Lời thú tội của một sát thủ kinh tế

Lời kêt



Chúng ta đã đi đến phần cuối của cuốn sách, và cũng là điểm khởi đầu. Hẳn bạn đang băn khoăn liệu sẽ phải đi tiếp như thế nào, có thể làm gì để ngăn chặn chế độ tập đoàn trị và chấm dứt cuộc hành quân điên cuồng, tự hủy diệt để xây dựng lên đế chế toàn cầu này. Bạn đã sẵn sàng gập cuốn sách lại hùng dũng bước ra thế giới.        

Bạn muốn có những ý tưởng, và tôi có thể cho bạn một số gợi ý.        

Tôi có thể chỉ ra rằng, những thông tin chứa đựng trong chương cuối mà bạn vừa đọc Bechtel và Halliburton ở Iraq đã cũ rồi. Đến thời điểm bạn đọc những dòng này, thì câu chuyện đó có thể trở thành thừa. Song tầm quan trọng của những bài báo đó vượt ra ngoài cái khung khổ thời gian của nội dung. Tôi hy vọng, chương đó sẽ giúp bạn thay đổi cách nhìn đối với tin tức, giúp bạn đọc được ẩn ý đằng sau những tiêu đề báo mà bạn đọc và giúp bạn đặt câu hỏi về những hàm ý đằng sau những tin tức mà bạn nghe được trên đài hay trên tivi. Mọi thứ đều không giống như vẻ ngoài. NBC thuộc quyền sở hữu của General Electric, ABC thuộc Disney, CBS thuộc Viacom, và CNN là một bộ phận của tập đoàn khổng lồ AOL Time Warner. Các phương tiện truyền thông của chúng tôi đều bị các tập đoàn quốc tế khổng lồ sở hữu hoặc chi phối. Phương tiện truyền thông đại chúng của chúng tôi là một phần của chế độ tập đoàn trị. Các quan chức và các giám đốc, những người kiểm soát gần như tất cả các phương tiện liên lạc của chúng tôi ý thức được chỗ đứng của mình. Trong cuộc đời mình, họ luôn được dạy rằng một trong những công việc quan trọng nhất của họ là duy trì, củng cố và mở rộng hệ thống mà họ đang được thừa hưởng. Họ có thể trở nên hết sức tàn nhẫn. Vì thế trách nhiệm của bạn là phải nhìn thấu sự thật ẩn dưới lớp vỏ bọc bề ngoài và để cho mọi người cùng biết nó. Hãy nói những sự thật mà bạn biết cho gia đình và bạn bè của bạn, hãy để sự thật được lan truyền khắp thế giới này.

Tôi có thể đưa ra một danh sách những việc mà bạn có thể làm. Ví dụ, giảm mức tiêu thụ năng lượng của chính mình. Năm 1990, trước cuộc tấn công đầu tiên vào Iraq, nước Mỹ nhập khẩu 8 triệu thùng dầu; đến năm 2003 và đến cuộc tấn công thứ hai, số dầu nhập khẩu của nước Mỹ đã tăng hơn 50%, lên đến hơn 12 triệu thùng dầu1 Lần tới thay vì đi mua sắm, bạn hãy cố đọc một cuốn sách, tập thể dục, hoặc ngồi thiền. Thu hẹp diện tích nhà của bạn, của tủ quần áo, ô tô, văn phòng, và hầu như tất cả mọi thứ trong cuộc sống của bạn. Hãy phản đối các hiệp định thương mại “tự do”, chống lại các công ty đã vắt kiệt sức lao động của những con người khốn khổ trong các xí nghiệp, hay những công ty đang tàn phá môi trường. 

Song tôi có thể nói với bạn rằng, vẫn còn có thể đặt nhiều hy vọng vào hệ thống hiện tại, và về cơ bản các người, các tập đoàn và các chính phủ – hoặc những người đang điều hành các tổ chức này không có gì xấu và rằng chắc chắn họ không phải là những người tạo nên chế độ tập đoàn trị. Những vấn đề hiện nay đang thách thức chúng ta không phải là kết quả của những định chế độc ác, thực ra, chúng bắt nguồn từ những khái niệm sai lầm về phát triển kinh tế. Sai lầm không nằm trong bản thân các định chế mà là trong nhận thức của chúng ta về cách thức mà các định chế đó hoạt động và tương tác qua lại, và về vai trò của những nhà quản lý các định chế đó trong quá trình.

Trên thực tế, những hệ thống viễn thông và mạng lưới phân phối có hiệu quả cao trên thế giới có thể được dùng để đem lại những thay đổi tích cực và nhân đạo. Hãy tưởng tượng nếu các biểu tượng hình vảy Nike, hình vòng cung của MacDonald và lôgô của Coca-Cola trở thành biểu tượng của những công ty với những mục tiêu chính là tạo cơm ăn áo mặc cho người nghèo trên thế giới mà không làm hại đến môi trường. Giờ đây, điều này cũng thực tế như việc đưa con người lên mặt trăng, sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết, hay việc tạo ra cơ sở vật chất cho phép các công ty có thể đến được mọi ngóc ngách của hành tinh này. Chúng ta cần một cuộc cách mạng trong cách thức tiếp cận đến giáo dục để tạo thêm sức mạnh cho bản thân chúng ta và cho con cháu chúng ta suy nghĩ, đặt câu hỏi và dám hành động. Bạn có thể đưa ra một ví dụ. Hãy vừa là người thầy, đồng thời cũng là một người học trò; hãy truyền cảm hứng cho những người xung quanh bạn bằng ví dụ mà bạn đưa ra.

Tôi có thể khuyến khích bạn nên làm những hành động cụ thể để tác động đến các thể chế trong cuộc sống của chính bạn. Hãy nói ra tại bất cứ diễn đàn nào mà bạn tham gia, hãy viết thư và email, gọi điện để chất vấn và suy nghĩ, bỏ phiếu cho các ban giám hiệu trường học, hội đồng địa phương, và các sắc lệnh địa phương sáng suốt. 

Tôi có thể nhắc cho bạn nhờ những gì người Shuars đã nói với tôi năm 1990, rằng thế giới này giống như những gì bạn mơ về nó, và chúng ta có thể đánh đổi cơn ác mộng về những ngành công nghệp đầy ô nhiễm, những con đường cao tốc luôn tắc nghẽn và những thành phố đông đúc quá mức lấy một giấc mơ mới dựa trên lòng kính trọng mẹ trái đất và có trách nhiệm với một xã hội bền vững và bình đẳng. Chúng ta có sức mạnh để thay đổi bản thân chúng ta, thay đổi mô hình mà chúng ta đang sống. 

Tôi có thể liệt kê những cơ hội tuyệt vời mà chúng ta có để tạo ra một thế giới tốt đẹp hơn, ngay từ bây giờ: đủ thức ăn và nước uống cho tất cả mọi người, thuốc chữa bệnh và phòng ngừa các bệnh hiện đang hoành hành hàng triệu con người; các hệ thống giao thông có thể vận chuyển các hành hóa thiết yếu cho cuộc sống tới những vùng hẻo lánh nhất trên hành tinh; khả năng nâng cao lỷ lệ biết chữ và cung cấp các dịch vụ Internet giúp mọi người trên trái đất này có thể liên lạc với nhau; các công cụ có thể giúp giải quyết các xung đột và khiến các cuộc chiến tranh trở nên lỗi thời; các công nghệ có khả năng khai thác cả sự rộng lớn của không gian cũng như những nguồn năng lượng nhỏ nhất, năng lượng siêu nguyên tử để từ đó xây dựng những ngôi nhà phù hợp với hệ sinh thái và hiệu quả hơn cho tất cả mọi người; có đủ các nguồn lực để thực hiện tất cả các điều trên và còn nhiều hơn nữa.

Tôi có thể gợi ý một số bước mà bạn có thể thực hiện ngay lập tức để giúp những người khác nhận thức được những cuộc khủng hoảng và những cơ hội của chúng ta. “Lập ra một nhóm nghiên cứu về cuốn sách này ở thư viện hoặc các hiệu sách ở địa phương của bạn, hoặc ở cả hai nơi đó (bản hướng dẫn thực hiện công việc này được đăng trên trang web). 

“Viết một bài diễn văn phát biểu ở một trường tiểu học gần nơi ở của bạn về đề tài yêu thích của bạn (có thể là về thể thao, nấu ăn, về các loài kiến – bất cứ thứ gì bạn muốn), và dùng bài phát biểu đó để thức tỉnh các em học sinh về bản chất thực của cái xã hội mà họ đang được thừa hưởng. 

“Gửi email cho tất cả các địa chỉ trong danh sách của bạn, bày tỏ những suy nghĩ của bạn sau khi đọc xong cuốn sách này và các cuốn sách khác mà bạn đã đọc. 

Song tôi ngờ rằng, có thể bạn đã nghĩ đến tất cả những cách này. Bạn chỉ cần chọn lấy một vài cách mà bạn thấy phù hợp nhất và thực hiện chúng. Rồi bạn sẽ nhận ra rằng tất cả những cách đó là một phần của một cam kết với bản thân mình một cách chắc chắn và rõ ràng rằng chúng ta sẽ làm cho chính bản thân mình và những người xung quanh thức tỉnh. Chúng ta phải mở rộng trái tim và tâm hồn mình trước mọi khả năng, phải nhận thức và bắt tay vào hành động. 

Tuy nhiên, bạn không buộc phải làm theo những gì cuốn sách này nói; đó chỉ đơn giản và đơn thuần là một lời thú tội mà thôi. Đó là lời thú tội của một người đàn ông đã từng cho phép mình trở thành một quân tốt thí trong ván cờ của người khác, một sát thủ kinh tế; một người đã chấp nhận một hệ thống bẩn thỉu chỉ bởi vì hệ thống đó khiến anh ta có được một vẻ bề ngoài hào nhoáng, và bởi vì có rất nhiều lý do để biện minh cho việc tham gia vào hệ thống đó; một người biết rõ có thể làm cho mọi chuyện trở nên tốt hơn nhưng anh ta luôn tìm được cách để thanh minh cho lòng tham của bản thân, cho việc bóc lột tàn tệ những con người khốn khổ và cướp bóc cả hành tinh này; một người đã lợi dụng triệt để cái lợi thế được sinh ra trong một xã hội giàu mạnh nhất trong lịch sử, và là người luôn thương hại chính bản thân mình vì cha mẹ anh ta không thuộc tầng lớp hàng đầu của xã hội; một người đã từng lắng nghe lời thầy cô giáo, đọc những cuốn sách giáo khoa về phát triển kinh tế, và sau đó đi theo những ví dụ của những người đàn ông, đàn bà khác – những người luôn hợp pháp hóa mọi hành động của mình là nhằm thúc đẩy đế chế toàn cầu, ngay cả khi kết quả của những hành động đó là những vụ giết người, những vụ thảm sát, phá hoại môi trường; một người đã từng đào tạo những người khác bước theo bước chân của anh ta. Đó là lời thú tội của chính tôi.

Việc bạn đã đọc hết cuốn sách cho tới tận đây cho thấy, có lẽ bạn, trên phương diện cá nhân nào đó, đã hiểu và thông cảm với những hối lỗi của tôi, bạn và tôi có thể chia sẻ với nhau nhiều điểm tương đồng. Chúng ta có thể đang đi trên những con đường khác nhau, nhưng chúng ta đang sử dụng cùng một loại phương tiện, cùng một loại nhiên liệu, và đã dùng bữa tại những nhà hàng do cùng một số tập đoàn sở hữu. 

Đối với tôi, thú tội là một phần không thể thiếu để thức tỉnh. Giống như tất cả các lời thú tội khác, đây là bước đầu tiên chuộc lỗi của tôi. 

Và bây giờ đến lượt bạn. Bạn cũng cần phải có lời thú tội của riêng mình. Khi nào bạn có thể trả lời được hết những câu hỏi nha bạn là ai, tại sao bạn lại ở vị trí hiện tại trong giai đoạn này của lịch sử, tại sao bạn lại làm những việc bạn đã từng làm, trong đó có cả những việc khiến bạn tự hào và xấu hổ, và bạn định sẽ đi đâu, ngay lập tức bạn sẽ có cảm giác được giải thoát. Nó sẽ khiến bạn thấy thật thanh thản. 

Hãy tin tôi khi tôi nó rằng viết quyển sách này mang lại cho tôi những cảm xúc sâu sắc, và đã là một trải nghiệm đau đớn và tủi nhục với riêng tôi. Nó gây cho tôi cảm giác sợ hãi mà trước đây tôi đã từng có. Nhưng nó cũng mở ra cho tôi cảm giác được giải thoát mà tôi chưa bao giờ được biết cho đến tận lúc này, một cảm giác mà tôi chỉ có thể miêu tả là rất tuyệt vời.

Hãy tự hỏi bản thân mình những câu hỏi như: Tôi phải thú tội về điều gì? Tôi đã lừa dối bản thân và những người khác ra sao? Tôi còn chần chừ ở điểm nào? Tại sao tôi lại để bản thân mình tham gia vào một hệ thống mà tôi biết rõ là không công bằng? Tôi sẽ phải làm gì để chắc chắn rằng con cháu tôi và tất cả trẻ em trên thế giới có thể hoàn thành giấc mơ của cha ông ta, giấc mơ về cuộc sống, về quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc? Tôi cần phải làm gì để chấm dứt nạn đói không cần thiết và để đảm bảo rằng sẽ không xảy ra sự kiện nào tương tự như sự kiện ngày 11/9? Làm thế nào tôi có thể giúp con cháu chúng ta hiểu rằng những người đang sống những cuộc sống thíếu lành mạnh và tham lam cần được thương hại, chứ đừng bao giờ bắt chước họ, ngay cả khi những người này luôn tự thể hiện bản thân mình, thông qua những phương tiện truyền thông mà họ đang kiểm soát, như những biểu tượng văn hóa và cố gắng thuyết phục chúng ta rằng những căn nhà và du thuyền có thể đem lại hạnh phúc? Tôi sẽ cam kết thay đổi những gì trong quan niệm và thái độ của mình? Tôi sẽ sử dụng những diễn đàn nào để nói điều đó cho những người khác và để chính bản thân tôi học hỏi thêm?

Trong chúng ta cần phải trả lời những câu hỏi đó theo cách riêng của mình và cần thể hiện rõ ràng câu trả lời của mình. Pain và Jefferson và tất cả những người yêu nước khác đang dõi theo chúng ta. Ngày hôm nay, những lời nói của họ vẫn tiếp tục khích lệ chúng ta. Linh hồn của những người đã dám từ bỏ những trang trại, những chiếc thuyền đánh cá, vùng lên chống lại đế chế Anh, những người đã đấu tranh để xóa bỏ chế độ nô lệ trong cuộc Nội chiến, và những người đã hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ thế giới trước chủ nghĩa phát xít, đang nói với chúng ta. Và chúng ta cũng đang lắng nghe linh hồn của người dân sống ở hậu phương, sản xuất ra thức ăn, quân áo và cổ vũ tinh thần cho những người chiến sỹ, và của tất cả những người đàn ông, đàn bà đã chiến đấu bảo vệ những thành quả đạt được trên những chiến trường đó: Những thầy cô giáo, nhà thơ, nhạc sỹ, các doanh nhân, những nhân viên y tế, những người lao động chân tay…, bạn và tôi. 

Thời khắc này là của chúng ta. Đây là thời điểm để mỗi người và tất cả chúng ta đứng lên làm thành một chiến tuyến, đặt ra những câu hỏi quan trọng, tự vấn tâm hồn mình để tìm ra những câu trả lời của riêng chúng ta và bắt tay vào hành động. 

Những ngẫu nhiên trong cuộc đời bạn, và những lựa chọn mà bạn đã quyết định trước những ngẫu nhiên đó, đã đưa bạn đến cuộc sống ngày hôm nay.

GHI CHÚ 
Lời tựa 
1.  Chương trình Lương thực của Liên Hợp Quốc, http://www.wfp.org/index.asp?section=1 (được truy cập vào ngày 27/12/2003). Ngoài ra, Hiệp hội Quốc gia về chống đói nghèo đã ước tính rằng “Mỗi ngày có tới 34000 trẻ em dưới 5 tuổi chết vì đói hay vì bệnh tật do đói nghèo mà có thể ngăn chặn được” (http://www.napsoc.org , truy cập ngày 27/12/2003. Starvation.net ước tính rằng “Nếu tính thêm cả 2 nguyên nhân gây ra cái chết của người nghèo nhất (sau chết đói), thì con số tử vong có thể tăng lên 50000” (http://www.starvation.net, truy cập vào ngày 27/12/2003). 
2.  Các nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp Mỹ, do Trung tâm Nghiên cứu lương thực và hành động (FRAC), http://www.frac.org (được truy cập vào 27/12/2003). 
3.   Báo cáo phát triển con người của Liên Hợp Quốc (New York: Liên Hợp Quốc, 1999). 
4.  Năm 1998, Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc đã tính toán rằng sẽ phải mất thêm 9 tỷ đô la ($) (ngoài chỉ tiêu hiện hành) để cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường cho mọi người trên hành tinh này. Họ nói rằng phải mất thêm 12 tỷ $ để cung cấp các dịch vụ chăm sắc sức khỏe sinh sản cho tất cả phụ nữ trên thế giới. Thêm 13 tỷ $ sẽ cung cấp không những cho mọi người trên hành tinh này đủ thức ăn mà còn cung cấp đầy đủ cho họ dịch vụ chăm sóc sức khỏe thiết yếu. Thêm 6 tỷ $ nữa thì có thể đem lại nền giáo dục cơ bản cho tất cả mọi người… Tổng cộng là phải có thêm 40 tỷ $.”- John Robbins, tác giả của Thực đơn cho một nước Mỹ kiểu mới và Cuộc cách mạng lương thực, http://www.foodrevolution.org, (được truy cập vào ngày 23/12/2003).

Phần mở đầu 

Gina Chavez et al., Tarimiat- Firmes en Nuestro Territorio: FIPSE vs. ARCO, eds. Mario Melo và  Juana Sotomayor (Quito, Êcuađo: CDES và CONAIE, 2002). 
Sandy Tolan, Êcuađo: Thất hứa, Đài phát thanh Quốc gia, Bản tin sáng, 9/7/2003, http://www.npr.org/programs/morning/features/2003/jul/latinoil (được truy cập vào ngày 9/7/2003). 
Juan Forero, Tìm kiếm sự cân bằng: Tăng trưởng với văn hóa vùng Amazon, tờ Thời báo New York, 10/12/2003. Abby Ellin, Suit nói rằng Chevron Texaco đổ thuốc độc xuống Êcuađo, tờ Thời báo New York, 8/3/2003. 
Chris Jochnick, Hiểm họa trước mắt, New Internationalist, tháng 7 năm 2001, http://www.newint.org/issue335/perilous.htm. 
Để biết thêm thông tin, xem Pamela Martin, Toàn cầu hóa chính trị: Phong trào đòi quyền của những bộ lạc Amazon (New York: Rutledge, 2002); Kimerling, Amazon hoang dã (New York: Ủy ban Bảo vệ tài nguyên, 1991); Leslie Wirpsa, trans… Sự biến động ở sân sau: các khoản vay nợ và quyền con người không chính đáng – Trường hợp của Êcuađo- Nauy (Quito, Êcuađo: Centro de Derechos Economicos y Sociales, 2002); và Guardian, ngày 8 tháng 10 năm 2000.

Để biết thêm thông tin về tác động của dầu mỏ lên nền kinh tế các nước và nền kinh tế thế giới, xin xem Michael T. Klare, Các cuộc chiến giành giật nguồn tài nguyên thiên nhiên: Mảnh đất mới cho xung đột toàn cầu (New York: Henry Holt và công ty, 2001); Daniel Yergin, Giải thưởng: Cuộc săn lùng trường kỳ dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực (New York: Tạp chí miễn phí, 1993); và Daniel Yergin và Joseph Stanislaw, Độ cao kỳ vĩ: Cuộc chiến vì nền kinh tế thế giới (New York: Simon & Schuster, 2001). James S. Henry, Tiền đi đâu, Trên mọi lĩnh vực; tháng 3, tháng 4, năm 2004, trang 42-25. Để biết thêm chi tiết, xin xem sách Ngân hàng máu: Chuyện kể về nền kinh tế thế giới ngầm của Henry (New York: 4 bức tường 8 cánh cửa, 2003). 

Gina Chavez et al., Tarimiat- Firmes en Nuestro Territorio: FIPSE vs. ARCO, eds. Mario Melo & Juana Sotomayor (Quito, Êcuađo: CDES & CONAIE, 2002); Petroleo, Ambiente y Derechos en la Amazonia Centro Sur, Edition Victor Lopez A, Centro de Derechos Economicos y Sociales, OPIP, IACYT-A (được tài trợ của Tổ chức Oxfam America) (Quito, Êcuađo: Sergrafic, 2002). 

Để biết thêm thông tin về jackals và các loại hình báo kinh tế, xem P.W. Singer, Tập đoàn: Sự nổi lên của lĩnh vực quân sự thuộc sở hữu tư nhân (Ithaca, NY & London: Cornell University Press, 2003); James R. Davis, Các chiến binh của số phận: Những quân nhân và trật tự thế giới mới (Vancouver & Toronto: Douglas & McIntyre, 2000); Felix I. Rodriguez & John Weisman, Các chiến binh giấu mặt: Người hùng CIA của 100 trận đánh không tên (New York: Simon & Schuster, 1989). 

Chương 2. “Không đường lui” 
Để biết thêm chi tiết về hoạt động tội ác này, xem Stephen Kinzer, Mọi thần dân của vua Iran: Hành động tội ác của Mỹ và những căn nguyên của sự khủng bố ở Trung Đông (Hoboken, NJ: John Wiley & Sons, Inc., 2003). Jane Mayer, Thể thao: Vị phó chủ tịch đã làm được gì cho Halliburton?, New Yorker, ngày 16 & 23 tháng 2 năm 2004, trang 83. 

Chương 3. Những bài học cho một EHM 
Để hiểu thêm đất nước Inđônêxia và lịch sử của nó, xem thêm Jean Gelman Taylor: Inđônêxia: Con người và lịch sử (New Haven & London).

Chương 15. Vụ rửa tiền của Ảrập Xêút 
Để biết thêm về những sự kiện dẫn đến lệnh cấm vận dầu lửa năm 1973 và tác động của lệnh cấm này, mời xem: Thomas W. Lippman, Đằng sau ảo ảnh: Sự cộng tác lỏng lẻo với Ảrập Xêút (Boulder CO: Tạp chí Westview, 2004), trang 155-159; Daniel Yergin, Phần thưởng Cuộc tìm kiếm trường kỳ dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực (New York: Free Press, 1993); 
Stephen Schneider, Cuộc cách mạng về giá dầu mỏ  (Baltimore: Tạp chí của Trường Đại học Johns Hopkins, 1983); 
Ian Seymour, OPEC: Công cụ của sự thay đổi (London: McMillan, 1980). Thomas W. Lippman, Đằng sau ảo ảnh: Sự cộng tác lỏng lẻo với Ảrập Xêút (Boulder CO: Tạp chí Westview, 2004), trang 160. 
David Holder và Richard Johns, Ngôi nhà của Saud: Sự nổi lên và luật lệ của một đế chế hùng mạnh nhất trong thế giới Ảrập Xêút (New York: Holt Rinehart và Winston, 1981), trang 359. Thomas W. Lippman, Đằng sau ảo ảnh: Sự cộng tác lỏng lẻo với Ảrập Xêút  (Boulder CO: Tạp chí Westview, 2004), trang 167 

Chương 16. Dẫn khách và đổ tiền cho Osama bin Laden 
Robert Baer, Ngủ với quỷ dữ: Washington đã bán linh hồn của mình để lấy dầu lửa của Ảrập Xêút như thế nào (New York: Nhà xuất bản Crown, 2003), trang 26. Thomas W. Lippman, Đằng sau ảo ảnh: Sự cộng tác lỏng lẻo với Ảrập Xêút ((Boulder CO: Tạp chí Westview, 2004), trang 162. Thomas W. Lippman, Đằng sau ảo ảnh: Sự cộng tác lỏng lẻo với Ảrập Xêút ((Boulder CO: Tạp chí Westview, 2004), trang 62. 
Henry Wasswa, Idi Amin, tên độc tài Uganda đầy sát thí, đã chết, Tạp chí Associated, 17 tháng 8/2003. Liên kết Ả rập, Báo cáo tình hình thế giới và nước Mỹ, 15 tháng 12/2003, trang 21. Liên kết Ả rập, Báo cáo tình hình thế giới và nước Mỹ, 15 tháng 12/2003, trang 19, 20, 26. 
Craig Unger, Cứu giúp Ảrập Xêút, Hội chợ Vanity, tháng 10/2003. Để biết thêm thông tin về sự liên đới của gia đình Bush, Bechtel,… xin xem: Tập đoàn dầu khí Zapata., tạp chí Fortune, tháng 4 năm 1958, trang 248; 
Darwin Payne, Sáng kiến về năng lượng: Các ngành thuộc da, 1880-1978 (New York: Simon và Schuster, 1979); Nathan Varid, Cơn bão sa mạc: nhóm Bechtel đang dẫn đầu cuộc tập kích, và Giao thiệp để lấy hợp đồng, tạp chí Forbes, ngày 23/6/2003, từ trang 63 đến 66; 
Graydon Carter, Bức thư của nhà biên tập: Bay trong bầu trời thân thiện… Hội chợ Vanity, tháng 10/2003; Richard A. Oppel với Diana B. Henriques, Một đất nước đang chiến tranh: Hợp đồng. Công ty có những mối quan hệ với Washington, và với Iraq, Tạp chí New York, ngày 18/4/2003.

Chương 17. Các cuộc đàm phán về kênh đào Panama và Graham Greene Xem ví dụ: John M. Perkins, Không có chỗ cho chủ nghĩa thực dân ở Panama vào năm 1975, tờ Boston Evening Glob, trang Op-Ed, ngày 19/9/1975; John M. Perkins, Hiệp định giữa Mỹ và Brazil khiến Êcuađo lo lắng, tờ Boston Globe, trang Op-Ed, ngày 10/5/1976. 

Lấy ví dụ về những tài liệu của John Perkins xuất hiện trong các tạp chí kỹ thuật, xem: John M. Perkins et al., Một quy trình Markov áp dụng cho dự báo, Phần I- Phát triển kinh tế và Một quy trình Markov áp dụng cho dự báo, Phần II- Nhu cầu về điện năng, Viện Cơ khí điện và Điện tử, Tài liệu hội thảo C 73 475-1 (tháng 7/1973) và C74 146-7 (tháng 1/1974); John M. Perkins và Nadipuram R. Prasad, Mô hình mô tả mối quan hệ tương tác trực tiếp và gián tiếp giữa nền kinh tế và môi trường, Tư vấn về cơ khí, tháng 4/1973; Edwin Vennard, John M. Perkins, và Robert C. Ender, Nhu cầu về điện từ và các hệ thống kết nối, TAPPI Journal (Hiệp hội Kỹ thuật giấy và bột giấy), Tài liệu hội thảo lần thứ 28, 1974; John M. Perkins et al., Ngành thép của Iran: Tác động tới nền kinh tế và nhu cầu về điện năng và Phương pháp Markov áp dụng cho kế hoạch hóa, được trình bày tại Hội thảo về cơ khí tại Iran lần thứ 4, Trường Đại học Pahlavi, Shiraz, Iran, 12-16 tháng 5; và Các lý thuyết kinh tế và những ứng dụng: Tuyển chọn các tài liệu kỹ thuật với lời giới thiệu của John M. Perkins (Boston: công ty Chas. T. MAIN, 1975)

John M. Perkins, Không có chỗ cho chủ nghĩa thực dân ở Panama vào năm 1975, tờ Boston Evening Glob, trang Op-Ed, ngày 19/9/1975 Graham Greene, Tiến tới biết cái đại thể (New York: Sách cầm tay, 1984), trang 89-90. 

Chương 18. Vua của những vị vua 
William Shawcross, Chuyến đi cuối cùng của vua Iran: Số phận của một liên minh (New York: Simon & Schuster, 1988). Để biết thêm cuộc chiến giành quyền lực của vua Iran, mời xem H.D.S. Greenway, Mưu đồ của Iran, Sách New York, ngày 23/9/2003; Stephen Kinzer, Mọi thần dân của vua Iran: Hành động tội ác của Mỹ và những căn nguyên của sự khủng bố ở Trung Đông (Hoboken, NJ: John Wiley & Sons, Inc., 2003). Để biết thêm về Yamin, Dự án sa mạc hoa, và Iran, xem John Perkins, Thay đổi hình dạng (Rochester, VT: Sách đạo đức, 1997). 

Chương 20: Sự sụp đổ của một vị vua 
Để biết thêm cuộc chiến giành quyền lực của vua Iran, mời xem H.D.S. Gr Greenway, Mưu đồ của Iran, Sách New York, ngày 23/9/2003; Stephen Kinzer, Mọi thần dân của vua Iran: Hành động tội ác của Mỹ và những căn nguyên của sự khủng bố ở Trung Đông. Xem các bài xã luận ở tờ tạp chí Time về Ayatollah Ruhollah Khomeini, ngày 12 tháng 2 năm 1979, ngày 7 tháng 1 năm 1980, và ngày 17 tháng 8 năm 1987.

Chương 21: Côlômbia: trung tâm của Châu Mỹ Latinh 
Gerard Colby và Charlotte Dennet, Chúng tôi sẽ được thực hiện, chinh phục vùng Amazon: Neison Rockefeller và Evangelism trong thời đại dầu lửa (New York: HarperCollins, 1995), trang 381. 

Chương 14: Tổng thống củ Êcuađo chiến đấu để giành dầu lửa 
Để biết thêm chi tiết về SIL, lịch sử của nó, và các hoạt động, và mối quan hệ với các công ty dầu lửa và Rockefellers, xem Gerard Colby và Charlotte Dennet, Chúng tôi sẽ được thực hiện, chinh phục vùng Amazon: Neison Rockefeller và Evangelism trong thời đại dầu lửa (New York: HarperCollins, 1995); Joe Kane, Savages (New York: Alfred A. Knopt, 1995) (để biết thêm thông tin về Rachel Saint, trang 85, 156, 227). John D. Martz, Chính trị và dầu lửa ở Êcuađo (New Bruswick và Oxford: Sách giao dịch, 1987), trang 272. Jose Carvajal Candall, Objetivos y Politicas de CEPE (Quito, Êcuađo: Primẻ Seminario, 1979), trang 88. 

Chương 26. Cái chết của Tổng thống Êcuađo 
John D. Martz, Chính trị và dầu lửa ở Êcuađo (New Bruswick và Oxford: Sách giao dịch, 1987), trang 272. Gerard Colby và Charlotte Dennet, Chúng tôi sẽ được thực hiện, chinh phục vùng Amazon: Neison Rockefeller và Evangelism trong thời đại dầu lửa (New York: HarperCollins, 1995), trang 813.
John D. Martz, Chính trị và dầu lửa ở Êcuađo (New Bruswick và Oxford: Sách giao dịch, 1987), trang 303. John D. Martz, Chính trị và dầu lửa ở Êcuađo (New Bruswick và Oxford: Sách giao dịch, 1987), trang 381, 400. 

Chương 27. Panama: Lại một vị Tổng thống nữa bị ám sát 

Graham Greene, Tiến tới biết cái đại thể (New York: Sách cầm tay, 1984), trang 11. George Shultz là Bộ trưởng Bộ Tài chính và là Chủ tịch Hội đồng Chính sách kinh tế dưới thời Tổng thống Nixon và Ford, 1972-1974, Chủ tịch Tập đoàn Bechtel, 1974-1982, làm Ngoại trưởng dưới thời Tổng thống Reagan và Bush, 1982-1989; Caspar Weinberger là Giám đốc Văn phòng Quản lý và Ngân khố và làm Bộ trưởng Bộ Y tế, Giáo dục, và Phúc lợi dưới thời Nixon và Ford, 1973-1975, Phó chủ tịch và Tư vấn trưởng của Tập đoàn Bechtel, 1975-80, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dưới thời Reagan và Bush, 1980-87. 

Trong suốt năm 1973 là năm diễn ra vụ nghe trộm Watergate, trong bản điều trần trước Quốc hội, John Dean là người đầu tiên tiết lộ âm mưu của Mỹ là ám sát ngài Torrijos; năm 1975, theo yêu cầu của Quốc hội đối với CIA, do thượng nghị sĩ Frank Church chủ tọa, bản tường trình bổ sung và việc lập kế hoạch ám sát cả ngày Torrijos và Noriega được đệ trình. Xem, chẳng hạn như, Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 107. 

Chương 28. Công ty của tôi, Enron, và George W. Bush 

Để biết thêm thông tin về IPS, Tập đoàn Năng lượng Archbald, và ngài Giám đốc điều hành John Perkins, xem Jack M. Daly và Thomas J. Duffy, Đốt thn ở Archbald, Cơ khí dân dụng, tháng 7/1988; Vince Coveleskie, tờ The Scranton Times, ngày 17/10/1987; Nhà máy Archibald sẽ biến bụi than thành năng lượng, Citizen’s Voice, Wilkes-Barre, PA, ngày 6/6/1988; 
Tài sản nợ cho tới tài sản có: Từ bụi than cho đến ánh sáng, thức ăn; xã luận, tờ Citizen’s Voice, Wilkes-Barre, PA, ngày 7/6/1988. Joe Conason, Câu chuyện thành công của ngày George W. Bush, Tạp chí Harpers, tháng 2/2000; Craig Unger, Cứu giúp Ảrập Xêút, Hội chợ Vanity, tháng 10/2003, trang 165. Craig Unger, Cứu giúp Ảrập Xêút, Hội chợ Vanity, tháng 10/2003, trang 165 
Xem George Lardner Jr. Và Lois Romano, Bước ngoặt sau khi cạn kiệt, tờ Bưu điện Washington, ngày 30/7/1999; Joe Conason, Câu chuyện thành công của ngày George W. Bush, Tạp chí Harpers, tháng 2/2000; và Sam Parry, Tập đoàn dầu lửa của gia đình Bush-Phần II: Thế hệ thứ ba, http://www.newnetizen.com/predidential/busholigarchy.htm (đc truy cập vào ngày 19/4/2002. Học thuyết này mang một ý nghĩa mới mẻ và dường như đã sắp sụp đổ đến nơi khi chịu nhiều sự săm soi của công chúng, và khi mà vài năm sau đó công ty kế toán có tiếng là Arthur Andersen đã câu kết với các giám đốc của Enron để lừa gạt những người tiêu dùng năng lượng, công nhận của Enron, và công chúng Mỹ hàng tỷ đô la. Cuộc chiến ở Iraq năm 2003 đã gạt tâm điểm này sang một bên. Trong suốt cuộc chiến, Bahrain đã đóng một vai trò quyết định trong chiến lược của Tổng thống George W. Bush. 

Chương 29. Tôi nhận hối lộ Jim Garrison, 
Đế chế Mỹ: Kẻ vay nợ toàn cầu hay quyền lực xấu xa? (San Francisco: Nxb. Berret- Koehler, 2004), trang 38. 

Chương 30. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ xâm lược Panama 

Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 56. David Harris, Bắn mặt trăng: Câu chuyện có thật của kẻ cuồng sĩ người Mỹ không giống bất kỳ ai (Boston: Little, Brown và công ty, 2001), trang 31-34. David Harris, Bắn mặt trăng: Câu chuyện có thật của kẻ cuồng sĩ người Mỹ không giống bất kỳ ai (Boston: Little, Brown và công ty, 2001), trang 43. Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh Unger, Cứu giúp Ảrập Xêút, Hội chợ Vanity, tháng 10/2003, trang 165 Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 114. Xem www.farmousexans.com/georgebush.htm, trang 2. Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 56-57. David Harris, Bắn mặt trăng: Câu chuyện có thật của kẻ cuồng sĩ người Mỹ không giống bất kỳ ai (Boston: Little, Brown và công ty, 2001), trang 6. www.farmousexans.com/georgebush.htm, trang 3. David Harris, Bắn mặt trăng: Câu chuyện có thật của kẻ cuồng sĩ người Mỹ không giống bất kỳ ai (Boston: Little, Brown và công ty, 2001), trang 4. Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 248. Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 211. Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang xxi.

Chương 31. Một thất bại của EHM tại Iraq Morris Barret, Thế giới hoang dại của Web, tờ Time, ngày 26/4/1999, trang 62. 

Chương 32. Sự kiện 11/9 và những ảnh hưởng xấu tới riêng cá nhân tôi 
Để biết thêm về Huaranis, mời xem Joe Kane, Những kẻ hoang dã (New York: Alfred A. Knòp, 1995). 

Chương 33. Vênêzuêla: được Saddam cứu giúp 
Vênêzuêla bên bờ vực, xã luận trên tờ Thời báo New York, ngày 18/12/2002. Cuộc cách mạng sẽ không được phát đi, do Kim Bartley và Donnacha O’Briain làm đạo diễn (liên kết với Hội đồng phim của Ireland, 2003). Xem . Tổng thống Vênêzuêla bị buộc từ chức, Association Press, ngày 12/4/2002. Simon Romeo, Thời điểm ngừng bắn rất mong manh ở Vênêzuêla, tờ Thời báo New York, ngày 24/4/2002. Bob Edwards, Điều gì đã khiến giấc mơ về dầu lửa ở Vênêzuêla trở nên sai lầm, Đài phát thanh Quốc gia, Bản tin buổi sáng, ngày 8/7/2003. Ginger Thompson, Những người biểu tình ở Vênêzuêla tiếp tục gây áp lực đối với ngày Chavez và việc xuất khẩu dầu mỏ, tờ Thời báo New York, ngày 30/12/2002.

Để hiểu thêm về những tay sát thủ và các loại tình báo kinh tế khác mời xem: P.W. Singer, Các chiến binh: Sự nổi lên của ngành công nghiệp quân sự được tư nhân hóa (Ithaca, NY và London: báo của trường Cornell, 2003); James R. Davis, Những chiến binh của số mệnh: Quân đội tư nhân và Trật tự thế giới mới (Vancouver và Toronto: Douglas & McIntyre, 2000); Felix I. Rodriguez và John Weisman, Các chiến binh giấu mặt: Người hùng CIA của 100 trận đánh không tên (New York: Simon & Schuster, 1989). 
Tim Weiner, Một hành động dũng cảm, tờ Thời báo New York, ngày 14/4/2002. Nhà lãnh đạo Vênêzuêla mất 20 năm mới dẹp được bạo loạn, Association Press, ngày 22/2/2003. Paul Richter, Mỹ đã thương lượng để phế truất Chavez, tờ Thời báo Los Angeles, ngày 17/4/2002. 

Chương 34. Thăm lại Êcuađo 

Chris Jochnick, Sự thịnh vượng nguy hiểm, báo Quốc tế mới, tháng 6/2001, http://www.newint.org/issue335/perilous.htm. Liên Hợp Quốc, Báo cáo phát triên con người (New York: Liên Hợp Quốc, 1999). Để biết thêm thông tin về tình hình bắt giữ con tin, xem Alan Zibel, Những người bản địa tìm tiền bồi thường do ô nhiễm, Oakland Tribune, ngày 10/12/2002; Tàu nhỏ (Quito, nhật báo Êcuađo) tạ chí ra ngày 10-2-2003; Achuar giải phóng 8 còn tin, El Commercio (nhật báo Quito), ngày 16/12/2002 (cũng được Reuters đưa tin); Êcuađo: Công ty dầu lửa ngừng hoạt động do nhân viên yêu cầu chính phủ phải hành động và Những người bản địa Sarayacu họp mặt để bàn cách giải phóng những công nhân dầu lửa dang bị bắt cóc, El Universo (Guayaquil Êcuađo, nhật báo), http://www.eluniverso.com, ở vùng Amazon, tờ Thời báo New York, ngày 10/12/2003. Thông tin cập nhật về người dân vùng Amazon ở Êcuađo có tại trang web Pachamama Alliance: http://www.pachamama.org 

Chương 35. Phá vỡ lớp vỏ bọc 
1.        Thống kê về nợ quốc gia từ Vụ công nợ, được báo cáo tại www.publicdebt.treas.gov/opdpenny.htm; thống kê tài khoản quốc gia từ Ngân hàng Thế giới tại www.worldbank.org/data/databytopic/GNIPC.pdf. 
2.        Elizabeth Becker và Richard A. Oppel, Một quốc gia đang có chiến tranh: Tái kiến thiết. Mỹ đưa Bechtel một hợp đồng chính để tái kiến thiết Iraq, tờ Thời báo New York, ngày 18/4/2003, http:// www.nytimes.com/2003/04/18/ quốc tế/ chuyên mục quốc tế đặc biệt/18REBU.html. 
3.        Richard A. Oppel với Diana B. Henriques, Một quốc gia đang có chiến tranh:Nhà thầu Công ty có mối quan hệ với Washington, và với Iraq, tờ Thời báo New York, ngày 18/4/2003, http:// www.nytimes.com/2003/04/18/ quốc tế/ chuyên mục quốc tế đặc biệt/18REBU.html. 
4.        http://money.cnn.com/2003/04/17/news/companies/war-bechtel/index.htm. Phần kết Quản lý thông tin về năng lượng, tờ Nước Mỹ ngày nay, ngày 1/3/2004, trang 1.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.