Trăng Lạnh
PHẦN II: 9:02 SÁNG THỨ TƯ – CHƯƠNG 23
Thời gian là ngọn lửa thiêu chúng ta.
DELMORE SCHWARTZ
Lincoln Rhyme đã thức dậy hơn một tiếng đồng hồ rồi. Một sĩ quan trẻ thuộc lực lượng Tuần tra Bờ biển chuyển đến một chiếc vét tông được phát hiện ra trôi lềnh bềnh trong cảng New York, một chiếc vét tông, cỡ bốn mươi bốn. Theo người thuyền trưởng suy luận, nó có lẽ là của nạn nhân đang mất tích, cả hai ống tay áo đều bê bết máu, cổ tay áo bị rạch đứt.
Chiếc áo là của nhà may Macy và chẳng mang dấu hiệu hay chứng cứ gì có thể dẫn người ta đưa nó trở về với chủ.
Rhyme lúc này đang ở một mình trong phòng ngủ với Thom, anh ta vừa giúp đỡ Rhyme làm xong những công việc thường lệ buổi sáng – bài tập vật lí trị liệu và cái mà chàng phụ tá tế nhị gọi là “nhiệm vụ vệ sinh”. (Rhyme thì gọi là “chuyện cứt đái”, tuy nhiên thông thường chỉ trước mặt những vị khách không hay bị sốc.)
Amelia Sachs lên cầu thang và vào phòng ngủ. Cô thả áo khoác xuống một chiếc ghế dựa và bước qua chỗ Rhyme, kéo các tấm rèm cửa sổ ra. Cô nhìn xuống công viên Trung tâm.
Chàng thanh niên mảnh khảnh cảm nhận được ngay là có chuyện gì đó: “Tôi sẽ đi pha cà phê. Hoặc nướng bánh mì. Đại loại vậy.” Anh ta biến mất, đóng cánh cửa lại sau lưng.
Rốt cuộc thì là chuyện gì đây? Rhyme lo lắng tự hỏi. Gần đây, anh đã có quá nhiều những vấn đề riêng tư phải đối phó.
Sachs vẫn nhìn xuống cái nắng nhức mắt trong công viên. Rhyme hỏi: “Rốt cuộc thì chuyện vô cùng quan trọng này là gì vậy?”
“Em đã đến công ti Argyle.”
Rhyme chớp mắt và nhìn chăm chú gương mặt Sachs. “Đó là cái công ti gọi cho em sau lần em được viết bài giới thiệu trên tạp chí Thời báo, khi chúng ta kết thúc vụ về bọn làm ảo thuật.”
“Đúng.”
Argyle là công ti quốc tế chuyên bảo vệ các giám đốc doanh nghiệp và thương lượng để giải thoát những người làm công ăn lương bị bắt cóc – loại tội phạm phổ biến ở một số nước. Họ từng mời Sachs làm việc với mức lương cao gấp đôi mức lương cảnh sát của cô. Và hứa cấp cho cô giấy phép bí mật mang vũ khí theo người trong hầu hết các trường hợp, đây không phải thông lệ đối với các công ti an ninh. Lời hứa đó cộng thêm lời hứa cử cô đến những địa điểm nguy hiểm ở nước ngoài khiến cô quan tâm, tuy nhiên, cô đã ngay lập tức từ chối.
“Toàn bộ chuyện này là thế nào?”
“Em sẽ rời khỏi lực lượng, Rhyme.”
“Rời khỏi lực lượng? Em nghiêm túc đấy chứ?”
Sachs gật đầu. “Em đã quyết định khá chắc chắn rồi. Em muốn đi theo một hướng khác. Em cũng có thể làm được những điều tốt đẹp theo hướng đó. Bảo vệ các gia đình, canh chừng bọn trẻ. Họ còn thực hiện nhiều hoạt động chống khủng bố nữa.”
Bây giờ thì Rhyme cũng đăm đăm nhìn những cái cây trơ trụi, tiêu điều trong công viên Trung tâm qua cửa sổ. Anh nghĩ về cuộc nói chuyện với Kathryn Dance hôm qua, về những ngày đầu tiên của quá trình trị liệu. Một bác sĩ, một chàng trai trẻ, nhạy bén hợp tác với Sở Cảnh sát New York, tên là Terry Dobyns, đã bảo anh rằng: “Không có cái gì vĩnh viễn cả.” Anh ta muốn nói tới nỗi chán nản mà anh đang trải qua.
Bây giờ thì câu nói ấy lại mang một ý nghĩa rất khác và anh chẳng thể nào gạt nó ra khỏi đầu óc.
Không có cái gì vĩnh viễn cả…
“Chà.”
“Em nghĩ là em phải làm thế, Rhyme. Em phải làm thế.”
“Vì chuyện của cha em?”
Sachs gật đầu, chọc ngón tay vào tóc, cào mạnh. Cô nhăn mặt vì đau, hoặc vì những nỗi đau khác.
“Sachs, như thế là điên rồ.”
“Em không nghĩ em có thể tiếp tục được nữa. Làm một cảnh sát.”
“Em có nghĩ em quyết định hơi vội vã quá không?”
“Suốt đêm em đã suy nghĩ. Từ trước tới nay em chưa bao giờ suy nghĩ về việc gì ghê gớm đến thế.”
“Chà, em cứ suy nghĩ đi. Em không thể quyết định kiểu này sau khi nhận được một tin tức tồi tệ.”
“Tin tức tồi tệ? Mọi điều em từng nghĩ về cha chỉ là lừa dối thôi.”
“Không phải mọi điều”, Rhyme phản công lại: “Mà là một phần đời ông.”
“Nhưng là phần quan trọng nhất. Đó là con người đầu tiên trong ông, Rhyme. Một cảnh sát.”
“Chuyện xảy ra lâu rồi. Câu lạc bộ Đại lộ Mười sáu đã đóng cửa từ khi em còn là đứa trẻ con.”
“Điều đó khiến ông bớt xấu xa hơn?”
Rhyme im lặng.
“Anh muốn em giải thích, Rhyme? Giống như đối với các tang chứng? Cho thêm vài giọt thuốc thử và quan sát kết quả? Em không thể. Tất cả những gì em biết là em cảm thấy một vị kinh tởm trong miệng mình. Nó tác động đến cái nhìn của em về toàn bộ nghề nghiệp này.”
Rhyme trìu mến nói: “Sẽ khó khăn. Nhưng dù cho chuyện gì xảy ra với cha em cũng không động chạm đến em. Vấn đề là em vẫn luôn luôn là một cảnh sát chân chính và sẽ bớt đi các vụ án được phá thành công nếu em rời khỏi lực lượng.”
“Em sẽ chỉ phá được các vụ án nếu em có nhiệt tình. Mà em thì chẳng còn nhiệt tình nữa. Một cái gì đó đã qua đi.” Sachs nói thêm: “Pulaski đang tiến bộ rất nhiều. Anh ta làm việc tốt hơn em hồi em mới bắt đầu làm việc với anh.”
“Cậu ấy làm việc tốt hơn vì có em rèn luyện cho.”
“Đúng thế.”
“Cái gì?”
“Nịnh nọt em, nhỏ ra vài giọt ngợi khen vớ vẩn ấy. Nó là cách mẹ em từng cư xử với cha. Em hiểu, anh không muốn em rời khỏi lực lượng, nhưng đừng giở quân bài đó chứ.”
Nhưng Rhyme phải giở quân bài đó. Và bất cứ cách nào khác anh có thể nghĩ được. Sau tai nạn, anh từng chiến đấu với ý định tự tử nhiều lần. Và mặc dù đã đến rất gần ý định đó, cuối cùng anh luôn luôn cự tuyệt nó. Điều mà Amelia Sachs giờ đây đang cân nhắc chính là sự tự tử về tâm linh. Nếu cô rời khỏi lưc lượng, anh biết cô sẽ giết chết tâm hồn mình.
“Nhưng Argyle? Đó đâu phải là nơi dành cho em.” Rhyme lắc đầu: “Chẳng ai nhìn nhận các công ti an ninh một cách nghiêm túc, thậm chí và đặc biệt, là các khách hàng.”
“Không, công việc ở đó tốt lắm. Và họ cử anh đi học. Anh học ngoại ngữ… Họ thậm chí có phòng giám định ngôn ngữ hình thể. Và thu nhập cao.”
Rhyme bật cười.
“Kể từ lúc nào mà chuyện này lại liên quan tới tiền bạc vậy?…Sachs, hãy suy nghĩ thêm. Tại sao lại vội vã thế?”
Cô lắc đầu: “Em đã giải quyết xong vụ quán Thánh James. Và em sẽ làm bất cứ việc gì anh cho là cần thiết để tóm được Thợ Đồng Hồ. Nhưng sau đó…”
“Em biết đấy, nếu em rời khỏi lực lượng, sẽ có rất nhiều cái nút được bấm. Rồi nó sẽ ảnh hưởng đến em trong một thời gian dài, nếu em muốn quay lại.” Rhyme nhìn ra chỗ khác, mạch máu nơi thái dương đập thình thịch.
“Rhyme.” Sachs kéo một chiếc ghế dựa, ngồi xuống, bàn tay cô nắm lấy bàn tay anh – bàn tay bên phải, các ngón còn một chút cảm giác và hơi động đậy được. Cô siết chặt lấy chúng. “Dù em làm gì đi nữa, nó cũng sẽ không ảnh hưởng đến chúng ta, đến cuộc đời chúng ta mà.” Cô mỉm cười.
Anh và em, Rhyme…
Anh và em, Sachs…
Anh nhìn ra chỗ khác. Lincoln Rhyme là một nhà khoa học, người đàn ông của trí óc, không phải của con tim. Mấy năm trước, Rhyme và Sachs gặp nhau trong một vụ án khó khăn – một loạt trường hợp bắt cóc được thực hiện bởi một kẻ sát nhân bị những khúc xương người ám ảnh(62). Chẳng ai ngăn cản nổi hắn, trừ hai con người cảm thấy mình lạc lõng giữa cuộc đời này – Rhyme, bệnh nhân mắc chứng liệt tứ chi đã nghỉ việc, và Sachs, nữ cảnh sát mới vào nghề bị vỡ mộng, bị anh chàng người yêu cũng là một cảnh sát phản bội. Tuy nhiên, như thế nào đó, cùng với nhau, họ làm thành một sự hoàn chỉnh, lấp đầy các khoảng tả tơi trong tâm hồn mỗi người, và cuối cùng ngăn chặn được kẻ sát nhân ấy.
(62) Vụ án trong tiểu thuyết đầu tiên trong bộ truyện trinh thám về nhân vật Lincoln Rhyme của Jeffery Deaver: Kẻ tầm xương.
Mặc dù cố gắng hết sức để phủ nhận chúng, những từ này, anh và em, đã trở thành chiếc la bàn của Rhyme trong cái thế giới chông chênh mà họ cùng nhau tạo ra. Anh hoàn toàn không tin tưởng vào lời cô nói rằng quyết định của cô sẽ không khiến họ phải thay đổi gì. Liệu việc mất đi mục đích chung có khiến họ phải thay đổi không?
Anh đang chứng kiến sự chuyển tiếp giữa hai giai đoạn Trước và Sau chăng?
“Em chính thức xin rời khỏi lực lượng chưa?”
“Chưa.” Sachs rút từ túi áo khoác ra một chiếc phong bì trắng. “Em đã viết đơn xin thôi việc. Nhưng em muốn nói với anh trước.”
“Hãy đợi đôi ba ngày rồi hẵng quyết định. Em không có nghĩa vụ thực hiện việc đó đối với anh. Nhưng anh đề nghị em. Đôi ba ngày.”
Sachs đăm đăm nhìn chiếc phong bì hồi lâu. Cuối cùng, cô nói: “Được.”
Rhyme tự nhủ thầm: Chúng tôi đây đang giải quyết vụ án liên quan đến một kẻ bị ám ảnh bởi những chiếc đồng hồ, và điều quan trọng nhất đối với tôi lúc này là níu kéo lấy chút ít thời gian của Sachs. Anh nói: “Cảm ơn em. Rồi nói: “Nào, chúng ta đi làm việc thôi.”
“Em muốn anh hiểu…”
“Chẳng có gì để hiểu cả”, Rhyme nói với vẻ mà anh cảm thấy là sự lãnh đạm phi thường. “Có cái kẻ sát nhân tâm thần vẫn phải tóm cổ. Chúng ta bây giờ chỉ nên suy nghĩ về điều đó thôi.”
Rhyme bỏ Sachs lại một mình trong phòng ngủ, theo chiếc thang máy bé tí xuống phòng thí nghiệm, nơi Mel Cooper đang làm việc.
“Máu trên cái vét tông thuộc nhóm AB. Phù hợp với vết máu trên cầu tàu.”
Rhyme gật đầu. Rồi anh yêu cầu người kĩ thuật viên gọi điện cho Phòng Thí nghiệm phản lực của NASA hỏi thăm thông tin về bức xạ nhiệt – để tìm kiếm những địa điểm có thể đang quét lại nhựa mái nhà.
Ở California vẫn còn sớm, nhưng người kĩ thuật viên đã cố gắng lần ra được một anh chàng nào đó và ép anh ta tải lên mạng các bức ảnh. Các bức ảnh đến đằng này ngay. Chúng trông đầy ấn tượng nhưng không hữu ích lắm. Như ý kiến của Sellitto, có hàng trăm, có thể là hàng nghìn, tòa nhà có dấu hiệu của hơi nóng tăng cao, và hệ thống đo bức xạ nhiệt không phân biệt được đâu là nơi có mái đang được quét lại nhựa, đâu là khu vực công trường, đâu nóng lên bởi hơi nước của Công ti liên hợp Edison(63), hay đơn giản đâu là nơi có nhiều ống khói hoạt động.
(63) Một trong những công ty năng lượng lớn nhất nước Mỹ, có chi nhánh cung cấp điện, ga, hơi nước cho New York.
Tất cả những gì Rhyme có thể nghĩ ra là đề nghị Trung tâm gọi ngay nếu xuất hiện bất cứ vụ tấn công hay đột nhập nào gần một tòa nhà mà mái đang được quét lại nhựa.
Nữ sĩ quan liên lạc ngần ngừ rồi nói sẽ đưa thông báo này lên máy vi tính có bộ nhớ rộng.
Giọng của cô ta cho thấy anh đang như kẻ chết đuối cố gắng vớ lấy cọng rơm.
Anh nói được gì chứ? Cô ta hoàn toàn đúng mà.
* * *
Lucy Richter đóng cánh cửa thông sang cửa hiệu và vặn các khóa.
Cô treo áo khoác và áo nỉ liền mũ lên, trước ngực áo nỉ in dòng chữ Sư đoàn Bộ binh số 4, Fort Hood, sau lưng là câu khẩu hiệu của sư đoàn này: Kiên định và trung thành.
Các bắp thịt của Lucy đau âm ỉ. Ở phòng tập thể dục, cô đã đạp xe năm dặm, với tốc độ cao, độ dốc chín phần trăm, rồi nửa tiếng hít đất và tập cơ bụng. Đó là một điều nữa mà quân đội làm được: dạy cô biết đánh giá đúng sức mạnh cơ bắp. Nếu muốn, người ta có thể coi thường thể chất, giễu cợt, xem nó như sự phù phiếm và lãng phí thời gian, nhưng thực tế, nó đem đến cho người ta sức mạnh.
Lucy lấy nước vào ấm đun để pha trà và lôi một chiếc bánh vòng tẩm đường ra khỏi tủ lạnh, trong lúc nghĩ về ngày hôm nay. Có bao nhiêu việc phải làm: trả lời các cuộc điện thoại, gửi email, nướng bánh quy và làm món tủ của cô là bánh pho mát để tiếp khách hôm thứ Năm. Hay có thể cô sẽ chỉ đi mua sắm với bạn bè và mua đồ tráng miệng tại hiệu bánh. Hay ăn trưa cùng mẹ cô.
Hay nằm duỗi dài trên giường xem mấy bộ phim tình cảm. Tự buông thả mình.
Đó là sự bắt đầu của thiên đường – hai tuần cách xa vùng đất đầy sương mù đắng nghét – và cô sẽ tận hưởng từng phút.
Sương mù đắng nghét…
Đó là cách gọi mà Lucy nghe được từ một cảnh sát địa phương, thuộc khu vực ngoại vi Baghdad, ám chỉ các thứ hơi và khói sau khi một trái bom tự chế phát nổ.
Những vụ nổ trên phim chỉ là những ngọn lửa lớn bùng lên do xăng bị đốt cháy. Rồi tất cả kết thúc, chẳng còn lại gì, trừ gương mặt các nhân vật được đưa trở lại màn ảnh. Trên thực tế, cái còn lại sau khi một trái bom tự chế phát nổ là làn hơi dày đặc màu xanh lơ, có mùi kinh tởm, làm mắt người ta cay sè và phổi bỏng rát. Phần thì bụi, phần thì khói hóa chất, phần thì da tóc nát bươm, quang cảnh ấy kéo dài hàng tiếng đồng hồ.
Thứ sương mù đắng nghét đó là biểu tượng cho nỗi khiếp sợ của thể loại chiến tranh mới này. Không có các đồng minh đáng tin cậy, ngoài những người bạn chiến đấu. Không có phòng tuyến. Không có mặt trận. Và không biết đằng nào mà nhận ra kẻ thù. Có thể là tay phiên dịch của anh, một đầu bếp, một khách qua đường, một doanh nhân địa phương, một thiếu niên, một ông lão. Hoặc một người ở cách anh năm cây số. Còn vũ khí? Không phải là bích kích pháo và xe tăng. Mà là những gói bé tí tạo ra thứ sương mù đắng nghét, những gói thuốc nổ TNT hoặc C4 hoặc C3 hoặc thuốc nổ bánh đánh cắp từ chính kho vũ khí của anh, cất giấu kín đáo đến nỗi anh không bao giờ trông thấy cho tới lúc … chao, sự thật là anh sẽ không bao giờ được trông thấy.
Lucy lúc này đang lục lọi trong một chiếc tủ để tìm trà.
Sương mù đắng nghét…
Rồi cô dừng lại, Có âm thanh gì ấy nhỉ?
Lucy nghểnh đầu lắng nghe.
Gì thế?
Tiếng tích tắc. Nó khiến Lucy cảm thấy thắt bụng lại. Cô và Bob không có đồng hồ lên dây cót. Nhưng âm thanh đang phát ra nghe giống tiếng kêu của loại đồng hồ này.
Cái quái quỷ gì vậy?
Lucy bước vào phòng ngủ nhỏ mà hai vợ chồng chị chủ yếu sử dụng như gian chứa đồ. Đèn không sáng. Cô bật công tắc lên. Không, âm thanh không phát ra từ đây.
Lòng bàn tay Lucy đổ mồ hôi, hơi thở trở nên gấp gáp, tim đập thình thịch.
Mình đang tưởng tượng ra âm thanh này… Mình sắp phát điên. Những trái bom tự chế không kêu tích tắc. Thậm chí những trái bom hẹn giờ cũng có kíp điện tử.
Với lại, phải chăng cô đang thực sự nghĩ rằng ai đó đã đặt bom trong cửa hiệu của cô giữa thành phố New York?
Cô gái ơi, cô rất cần được cứu chữa.
Lucy đi tới ngưỡng cửa phòng ngủ lớn. Cánh cửa tủ quần áo mở, chắn tầm mắt cô khiến cô không nhìn được vào bàn trang điểm. Có thể nó là… Cô tiếp tục bước, Nhưng rồi lại dừng. Tiếng tích tắc phát ra từ một chỗ khác, không phải là chỗ này. Cô đi dọc hành lang đến phòng ăn và nhìn vào bên trong. Chẳng có gì cả.
Sau đó Lucy đi sang buồng tắm. Cô bật cười.
Trên trốc tủ đựng đồ vệ sinh, bên cạnh bồn tắm, là một chiếc đồng hồ. Trông nó có vẻ là một chiếc đồng hồ cổ. Nó màu đen và mặt có cửa sổ với một hình trăng tròn nhìn cô chằm chằm. Nó ở đâu ra? Dì cô lại dọn dẹp tầng hầm nhà cô chăng? Bob mua nó khi cô đang đi vắng chăng, và sáng hôm nay mới bày nó sau khi cô đến câu lạc bộ thẩm mỹ?
Nhưng tại sao lại là buồng tắm nhỉ?
Gương mặt kì quặc hình trăng nhìn Lucy với cái nhìn lạ lùng, gần như ác hiểm. Nó khiến cô nhớ tới gương mặt bầy trẻ con dọc các vỉa hè, những đôi môi trề ra biểu lộ một cái gì đó không hẳn là nụ cười, người ta không biết được điều gì đang xuất hiện trong đầu óc chúng. Khi chúng nhìn bạn, liệu chúng đang nhìn thấy những đấng cứu tinh? Hay những kẻ thù? Hay những sinh vật từ một hành tinh khác?
Lucy quyết định rằng cô sẽ goi cho Bob hoặc mẹ cô để hỏi về chiếc đồng hồ. Cô vào bếp pha trà và mang trà vào buồng tắm, mang theo cả điện thoại, rồi xả nước ra bồn.
Tự nhủ chẳng biết lần đầu tiên, sau hàng tháng trời, bồn nước ấm và đám bọt sữa tắm có rửa sạch được thứ sương mù đắng nghét bám trên cơ thể cô không.
Trên con phố phía trước căn hộ của Lucy, Vincent Reynolds quan sát hai cô bé nữ sinh đi bộ ngang qua đó.
Gã liếc nhìn hai cô bé nhưng chẳng cảm thấy tăng thêm nỗi đói khát lúc bấy giờ đã cào cấu cơ thể. Hai cô bé là nữ sinh trung học và quá ít tuổi đối với gã. (Salli Anne hồi ấy đang tuổi thiếu niên, đúng, tuy nhiên hồi ấy gã cũng đang tuổi thiếu niên, nên không vấn đề gì).
Vincent nghe thấy giọng Duncan thì thầm qua chiếc di động. “Tao đang trong phòng ngủ của nó. Nó đang trong buồng tắm, đang tắm… Như thế sẽ thuận lợi.”
Sàn nước…
Vì tòa nhà có nhiều người thuê và người ta có thể dễ dàng phát hiện ra gã đang mở trộm khóa. Duncan trèo lên nóc tòa nhà cao dăm tầng đó, đi đến vị trí căn hộ của Lucy, rồi leo xuống theo cầu thang thoát hiểm và vào phòng ngủ của cô. Gã thực sự rất khỏe mạnh (một điểm khác biệt nữa giữa hai kẻ đồng đảng).
“Được rồi. Tao hành động bây giờ đây.”
Cảm ơn…
Nhưng tiếp theo Vincent lại nghe thấy bảo: “Đợi đã.”
“Cái gì?”, Vincent hỏi. “Có chuyện không ổn à?”
“Nó gọi điện. Chúng ta phải đợi đã.”
Vincent Đói Khát ngồi ngả ra phía trước. Chờ đợi không thuộc sở trường của gã.
Một phút trôi qua, hai phút, năm phút.
“Thế nào rồi?”, Vincent thì thào.
“Nó vẫn gọi điện.”
Vincent tức giận.
Con bé trời đánh thánh vật… Gã ước gì gã có thể ở đó giúp đỡ Duncan sát hại cô ta. Cô ta đang gọi điện làm cái quái quỷ gì? Gã lấy mấy thứ ra ăn ngấu nghiến.
Cuối cùng, Thợ Đồng Hồ nói: “Tao sẽ cố gắng để nó rời khỏi máy điện thoại. Tao sẽ lại trèo lên sân thượng và theo cầu thang bộ xuống hành lang. Tao sẽ dụ nó mở cửa.”
Vincent nghe thấy chút cảm xúc hiếm hoi trong câu tiếp theo của gã: “Tao không thể chờ đợi thêm nữa.”
Anh chẳng hiểu được đến một nửa cái nỗi chờ đợi ấy đâu, Vincent Láu nghĩ – Vincent Láu, cái bản thể chỉ thoáng xuất hiện trước khi bị cái bản thể đói khát xua đuổi đi.
Cởi quần áo để vào tắm, Lucy Richter nghe thấy một âm thanh nữa. Không phải tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ có hình mặt trăng. Từ chỗ nào đó ở gần. Bên trong nhà? Hay ngoài hành lang? Ngoài con hẻm?
Một tiếng cách. Kim khí.
Nó là cái gì?
Cuộc sống của một người lính là tiếng kim loại chạm vào kim loại. Tiếng những băng đạn dài thơm mùi dầu mỡ được lắp vào khẩu súng trường, tiếng nạp đạn và kéo chốt an toàn khẩu Colt, tiếng cài cửa xe, tiếng khóa thắt lưng và áo gi lê quân phục. Đường đi hình vòng cung của viên đạn từ một khẩu AK-47…
Âm thanh kia lại xuất hiện, cách, cách.
Rồi yên ắng.
Lucy cảm thấy làn không khí lành lạnh, như thể có một cửa sổ mở. Ở chỗ nào? Cô đi đến kết luận là ở phòng ngủ. Đã cởi trần, cô bước tới ngưỡng cửa phòng ngủ và liếc nhìn vào. Phải, cửa sổ mở. Nhưng lúc trước, khi cô liếc nhìn vào để tìm kiếm tiếng tích tắc, nó đóng cơ mà? Cô cũng chẳng chắc chắn nữa.
Lucy tự ra lệnh: Đừng quá hoang tưởng như thế, trung sĩ. Chán ngán cái cảm giác đó lắm rồi. Ở đây, không có bom tự chế, không có những kẻ đánh bom cảm tử, không có sương mù đắng nghét.
Tự chủ lại nào.
Một cánh tay che ngang ngực – bên kia con hẻm cũng có các căn hộ – Lucy đóng và khóa chặt cửa sổ. Cô nhìn xuống con hẻm. Chẳng nhìn thấy gì.
Đúng lúc ấy, ai đó bắt đầu đập thình thịnh vào cửa trước. Lucy quay phắt người lại, thở hổn hển. Cô khoác áo choàng và vội vã đi ra gian chờ tối om. “Ai đấy?”
Một thoáng im lặng, rồi một giọng đàn ông cất lên. “Tôi là sĩ quan cảnh sát. Cô không sao chứ?”
Lucy nói vọng ra: “Có chuyện gì vậy?”
“Một tình huống khẩn cấp. Xin hãy mở cửa ra. Cô không sao chứ?”
Lo lắng, Lucy siết chặt đai áo choàng rồi rút then cài cửa, nghĩ tới ô cửa sổ phòng ngủ và tự hỏi phải chăng có kẻ đã cố gắng phá nó. Cô tháo dây xích cửa.
Lucy vặn khóa, chỉ sau khi cánh cửa bắt đầu được đẩy về phía cô, cô mới sực nhớ đáng lẽ nên yêu cầu xuất trình thẻ hoặc phù hiệu trước khi tháo dây xích. Cô bị cuốn vào một thế giới quá khác biệt trong một thời gian dài tới nỗi quên mất rằng vẫn có biết bao nhiêu kẻ xấu xa ở nước Mỹ này.
* * *
Amelia Sachs và Lon Sellitto đến tòa nhà cũ kĩ khu Greenwich Village, nép mình trên con phố Barrow mang nhiều nét hấp dẫn.
“Nó đấy à?”
“Ừ, nó đấy”, Sellitto nói. Những ngón tay ông ta tái nhợt. Tai thì đỏ ửng lên.
Họ nhìn vào con hẻm bên cạnh tòa nhà. Sachs quan sát rất kĩ lưỡng.
“Họ cô ấy là gì?”, cô hỏi.
“Richter. Tôi nghĩ Lucy là tên.”
“Cửa sổ nhà cô ấy, là cái nào?”
“Trên tầng ba.”
Sachs liếc nhìn lên cầu thang thoát hiểm.
Họ tiếp tục đi đến cầu thang bộ phía trước tòa nhà. Một đám đông đang nghiêng ngó. Sachs quan sát các gương mặt, vẫn tin tưởng rằng Thợ Đồng Hồ đã quét sạch sẽ hiện trường thứ nhất bởi hắn dự định sẽ quay lại. Điều đó có nghĩa là biết đâu hắn cũng còn lởn vởn xung quanh đây. Nhưng cô không trông thấy ai giống hắn hoặc kẻ đồng lõa.
“Chúng ta chắc chắn đó là Thợ Đồng Hồ chứ?”, Sachs hỏi Frank Rettig và Nancy Simpson đang co ro rét mướt bên cạnh chiếc xe phản ứng nhanh của Đơn vị Khám nghiệm hiện trường, đỗ xiên xiên giữa lòng đường phố Barrow.
“Vâng, hắn để lại một trong những chiếc đồng hồ ấy”, Rettig trả lời. “Với các gương mặt hình trăng.”
Sachs và Sellitto bắt đầu bước lên cầu thang.
“Có điều này”, Nancy Simpson nói.
Hai thám tử dừng bước và quay người lại.
Nữ sĩ quan bắt đầu chỉ tòa nhà, nhăn mặt. “Không dễ chịu đâu.”
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.