìm thấy dấu vết nào có ý nghĩa cả.
Không dấu chân, không dấu vân tay, không vũ khí hay bất cứ thứ gì khác được để lại trong xưởng hoa. Rhyme băn khoăn không biết, liệu sát thủ có sử dụng dụng cụ đặc biệt nào để cắt dây kẽm của cô thợ cắm hoa, hay sử dụng kĩ thuật nào, mà từ đó có thể hé lộ nghề nghiệp hay chuyên môn, trong quá khứ hoặc hiện tại. Nhưng, không, hắn đã sử dụng chính cái kéo của Joanne. Tuy nhiên, cũng giống như các đoạn băng dính nhựa, các đoạn dây kẽm được cắt với độ dài y hệt nhau. Mỗi đoạn chính xác một trăm tám mươi ba centimét. Rhyme tự hỏi hắn dự định sẽ trói cô gái bằng các đoạn dây kẽm, hay đó sẽ là vũ khí giết người.
Joanne Harper đã khóa cửa khi cô rời khỏi xưởng đi uống cà phê với bạn. Rõ ràng sát thủ đã tự mở khóa để vào. Điều này chẳng làm Rhyme ngạc nhiên, một kẻ biết về các bộ phận của đồng hồ có thể dễ dàng học được kĩ năng mở khóa.
Xem xét các hồ sơ của Cơ quan Quản lí Xe gắn máy thì thấy có bốn trăm hai mươi ba chủ sở hữu xe Explorer màu nâu vàng. Tham khảo danh sách lệnh bắt giữ thì thấy chỉ còn có hai trường hợp: một ông già ở tuổi sáu mươi, mắc tội không tuân thủ luật pháp, nhận hàng chục vé phạt vì đỗ xe sai quy định, và một gã trẻ hơn, mắc tội bán cocaine. Rhyme phân vân không biết liệu đây có phải là trợ thủ của Thợ Đồng Hồ không, rốt cuộc hóa ra gã vẫn đang trong tù. Thợ Đồng Hồ rất có khả năng nằm trong số những cái tên còn lại, tuy nhiên chẳng cách nào mà nói chuyện được với cái tên còn lại, tuy nhiên chẳng cách nào mà nói chuyện được với tất cả những người này, mặc dù Sellitto sẽ cử ai đó đi kiểm tra những người có địa chỉ ở khu Hạ Manhattan. Cũng đã có vài trường hợp bị kiểm tra theo lệnh Phát hiện phương tiện giao thông khẩn cấp, nhưng không lái xe nào giống như mô tả nhân dạng Thợ Đồng Hồ và kẻ đồng lõa của gã.
Sachs lấy các mẫu dấu vết từ chính xưởng hoa và thấy rằng, đúng, đất và protein cá, dưới dạng phân bón, đích thực từ chỗ Joanne. Có một ít bên trong xưởng, nhưng Sachs cũng tìm thấy số lượng đáng kể ở bên ngoài, trong và xung quanh những vỏ bao phân bón bỏ đi.
Rhyme lắc đầu.
“Có vấn đề gì thế?”, Sellitto hỏi.
“Không phải về bản thân chỗ protein cá. Mà về cái thực tế là nó được tìm thấy trên nạn nhân thứ hai, Adams.”
“Vì?”
“Điều ấy nghĩa là trước đấy đối tượng đã đến kiểm tra xưởng hoa, có lẽ là kiểm tra nạn nhân và xem có chuông báo động hay camera an ninh không. Hắn đang bí mật theo dõi những địa điểm hắn lựa chọn. Điều ấy có nghĩa hắn có một lí do để nhằm vào những nạn nhân này. Nhưng đó là lí do quái quỷ gì?”
Người đàn ông bị đè họng cho đến chết trong con hẻm kia có vẻ chẳng liên quan tới bất cứ hoạt động tội phạm nào và không kẻ thù. Cũng y như thế đối với Joanna Harper. Và cô chưa bao giờ nghe nói về Adams – không một mối liên hệ giữa họ. Nhưng cả hai đều bị Thợ Đồng Hồ nhắm vào. Tại sao? Rhyme băn khoăn tự hỏi. Một nạn nhân chưa được xác định danh tính ở cầu tàu, một doanh nhân trẻ tuổi, một cô thợ cắm hoa… và sẽ có bảy nạn nhân nữa. Ở họ có cái gì khiến hắn ra tay sát hại thế? Mối liên hệ giữa họ là gì?
“Anh tìm thấy gì nữa?”
“Những mảnh màu đen”, Cooper vừa trả lời vừa giơ một phong bì nhựa lên. Bên trong là những cái chấm trông giống những giọt mực màu đen đã khô.
Sachs nói: “Chúng xuất hiện ở chỗ hắn lấy cuộn dây kẽm và ở chỗ có thể hắn đã nấp. Tôi cũng tìm thấy một ít ở phía ngoài cửa trước, chỗ hắn giẫm lên khi chạy ra chiếc Explorer.”
“Nào, cho xử lí qua máy tách hợp chất đi.”
Cooper khởi động máy và nạp vào một mẫu mảnh đen. Sau mấy phút, kết quả hiện lên trên màn hình.
“Sao, chúng ta có gì hả Mel?”
Người kĩ thuật viên đẩy cặp kính lên trên mũi. Anh ta ngả người về phía trước. “Hữu cơ… Trông có vẻ khoảng bảy mươi ba phần trăm paraffin, tiếp theo là hidrocarbon vòng thơm và thiaarene.”
“À, hắc ín để quét mái nhà,” Rhyme nheo mắt.
Kathryn Dance bật cười. “Anh biết à?”
Sellitto nói: “Ồ, Lincoln từng lang thang khắp thành phố thu thập mọi thứ anh ấy tìm thấy để tập hợp thành cơ sở dữ liệu chứng cứ… Hồi trước đi ăn tối với anh hẳn buồn cười lắm, Linc nhỉ. Anh mang theo ống nghiệm và những cái túi?”
“Vợ cũ của tôi có thể kể cho anh nghe tất cả đấy”, Rhyme lẩm bẩm một cách thích thú. Sự chú ý của anh là ở những giọt hắc ín màu đen. “Tôi đánh cuộc rằng hắn vừa đi kiểm tra một nạn nhân khác tại một nơi đang được quét lại nhựa mái.”
“Hoặc có thể người ta đang quét lại nhựa mái chỗ hắn”, Cooper nêu ý kiến.
“Tôi không biết liệu hắn có dám thưởng thức cocktail và những buổi hoàng hôn trên sân thượng nhà mình trong thời tiết này hay không”, Rhyme đáp. “Chúng ta hãy cứ cho rằng đó là mái nhà người khác đi. Tôi muốn biết hiện có bao nhiêu tòa nhà đang được quét lại nhựa mái.”
“Con số có thể lên đến hang trăm, hàng nghìn”, Sellitto nói.
“Chắc chẳng đến thế trong thời tiết này.”
“Và dù sao thì chúng ta cũng bằng cách quái nào mà tìm ra được?”, viên thám tử quần áo nhàu nhĩ hỏi.
“Nhờ ASTER.”
“Đó là gì?”, Dance hỏi.
Rhyme đọc thuộc lòng một cách lơ đãng. “Kĩ thuật tiên tiến đo bức xạ và nhiệt từ vũ trụ. Nó là một thiết bị đo và tập hợp dữ liệu trên vệ tinh Terra, dự án chung giữa NASA và chính phủ Nhật Bản. Nó bắt các hình ảnh nhiệt từ vũ trụ. Quỹ đạo của nó… thế nào nhỉ, Mel?”
“Chừng chín mươi tám phút. Nhưng phải mất mười sáu ngày để nó bao quát khắp bề mặt Trái Đất.”
“Hãy tìm hiểu xem nó đã đi qua New York lần gần đây nhất là khi nào. Tôi muốn hình ảnh các khu vực tỏa nhiệt và xem liệu họ có thể xác định những sức nóng trên hai trăm độ hay không, tôi hình dung ra rằng hắc ín khi quét lên mái nhà thì phải nóng ít nhất cỡ ấy. Sẽ thu hẹp được phạm vi hắn lui tới.”
“Toàn bộ thành phố à?”, Cooper hỏi.
“Xem ra là hắn đang lùng sục ở Manhattan. Chúng ta hãy bắt đầu với khu vực đó.”
Cooper có một cuộc trao đổi dài trên điện thoại rồi gác máy. “Họ đang xem xét. Họ sẽ cố gắng hết sức.”
Thom đưa Dennis Baker vào. “Chẳng có thêm nhân chứng nào xung quanh xưởng hoa”, viên trung úy vừa thông báo vừa cởi áo khoác và nhận tách cà phê vẻ biết ơn. “Chúng tôi lục soát suốt một tiếng đồng hồ. Tất cả hoặc là không trông thấy gì hoặc là không đủ can đảm để thừa nhận rằng đã trông thấy gì đó. Tên giết người này khiến ai nấy đều hoảng sợ.”
“Chúng ta cần thêm thông tin.” Rhyme nhìn sơ đồ về hiện trường Sachs vừa vạch ra. “Chiếc SUV được đỗ ở đâu?”, anh hỏi.
“Bên kia phố, đối diện xưởng hoa”, Sachs trả lời.
“Và em đã xem xét nơi xe được đỗ rồi.” Đây không phải một câu hỏi. Rhyme biết cô hẳn đã thực hiện việc ấy. “Có chiếc xe nào đỗ phía trước hay phía sau nó không?”
“Không.”
“Được, hắn chạy ra xe, kẻ đồng lõa với hắn lái xe đến ngã tư gần nhất và rẽ, hi vọng sẽ lẫn vào dòng xe cộ. Hắn sẽ không vi phạm luật bởi vậy sẽ làm một cú cua chậm rãi, chính xác, cẩn thận, giữ đúng làn đường của mình.” Giống như những gờ giảm tốc và việc nhấn phanh đột ngột, một cú cua chậm rãi, chính xác thông thường không để lại vết ta lông bánh xe. “Nếu con phố đó vẫn đang bị chặn, tôi muốn một nhóm từ Đơn vị Khám nghiệm hiện trường rà soát từng li từng tí khu vực ngã tư. Mất nhiều thời gian đấy nhưng tôi nghĩ là chúng ta phải thử thôi.” Rhyme quay sang Baker. “Anh vừa rời khỏi hiện trường, hả? Chừng mươi, mười lăm phút trước?”
“Vâng”, Baker trả lời, ngồi duỗi dài uống tách cà phê. Anh ta trông có vẻ kiệt sức.
“Con phố vẫn bị chặn à?”
“Tôi chả để ý lắm. Tôi nghĩ nó vẫn bị chặn.”
“Hãy hỏi xem thế nào”, Rhyme nói với Sellitto. “Và nếu nó vẫn bị chặn thì cử một nhóm đến rà soát.”
Nhưng viên thám tử gọi điện được biết con phố lúc bấy giờ đã mở cho xe cộ qua lại rồi. Chiếc Explorer của sát thủ có để lại dấu vết gì hẳn cũng bị ngay vết bánh xe thứ nhất hay thứ hai rẽ đè lên xóa đi.
“Mẹ kiếp”, Rhyme lầm bầm, cặp mắt anh lại trở về với các bảng chứng cứ, thầm nghĩ lâu rồi mới gặp một vụ khó khăn như thế này.
Thom khe khẽ gõ lên hèm cửa và dẫn một người nữa vào, một phụ nữ trung tuổi mặc chiếc áo khoác dài màu đen sang trọng. Rhyme trông bà ta quen quen nhưng không thể nhớ ra tên.
“Chào anh, Lincoln.”
Rồi anh nhớ ra. “Bà thanh tra.”
Marilin Flaherti nhiều tuổi hơn Rhyme, nhưng cả hai đều được thăng hàm đại úy cùng đợt và từng cùng thực hiện một số nhiệm vụ đặc biệt. Anh nhớ là bà ta thông minh và tham vọng – và, vì hoàn cảnh bắt buộc, cũng có phần mạnh mẽ, sắt đá hơn các đối tác nam giới. Họ trò chuyện vài phút về những người quen chung và đồng nghiệp trước đây, bây giờ. Bà ta hỏi tới vụ Thợ Đồng Hồ và anh trình bày tóm tắt sự việc.
Rồi bà thanh tra kéo Sachs ra một bên, hỏi tới tình hình điều tra, muốn nói, tất nhiên, là Vụ Kia. Rhyme không thể nào không dỏng tai nghe Sachs đang báo cáo rằng cô chưa tìm thấy điều gì mang tính kết luận. Không xảy ra trường hợp mất cắp ma túy lớn nào từ phòng cất giữ chứng cứ của đồn 118. Đối tác của Creeley và các nhân viên của ông ta khẳng định là ông ta có biểu hiện chán nản và gần đây ông ta uống nhiều hơn. Hóa ra gần đây ông ta đã lui tới Vegas và/hoặc Atlantic City.
“Có thể liên quan đến tội phạm có tổ chức”, Flaherti nêu ý kiến.
“Tôi đang suy nghĩ về điều này”, Sachs nói. Rồi cô nói thêm là có vẻ không có khách hàng nào thù oán Creeley nhưng cô và Pulaski đang chờ đợi Jordan Kessler cung cấp danh sách các khách hàng để tự kiểm tra lại.
Tuy nhiên, Suzanne Creeley vẫn thuyết phục người ta tin rằng chồng mình không dính dáng gì đến ma túy hay hoạt động tội phạm và rằng ông ta không tự tử.
“Và chúng ta có một cái chết nữa”, Sachs nói.
“Một cái chết nữa?”
“Một người đàn ông đến quán Thánh James vài lần. Có lẽ cũng gặp cùng những đối tượng mà Creeley gặp.”
Một cái chết nữa? Rhyme tự nhủ. Anh phải thừa nhận rằng Vụ Kia đang tiến triển sang những khía cạnh rất đáng quan tâm.
“Ai thế?”, Flaherti hỏi.
“Lại một nhà kinh doanh. Frank Sarkowski. Sống ở khu Manhattan.”
Flaherti vừa lắng nghe vừa đang xem xét xung quanh căn phòng, các sơ đồ chứng cứ, các thiết bị thí nghiệm, cau mày. “Có manh mối gì về kẻ đã giết anh ta không?”
“Theo tôi anh ta bị giết trong một vụ cướp. Nhưng tôi chưa biết chắc chắn chừng nào tôi chưa đọc hồ sơ.”
Rhyme có thể nhìn thấy sự thất vọng trên gương mặt Flaherti.
Sachs cũng căng thẳng. Anh nhanh chóng nhận ra tại sao. Ngay sau khi Flaherti nói: “Tôi sẽ tạm thời không phụ trách Nội vụ.” Sachs nhẹ nhõm hẳn. Họ không định lấy đi của cô vụ này. Chà, Lincoln Rhyme vui mừng cho Sachs, mặc dù trong thâm tâm anh đã muốn cô trả Sở Nội vụ Vụ Kia để trở về Vụ Của Anh.
Flaherti hỏi: “Cái tay sĩ quan trẻ tuổi ấy? Ron Pulaski à? Anh ta làm việc được chứ?”
“Anh ấy rất được việc.”
“Tôi sẽ thông báo với Wallace.” Bà thanh tra gật đầu về phía Rhyme. “Lincoln, thật hay là lại được gặp anh. Giữ gìn sức khỏe nhé.”
“Tạm biệt, bà thanh tra.”
Flaherti bước tới cửa và ra ngoài, những bước đi oai vệ hệt một vị tướng trên sân duyệt binh.
* * *
Amelia Sachs đang định gọi điện cho Pulaski để hỏi xem anh đã tìm hiểu được gì về Sarkowski thì cô nghe thấy gần bên tai một giọng nói. “Đại Chánh án(47) .”
Sachs nhìn sang Sellitto đang thả đường vào tách cà phê. Ông ta nói: “Này, vào văn phòng tôi đi”. Và ra hiệu về phía dãy hành lang phía trước ngôi nhà của Rhyme.
(47) Grand Inquisitor – Đại Chánh án (Tòa án dị giáo do Giáo hội Thiên chúa La Mã thiết lập để đàn áp dị giáo).
Bỏ lại mọi người, hai thám tử bước ra đoạn hành lang được chiếu sáng yếu ớt.
“Đại chánh án. Họ gọi Flaherti thế à?”, Sachs hỏi.
“Ừ, không phải vì bà ta không tốt.”
“Tôi biết. Tôi đã tìm hiểu về bà ta.”
“Hừm.” Viên thám tử to béo hớp một ngụm cà phê và ấn nốt chiếc bánh nướng kiểu Đan Mạch. “Cô xem đấy, tôi rối rắm với mấy thằng cha thợ đồng hồ tâm thần nên cũng chẳng biết tình hình vụ quán Thánh James ra sao. Nhưng nếu cô cho rằng cảnh sát có thể dính dáng tới thì làm sao lại là cô chứ không phải Sở Nội vụ xử lí vụ này?”
“Flaherti chưa muốn để họ can dự vào. Wallace cũng đồng ý.”
“Wallace?”
“Robert Wallace. Ông phó thị trưởng.”
“Ừ, tôi biết ông ta. Một tay quyết liệt đấy. Và mời đến Sở Nội vụ là đúng. Tại sao bà ta lại không muốn?”
“Bà ta muốn giao cho ai đó dưới quyền mình. Bà ta nói 118 quá gần gũi với Tòa nhà Lớn. Sẽ có người phát hiện ra Sở Nội vụ tham gia vào và bọn họ sẽ lặn luôn.”
Sellitto trề môi dưới vẻ nhân nhượng. “Điều ấy có thể.” Rồi ông ta thậm chí còn hạ thấp giọng hơn nữa. “Và cô cũng chẳng tranh luận lắm vì cô muốn nhận vụ này.”
Sachs nhìn thẳng vào Sellitto. “Đúng vậy.”
“Vậy là cô đã đề nghị và đã lấy được.” Sellitto bật tiếng cười mát mẻ.
“Sao cơ?”
“Bây giờ thì cô ở mũi xung kích rồi.”
“Thế có gì không ổn nào?”
“Rồi cô sẽ sớm biết rõ sự thật. Bây giờ nhé, nếu xảy ra chuyện gì tồi tệ, bất cứ chuyện gì, tỉ như người tử tế bị thua thiệt trong khi kẻ xấu xa lại thoát, tai họa sẽ giáng xuống vai cô, dù cho cô làm mọi cái đều đúng đắn. Flaherti vốn vẫn được bảo vệ, còn Sở Nội vụ thì thơm tựa hoa hồng. Mặt khác, nếu cô tóm cổ chính xác những đứa cần tóm, bọn họ sẽ đoạt công lao của cô và tất cả sẽ ngay lập tức lãng quên tên cô.”
“Anh đang nói rằng tôi bị lợi dụng?” Sachs lắc đầu. “Nhưng Flaherti ban đầu không muốn tôi đảm nhận vụ này. Bà ta đã định buông nó.”
“Nào, Amelia. Cuối buổi hẹn hò, một gã trai nói: Em này, chúng mình đã vui vẻ, nhưng có lẽ sẽ hay hơn nếu anh đừng bảo em lên gác. Cô gái đáp lại ngay thế nào?”
“Cô gái đáp: Chúng ta lên gác đi. Điều mà thực ra anh chàng nghĩ đến suốt từ lúc đầu. Anh đang nói rằng Flaherti đánh lừa tôi à?”
“Tất cả những gì tôi muốn nói là bà ta không lấy mất của cô vụ này, đúng chứ? Việc mà bà ta đáng lẽ đã có thể làm trong năm giây.”
Móng tay Sachs lơ đãng chọc vào tóc. Bụng cô thắt lại trước cái ý tưởng về thủ đoạn chính trị ở cấp cao tới mức ấy – địa hạt hầu như chưa bao giờ được thăm dò đối với cô.
“Bây giờ, điều tôi muốn nói, đó là tôi ước sao cô đừng đứng mũi chịu sào một vụ như thế này, không phải ở thời điểm hiện tại trong sự nghiệp của cô. Nhưng cô lại đang đâm lao rồi. Vậy cô hãy nhớ, giữ cho cái đầu thấp xuống. Tôi muốn nói, hãy để mình chìm đi.”
“Tôi…”
“Để tôi nói nốt. Chìm đi vì hai lí do. Thứ nhất, người ta mà phát hiện ra cô đang điều tra đám cảnh sát tệ hại, những lời đồn đại sẽ xuất hiện, rằng chỗ này ăn tiền, chỗ kia làm mất mát chứng cứ, bất kì chuyện gì cũng có thể hết. Thực tế, chúng không phải vô nghĩa đâu. Những lời đồn đại giống như bệnh cúm vậy. Cô chẳng ước chúng biến đi được. Chúng phát triển và chấm dứt theo cách của chúng và mang đi sự nghiệp của người ta.”
Sachs gật đầu. “Còn lí do thứ hai?”
“Chỉ là vì cô có một bậc bề trên che chở, đừng nghĩ rằng cô được bảo vệ. Một kẻ tệ hại ở 118, phải, hắn sẽ không ngăn cản cô. Việc ấy sẽ không xảy ra. Nhưng những đứa dân sự mà hắn giao du sẽ không muốn nghe ý kiến của hắn. Bọn chúng sẽ không đắn đo với việc vứt xác cô vào cốp một chiếc xe ở bãi đổ dài hạn tại sân bay Kennedy… Chúa phù hộ cô, cô bé ạ. Hãy tóm cổ chúng. Nhưng hãy cẩn thận. Tôi không muốn phải thông báo bất kì tin dữ nào với Lincoln. Anh ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho tôi.”
Ron Pulaski quay lại nhà Rhyme, và Sachs gặp anh ở hành lang phía trước, trong lúc cô đứng đấy, nhìn vào căn bếp, suy nghĩ về những gì Sellitto vừa bảo cô.
Cô thông báo vắn tắt với anh những chi tiết mới nhất trong vụ Thợ Đồng Hồ, rồi hỏi: “Tình hình Sarkowski thế nào?”
Pulaski giờ lướt các ghi chép. “Tôi tìm ra chỗ ở của vợ ông ta, rồi tiếp theo tiến hành phỏng vấn bà này. Bây giờ thì chúng ta biết người đã chết là một người đàn ông da trắng năm mươi bảy tuổi, chủ một cơ sở kinh doanh ở khu Manhattan. Ông ta không có tiền án tiền sự. Ông ta bị giết ngày 4 tháng Mười một năm nay, để lại bà vợ và hai đứa con đang tuổi thiếu niên, một trai một gái. Bị bắn chết. Ông ta…”
“Ron?”, Sachs hỏi bằng giọng dứt khoát.
Anh nhăn mặt.
“Ồ, xin lỗi. Tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề, chắc chắn thế.”
Cái kiểu trình bày như đọc biên bản là một thói quen của Pulaski mà Sachs quyết tâm phá bỏ.
Bớt căng thẳng, chàng cảnh sát trẻ tiếp tục. “Ông ta là chủ một tòa nhà ở West Side, Manhattan. Cũng sống tại đó. Ông ta còn là chủ một công ti chuyên bảo trì và xử lí rác thải cho các công ti, các cơ sở dịch vụ trong thành phố. Công ti của ông ta có hồ sơ sạch sẽ, cả ở cấp liên bang, cấp bang, lẫn cấp thành phố. Không liên hệ gì với các hoạt động tội phạm có tổ chức, hiện tại không bị điều tra gì. Bản thân ông ta chưa từng phải nhận lệnh khám xét hay bắt giữ trừ một vé phạt năm ngoái vì chạy xe quá tốc độ.”
“Có nghi ngờ gì về cái chết của ông ta không?”
“Không.”
“Đồn nào xử lí vụ này?”
“131.”
“Khi bị giết, ông ta ở Queens, chứ không phải ở Manhattan.”
“Đúng vậy.”
“Sự việc xảy ra thế nào?”
“Đối tượng cướp ví và tiền mặt của ông ta, rồi bắn ông ta ba phát vào ngực.”
“Về quán Thánh James thì sao? Bà vợ có nghe ông ta nói tới nó không?”
“Không.”
“Ông ta có biết Creeley không?”
“Bà vợ không chắc chắn, tuy nhiên nghĩ là ông ta không biết. Tôi cho bà ta xem ảnh và bà ta không nhận ra.” Pulaski trở nên im lặng trong chốc lát rồi nói thêm. “Có một điều. Tôi cho rằng tôi lại nhìn thấy nó, chiếc Mercedes ấy.”
“Anh lại nhìn thấy à?”
“Sau khi chị thả tôi xuống xe, tôi tranh thủ đèn xanh băng nhanh sang bên kia đường và tôi ngoái nhìn lại xem có xe cộ gì không. Tôi chẳng quan sát được rõ ràng lắm, nhưng tôi cho rằng tôi trông thấy chiếc Merc. Chẳng đọc được số đăng kí. Chỉ nghĩ là tôi sẽ nói với chị việc này.”
Sachs lắc đầu. “Tôi cũng có một người khách viếng thăm.” Cô kể cho Pulaski nghe việc xe cộ bị đột nhập. Và bổ sung rằng cô chắc chắn cũng đã trông thấy chiếc Mercedes. “Thằng cha lái xe đó bận rộn thật.” Rồi cô nhìn Pulaski đang cầm mỗi một cuốn sổ dày cộp trên tay. “Hồ sơ vụ Sarkowski đâu?”
“Chà, vấn đề là đấy. Không hồ sơ, không chứng cứ. Tôi đã kiểm tra toàn bộ tủ lưu giữ chứng cứ của 131. Không có gì.”
“Được, chuyện này đang trở nên đặc biệt đây. Không chứng cứ?”
“Bị thất lạc.”
“Hồ sơ đã được kiểm tra?”
“Có thể, tuy nhiên không thấy lưu lại trong dữ liệu máy vi tính. Nó đáng lẽ phải ở đó nếu một người nào đấy lấy nó hoặc gửi nó đi đâu. Nhưng tôi có tên của thám tử chịu trách nhiệm vụ này. Ông ta sống bên Queens. Vừa nghỉ hưu. Art Snyder.” Pulaski đưa cho Sachs tờ giấy ghi tên và địa chỉ của người đàn ông kia. “Chị muốn tôi nói chuyện với ông ta không?”
“Không, tôi sẽ đến gặp ông ta. Tôi muốn anh ở đây và viết lên một tấm bảng những thông tin của chúng ta. Nhưng đừng làm việc này trong phòng thí nghiệm. Người qua lại nhiều quá.” Các cảnh sát khám nghiệm hiện trường và các cảnh sát khác vốn vẫn mang các thứ tới giao cho Rhyme. Trong một vụ liên quan đến những cảnh sát thiếu trung thực, cô không muốn bất kì ai xem được các thông tin họ đã biết. Cô hất đầu về phía phòng tập thể dục của Rhyme, nơi anh đặt các máy tập. “Chúng ta sẽ cất tấm bảng ở đó nhé.”
“Rõ. Nhưng việc ấy chẳng mất nhiều thời gian. Khi tôi làm xong rồi, chị có muốn tôi gặp chị ở chỗ Snyder không?”
Sachs lại nghĩ về chiếc Mercedes. Và cô nghe thấy những lời của Sellitto len lỏi trong đầu:… Cốp một chiếc xe ở bãi đỗ dài hạn tại sân bay Kennedy…
“Thôi, khi anh làm xong rồi, hãy cứ ở đây giúp đỡ Lincoln.” Sachs cười thành tiếng. “Có lẽ như thế sẽ khiến tâm trạng anh ấy khá hơn.”
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.