Lời thú tội của một sát thủ kinh tế

Chương 23: Bản lý lịch dối trá



Khi đang còn ở Côlômbia, tôi nhận được tin rằng Jake Daber đã thôi không còn giữ chức Chủ tịch MAIN. Đúng như dự đoán, Chủ tịch và Giám đốc điều hành Mac Hall đã chỉ định Bruno thay thế Dauber. Đường dây điện thoại giữa Boston và Barranquilla hoạt động liên tục. Tất cả mọi người đều đoán tôi cũng sẽ sớm được thăng chức; vì dù gì tôi cũng là một trong những người được Bruno tin cậy. 

Những thay đổi và tin đồn này càng thôi thúc tôi xem xét lại vị trí của mình. Khi còn ở Côlômbia, đã nghe theo lời khuyên của Paula và đọc bản lý lịch của mình bằng tiếng Tây Ban Nha. Tôi thực sự bị sốc. Trở về Boston, tôi đã tìm cả bản tiếng Anh và cả tờ tạp chí của công ty, MAINLINES số tháng 11/1978. Trong số đó, tôi được nhắc đến trong bài báo có tên là “Các chuyên gia đem lại cho các khách hàng của MAIN những dịch vụ mới”. 

Tôi từng có thời rất tự hào về bản lý lịch và bài báo đó, nhưng bây giờ, sau khi đọc chúng theo cách nhìn của Paula, trong tôi dấy lên một cảm xúc thất vọng và giận dữ. Tư liệu sử dụng cho bài viết đó cho thấy một sự giả tạo có chủ định, nếu không muốn nói là hoàn toàn dối trá. Và những văn bản này còn có một ý nghĩa quan trọng hơn, một thực tế phản ánh thực tiễn thời đại của chúng ta và động chạm đến cốt lõi của hành trình xây dựng đế chế toàn cầu. Chúng là hình ảnh thu nhỏ của một chiến lược được tính toán để phô diễn những diện mạo bên ngoài và ngụy trang cho sự thật bên trong. Theo một cách nào đó, chúng tượng trưng cho câu chuyện cuộc đời tôi, một lớp sơn láng bóng che đậy cái bề mặt giả dối. 

Tất nhiên, tôi chẳng thoải mái gì khi nhận ra rằng tôi phải chịu phần lớn trách nhiệm về những gì được viết ra trong bản lý lịch của mình. Theo quy định làm việc thông thường, người ta yêu cầu tôi phải liên tục cập nhật bản lý lịch cá nhân cơ bản và tập hồ sơ với các thông tin về khách hàng của tôi và những công việc mà tôi đã làm. Nếu một người làm công tác tiếp thị hay giám đốc dự án muốn đưa tôi vào một bản đề xuất hay sử dụng danh tiếng của tôi, họ có thể nhào nặn các thông tin này để đáp ứng một cách tốt nhất các nhu cầu cụ thể của họ. 

Ví dụ, họ có thể nhấn mạnh về kinh nghiệm làm việ của tôi ở Trung Đông, hoặc về việc tôi đã phát biểu tại Ngân hàng Thế giới và các diễn đàn quốc tế khác. Bất cứ khi nào những người này sửa đổi xong bản lý lịch của tôi theo ý của họ, họ sẽ phải được tôi chấp thuận rồi mới được công khai bản lý lịch đã sửa đổi đó. Tuy nhiên, giống như nhiều nhân viên khác của MAIN, tôi đi rất nhiều, chính vì thế cũng thường có nhiều trường hợp ngoại lệ là tôi không được biết bản lý lịch của mình đã được sửa đổi. Do đó bản lý lịch mà Paula nói để tôi đọc, cả bản tiếng Tây Ban Nha và bản tiếng Anh đều hoàn toàn mới đối với tôi, dù rằng những thông tin ghi trong đó đều đã từng xảy ra trong cuộc đời tôi.

Mới liếc qua, bản lý lịch của tôi có vẻ như rất bình thường. 

John M.Perkins là Trưởng ban Kinh tế của ban Hệ thống Môi trường và điện. Từ khi gia nhập MAIN, ông Perkins đã từng tham gia vào các dự án quan trọng ở Mỹ, Châu Á, Châu Mỹ Latinh và Trung Đông. Công việc của ông bao gồm lập kế hoạch phát triển, dự báo kinh tế, dự báo nhu cầu năng lượng, nghiên cứu thị trường, lựa chọn địa điểm xây dựng nhà máy, phân tích phân phối năng lượng, nghiên cứu tính khả thi kinh tế, nghiên cứu tác động kinh tế và môi trường, tư vấn quản lý và lên kế hoạch đầu tư. Ngoài ra, ông và các đồng sự của mình đã cùng xây dựng nhiều dự án liên quan đến việc đào tạo khách hàng áp dụng kỹ thuật. Gần đây, ông Perkins đã phụ trách dự án thiết kế chương trình máy tính phục vụ: 
1) dự báo nhu cầu về năng lượng và định lượng các mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và sản xuất năng lượng. 2) đánh giá tác động của các dự án đến môi trường và kinh tế xã hội và 
3) áp dụng mô hình Markov và các mô hình kinh tế lượng trong hoạch định kế hoạch kinh tế quốc gia và khu vực. 
Trước khi làm việc tại MAIN, ông Perkins đã có ba năm làm việc tại Êcuađo để tiến hành nghiên cứu thị trường, tổ chức và quản lý một công ty vật liệu xây dựng. Ông cũng đã tiến hành nhiều nghiên cứu về tính khả thi của việc tổ chức các hợp tác xã tín dụng và các quỹ tích kiệm ở Êcuađo.

TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN 
Cử nhân quản trị kinh doanh; Đại học Boston 
Sau đại học: Xây dựng mô hình, Kinh tế học công trình, Kinh tế lượng, Các phương pháp xác suất. 
NGÔN NGỮ Tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha 
THÀNH VIÊN CÁC TỔ CHỨC NGHỀ NGHIỆP: Hiệp hội Kinh tế Mỹ Hiệp hội Phát triển quốc tế 

CÁC ẤN PHẨM ĐÃ PHÁT HÀNH: Quy trình Markov áp dụng trong dự báo về năng lượng Cách tiếp cận vĩ mô trong dự báo năng lượng Mô hình miêu tả mối quan hệ tác động trực tiếp và gián tiếp giữa kinh tế và môi trường Năng lượng điện từ hệ thống quan hệ tương tác Phương pháp Markov áp dụng trong hoạch định kế hoạch

SỞ TRƯỜNG: Nghiên cứu dự báo Nghiên cứu Marketing Nghiên cứu tính khả thi Nghiên cứu lựa chọn địa điểm Nghiên cứu tác động kinh tế Lập kế hoạch đầu tư Nghiên cứu nguồn cung nhiên liệu Lập kế hoạch phát triển kinh tế 
Các chương trình đào tạo Quản lý dự án, Tư vấn quản ly 

CÁC KHÁCH HÀNG: Công ty dầu Mỹ- Ả rập, Ảrập Xêút Ngân hàng Phát triển Châu Á Tập đoàn Boise Cascade Tập đoàn City Service Công ty Ánh sáng và Điện Dayton Công ty General Electric (GE) Chính phủ Cô oét Instituto de Recursos Hidraulicó y Electrification, Panama Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ Ngân hàng Quốc tế về Tái thiết và Phát triển Bộ năng lượng Iran Thời báo New York Sở Điện lực bang New York Perusahaan Umum Listrik Negara, Inđônêxia Công ty Ga & Điện Nam Carolina Hiệp hội Kỹ thuật ngành giấy và bột giấy Tập đoàn Union Camp “Bộ Tài chính Mỹ, Vương quốc Ảrập Xêút”

Các chuyên gia đem lại cho khách hàng của MAIN những dịch vụ mới (Pauline Quellette) Nhìn những gương mặt đang ngồi sau bàn làm việc, có thể dễ dàng nhận thấy là Ban Kinh tế và Hoạch định kế hoạch là một trong những bộ phận mới được thành lập và đang phát triển nhanh tại MAIN. Đến nay trong nhóm này có khoảng 20 chuyên gia, được tập hợp lại trong thời gian 7 năm vừa qua. Các chuyên gia ở đây không chỉ có những nhà kinh tế học mà còn gồm cả các nhà quy hoạch đô thị, các nhà nhân khẩu học, các chuyên gia thị trường và các nhà xã hội học đầu tiên của MAIN. 

Mặc dù việc hình thành nhóm kinh tế này là nhờ có đóng góp của một số người, song những thành công của nhóm là nhờ có nỗ lực của một người, ông John Perkins, hiện đang là Trưởng nhóm Bắt đầu làm việc tại MAIN với vai trò trợ lý cho trưởng nhóm dự báo vào tháng 1/1971, John là một trong số ít nhà kinh tế làm việc cho MAIN trong thời gian đó. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là tham gia nhóm chuyên gia gồm 11 người đi đến Inđônêxia để tiến hành nghiên cứu về nhu cầu điện năng.   

“Người ta muốn thử xem liệu tôi có thể sống sót trong vòng 3 tháng ở đó không”, John cười to khi nhớ lại. Nhưng với trình độ và thành tích của mình, John chẳng khó gì mà không “sống sót” được. Trước đó ông vừa ở Êcuađo ba năm để làm việc cho một hợp tác xã vật liệu xây dựng, giúp những người da đỏ ở Quechua, hậu duệ của người Incas. John kể lại những người da đỏ đó ở đây bị bóc lột để làm công việc đóng gạch, vì vậy một tổ chức của Êcuađo đã đề nghị liên kết với John thành lập hợp tác xã. Sau đó, John đã thuê một chiếc xe tải để học có thể giao gạch trực tiếp cho khách hàng. Kết quả là lợi nhuận của hợp tác xã tăng nhanh chóng, thêm 60%. Phần lợi nhuận này được chia cho các thành viên của hợp tác xã. 

Chỉ sau hai năm rưỡi, cả hợp tác xã đã có tới 2000 hộ gia đình tham gia. Cũng trong thời gian này, John Perkins đã gặp Einar Greve (một nhân viên cũ của MAIN) [Ông đã rời khỏi MAIN và về làm việc tại thị trấn Paute, Êcuađo trong một dự án thủy điện của MAIN. Hai người đã trở thành bạn của nhau. Qua trao đổi thư từ, John được mời làm việc tại MAIN. Khoảng một năm sau, John trở thành nhà dự báo Kinh tế trưởng. Khi yêu cầu từ các khách hàng và các tổ chức như Ngân hàng Thế giới ngày càng tăng, John nhận ra rằng MAIN cần có thêm nhiều nhà kinh tế nữa. 

Ông kể lại: “Khi MAIN chỉ là một công ty làm kỹ thuật, các khách hàng đã nói với chúng tôi rằng chúng tôi cần phải phát triển hơn nữa”. Năm 1973, John tuyển thêm các nhà kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng, và hình thành nên bộ phận mà sau mang lại cho ông chức danh nhà Kinh tế trưởng.

Dự án mới nhất của John liên quan đến phát triển nông nghiệp ở Panama, nơi ông ở khoảng 1 tháng trước đó. Chính tại Panama, MAIN đã tiến hành nghiên cứu xã hội đầu tiên thông qua nhà xã hội học đầu tiên của công ty là Martha Hayes. Marti đã dành một tháng rưỡi ở Panama nghiên cứu về những tác động của dự án đối với văn hóa và cuộc sống của con người nơi đây. 

Các chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp và các lĩnh vực có liên quan khác cũng tham gia vào cùng nghiên cứu này.  Bộ phận Kinh tế và Quy hoạch vùng đã phát triển với tốc độ nhanh chóng, song John còn cảm thấy may mắn vì được làm việc trong một tập thể mà mỗi cá nhân đều là những chuyên gia hết sức nhiêtu tình với công việc. Ông nói với tôi rằng ông đánh giá cao sự hăng say công việc và sự hỗ trợ của những thành viên trong nhóm. 

MAINLINES 11/1978

Trong phần kinh nghiệm có ghi tôi đã từng tham gia các dự án quan trọng ở Mỹ, Châu Á, Châu Mỹ Lating và Trung Đông, sau đó ở dưới là một danh sách khá hoàn chỉnh về các loại dự án: Lập kế hoạch phát triển, dự báo kinh tế, dự báo nhu cầu năng lượng,… Phần này kết thúc bằng việc miêu tả nhiệm vụ của tôi trong Quân đoàn Hòa bình ở Êcuađo; song lại không nhắc gì đến Quân đoàn Hòa bình, khiến người đọc có cảm giác như tôi là Giám đốc chuyên môn của một công ty vật liệu xây dựng nào đó chứ không phải là một tình nguyện viên có trách nhiệm hỗ trợ một tập thể nhỏ những nông dân Andean thất học làm nghề đóng gạch. 

Theo sau là một danh sách dài các khách hàng của tôi. Danh sách này bao gồm Ngân hàng Quốc tế về Tái thiết và Phát triển (tên chính thức của Ngân hàng Thế giới), Ngân hàng Phát triển Châu Á, Chính phủ Cô oét, Bộ Năng lượng  Iran, Công ty Dầu Ả rập-Mỹ của Ảrập Xêút, Instituto de Recursos Hidraulicos y Electrificacion, Perusahaan Umum Listrick Negara và nhiều khách hàng khác. Nhưng điều khiến tôi chú ý là phần cuối danh sách có ghi “Bộ tài chính Mỹ, Vương quốc Ảrập Xêút”. Tôi vô cùng sửng sốt vì trong các bản lý lịch trước đây không có dòng cuối này, dù nó không sai lệch so với những gì đã diễn ra trong cuộc đời tôi.

Đặt bản lý lịch xuống, tôi mở xem bài báo trên tờ MAINLINES. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ cuộc phỏng vấn giữa tôi và tác giả bài viết đó, một phụ nữ rất tài năng và thiện chí. Trước khi đăng bài báo này, cô ấy đã đưa cho tôi đọc qua. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác hài lòng vì cô ấy đã tôn chân dung tôi lên, và ngay lập tức tôi đã đồng ý đăng bài báo đó. Và một lần nữa, tôi phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Bài báo bắt đầu như sau: Ngắm nhìn những gương mặt đang ngồi sau bàn làm việc, có thể dễ dàng nhận ra rằng nhóm Kinh tế học và quy hoạch vùng là một trong những bộ phận mới được thành lập và đang đi lên nhanh chóng ở MAIN… 

Mặc dù có nhiều người góp công vào việc hình thành nên nhóm kinh tế học này, song về cơ bản những thành công của nhóm là nhờ nỗ lực của một người, ông John Perkins, hiện đang là Trưởng nhóm. Bắt đầu làm việc tại MAIN với vai trò trợ lý cho trưởng nhóm dự báo vào tháng 1/1971, John là một trong số ít nhà kinh tế làm việc cho MAIN trong thời gian đó. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là tham gia nhóm chuyên gia gồm 11 người đi đến Inđônêxia để tiến hành nghiên cứu về nhu cầu điện năng. 

Bài báo đã tóm tắt ngắn gọn quá trình làm việc của tôi trước đó, miêu tả “ba năm” tôi sống ở Êcuađo như thế nào, và tiếp tục như sau: Cũng trong thời gian này, John Perkins đã gặp Einar Greve (một nhân viên cũ của MAIN) [Ông đã rời khỏi MAIN và về làm việc tại thị trấn Paute, Êcuađo trong một dự án thủy điện của MAIN. Hai người đã trở thành bạn của nhau. Qua trao đổi thư từ, John được mời làm việc tại MAIN. Khoảng một năm sau, John trở thành nhà dự báo Kinh tế trưởng. Khi yêu cầu từ các khách hàng và các tổ chức như Ngân hàng Thế giới ngày càng tăng, John nhận ra rằng MAIN cần có thêm nhiều nhà kinh tế nữa. Tất cả những gì được viết trong các tài liệu trên không hoàn toàn dối tra. 

Tất cả các tư liệu lưu trữ cho cả hai tài liệu đều được lưu trong hồ sơ của tôi. Song những lời lẽ trong bài có phần nào bóp méo sự thật và có vẻ đã được làm nhẹ bớt đi. Và trong một nền văn hóa luôn tôn thờ các tài liệu nguyên bản, những lời lẽ đó còn mang một ý nghĩa kinh khủng hơn. Những lời nói dối trắng trợn có thể bị bác bỏ. Trái lại, ta cũng không thể bác bỏ những gì ghi trong hai văn bản kia vì chúng dựa trên những sự thật mơ hồ, chứ không phải là sự giả dối hiển nhiên và bơi vì chúng lại do chính một tập đoàn đã chiếm được lòng tin của các tập đoàn khác, của các ngân hàng quốc tế và chính phủ viết nên. 

Điều này càng đúng với bản lý lịch vì đó là văn bản chính thức. Nó khác với bài viết trên báo vốn chỉ là một cuộc phỏng vấn ngoài lề được đăng trên tạp chí mà thôi. Biểu tượng của MAIN được in ở cuối bản lý lịch và ngoài bìa của tất cả các đề xuất và báo cáo mà bản lý lịch nhắc tới. Nó có trọng lượng trong giới kinh doanh quốc tế; nó là con dấu chứng minh tính xác thực có độ tin cậy như những con dấu đóng trên các bằng cấp và chứng chỉ được lồng khung treo trong các văn phòng của luật sư hay phòng khám của bác sỹ.

Các văn bản này khắc họa như tôi như một nhà kinh tế xuất sắc, Trưởng ban của một công ty tư vấn có uy tín, người đã đi vòng quanh thế giới này văn minh và thịnh vượng hơn. Sự giả dối không phải trong những gì được nêu ra trong các văn bản đó mà ở những gì hai văn bản đó không nhắc tới. Nếu tôi lấy tư cách một kẻ ngoài cuộc- để có một cái nhìn hoàn toàn khách quan- tôi phải thừa nhận rằng, những sự bỏ sót này làm nảy sinh rất nhiều câu hỏi. 

Ví dụ, các văn bản này chẳng hề nhắc đến việc tôi từng làm việc cho NSA hay mối liên hệ giữa Einar Greve với quân đội và vai trò làm đầu mối cho NSA của ông ta. Chúng cũng không bàn gì đến thực tế là tôi đã chịu sức ép khủng khiếp và buộc phải đưa ra những dự báo kinh tế cao hơn nhiều so với thực tế, hay cũng không nói rằng, phần lớn công việc của tôi chỉ xoay quanh việc thu xếp các khoản nợ khổng lồ mà các nước như Inđônêxia hay Panama không bao giờ có thể trả được. Hai văn bản đó cũng không nhắc đến sự chính trực của người tiền nhiệm tôi- Howard Parker, cũng không nói rằng tôi trở thành Trưởng nhóm dự báo vì tôi luôn sẵn lòng đưa ra những nghiên cứu sai lệch theo ý muốn của sếp tôi, chứ không như Howard- là nói những gì ông tin là đúng và cuối cùng bị sa thải. Khó hiểu nhất là những dòng cuối trong danh sách khách hàng của tôi: đó là Bộ Tài chính Mỹ, Vương quốc Ảrập Xêút.

Tôi cứ xem đi xem lại dòng này và tự hỏi mọi người sẽ diễn giải hai dòng này như thế nào. Rất có thể họ sẽ đặt câu hỏi là liệu có mối liên hệ gì giữa Bộ tài chính và Ảrập Xêút không. Có lẽ một vài người sẽ coi đó là lỗi in ấn khi hai dòng khác nhau bị ghép vào làm một. Tuy nhiên, phần lớn các độc giả sẽ không bao giờ đoán nổi sự thật là chúng được ghi như vậy vì một lý do đặc biệt. Có như vậy thì nội bộ những người trong giới hoạt động của tôi mới hiểu rằng tôi là một thành viên của nhóm soạn thảo cái thỏa thuận thế kỷ, một thỏa thuận đã làm thay đổi cả tiến trình lịch sử nhưng chưa từng được đưa lên mặt báo. Tôi đã giúp tạo ra một giao kèo đảm bảo nước Mỹ luôn có dầu, bảo vệ các nguyên tắc của Hoàng gia Ảrập Xêút, và hỗ trợ tài chính cho Osama bin Laden cũng như bảo vệ các tội phạm quốc tế như Idi Amin ở Uganda. Dòng duy nhất trong cái sơ yếu lý lịch đó đã báo cho những người trong cuộc biết. Nó cho biết, nhà Kinh tế trưởng của MAIN là một người có thể làm mọi điều. 

Đoạn cuối cùng trong bài báo là một quan sát của cá nhân tác giả, và nó khiến tôi giận điên.

Bộ phận Kinh tế và Quy hoạch vùng đã phát triển với tốc độ nhanh chóng, song John còn cảm thấy may mắn vì được làm việc trong một tập thể mà mỗi cá nhân đều là những chuyên gia hết sức nhiêtu tình với công việc. Ông nói với tôi rằng ông đánh giá cao sự hăng say công việc và sự hỗ trợ của những thành viên trong nhóm.   

Trên thực tế, tôi chưa bao giờ tự cho mình là một nhà kinh tế trung thực. Tôi đã tốt nghiệp cử nhân về quản trị kinh doanh ở Trường Đại học Boston, chuyên ngành marketing. Tôi luôn học rất kém môn toán và môn thống kê. Ở trường Cao đẳng Middlebury, tôi học chuyên ngành văn học Mỹ, vì vậy đối với tôi viết lách không khó. Vị trí Kinh tế trưởng và Trưởng nhóm Kinh tế và Quy hoạch chẳng phải nhờ vào năng lực của tôi về kinh tế hay quy hoạch vùng mà chỉ đòi hỏi tôi trách nhiệm sẵn sàng cung cấp các loại nghiên cứu và kết luận theo đúng ý sếp và khách hàng, cùng với sự nhạy bén mà tôi vốn có trong việc thuyết phục người khác bằng những từ ngữ tôi viết ra. Bên cạnh đó, tôi cũng đủ khéo léo để tìm kiếm đồng sự là những người xuất sắc, nhiều người trong số họ là thạc sỹ, có hai người là tiến sỹ. Tôi tuyển dụng được những nhân viên hiểu biết hơn tôi về công việc chuyên môn. Vì vậy chẳng có gì lạ khi tác giả bài báo kết luận rằng “Ông đánh giá cao lòng hăng say công việc và sự hỗ trợ của những thành viên trong nhóm.”

Tôi giữ hai văn bản này cùng một số giấy tờ tương tự trong ngăn kéo trên cùng của bàn làm việc và thường giở chúng ra xem lại. Mỗi lần xem xong, tôi thường ra khỏi phòng, lang thang quanh bàn làm việc của các đồng nghiệp, quan sát những người đang làm việc cho tôi, và tôi cảm thấy có lỗi về những gì tôi đã làm với họ, và về vai trò của chúng tôi trong việc nới rộng thêm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo. Tôi nghĩ về những con người đang chết đói hàng ngày trong khi tôi và các đồng nghiệp của mình sống trong những khách sạn hạng nhất, ăn uống ở những nhà hàng tốt nhất và mua thêm nhiều cổ phiếu để làm giàu. 

Tôi nghĩ về một thực tế là những người tôi đào tạo nay đã đứng vào hàng ngũ của các EHM. Chính tôi là người đã đẩy họ vào đó. Tôi đã tuyển dụng và đào tạo họ. Nhưng bây giờ, hệ thống đó đã không còn như khi tôi mới bước chân vào. Thế giới đã thay đổi và các tập đoàn cũng đã có những bước tiến mới. Chúng tôi đã kiếm được nhiều tiền hơn hay nói cách khác là đã trở nên thâm hiểm hơn. những người làm việc cho tôi là một thế hệ mới. Trong cuộc đời của họ, không có sự hiện diện của các máy móc dò tìm của NSA hay Claudine. Không ai nói cho họ biết họ đang đảm đương trách nhiệm của đế chế toàn cầu. Họ chưa bao giờ được nghe về khái niệm sát thủ kinh tế hoặc thậm chí cả EHM, cũng chưa có ai bảo cho họ biết cả. Họ chỉ đơn giản học từ những ví dụ của tôi và từ hệ thống khen thưởng và trừng phạt của tôi mà thôi. Họ biết rằng họ phải đưa ra những nghiên cứu và kết quả mà tôi mong muốn. Lương của họ, cả tiền thưởng dịp Giáng sinh, và thực tế là cả công việc của họ nữa, tất cả đều phụ thuộc vào việc họ có khiến tôi hài lòng hay không.

Tất nhiên tôi đã làm tất cả mọi thứ mà tôi có thể mường tượng ra để làm nhẹ bớt gánh nặng cho họ. Tôi đã viết bài, giảng bài và tận dụng tất cả các cơ hội có thể để thuyết phục họ về tầm quan trọng của các dự báo lạc quan, của các khoản vay khổng lồ, của việc đầu tư vốn nhằm kích thích tăng trưởng GNP và biến thế giới này thành một nơi tốt đẹp hơn. Không cần phải mất đến một thập niên để đi đến tình trạng hiện nay, khi mà sự cám dỗ, sự áp bức trở nên tinh vi hơn, giống như một kiểu tẩy não nhẹ nhàng. Bây giờ, những người này, đang ngồi ở những chiếc bàn ngoài văn phòng nhìn ra vịnh Boston’s Back của tôi, đang vươn ra thế giới để đẩy nhanh sự nghiệp đế chế toàn cầu. Nói một cách thực sự thì tôi đã tạo ra họ, giống như Claudine đã tạo ra tôi vậy. Nhưng không giống như tôi, họ được giữ trong bóng tối. 

Nhiều đêm tôi nằm thao thức, suy nghĩ và day dứt về điều đó. Việc Paula gợi ý tôi đọc bản lý lịch đã mở ra mọi sự nghịch lý, và tôi luôn cảm thấy ghen tỵ với các đồng nghiệp của mình, với sự ngây thơ của họ. Tôi cố tình lừa dối họ, và khi làm như vậy, tôi đã bảo vệ họ khỏi bị lương tâm cắn rứt. Họ không phải đấu tranh với những vấn đề đạo đức mà giờ đây đang hành hạ tôi.

Tôi cũng nghĩ nhiều về sự liêm chính trong kinh doanh, về các biểu hiện bên ngoài đối lập với thực tế. Tất nhiên, tôi tự nói với bản thân mình, từ xưa đến nay con người vẫn lừa dối lẫn nhau. Trong truyền thuyết và các câu chuyện dân gian đầy rẫy những dối lừa: Những người buôn thảm lừa đảo, những kẻ cho vay nặng lãi và những người thợ may sẵn sàng thuyết phục nhà vua rằng quần áo ho may cho vua chỉ tàng hình với nhà vua mà thôi. 

Tuy nhiên, dù muốn kết luận là mọi thứ vẫn luôn như vậy, rằng bản lý lịch của tôi tại MAIN và sự thật đằng sau nó đơn thuần là phản ánh đúng bản chất con người, trong sâu thẳm trái tim mình, tôi biết là không phải như vậy. Mọi thứ đã thay đổi. Giờ đây tôi hiểu rằng chúng tôi đã đạt đến một mức độ giả dối mới, và nó sẽ hủy hoại chính chúng tôi – không chỉ về mặt đạo đức mà là cả về vật chất, toàn nền văn hóa của chúng tôi nếu chúng tôi không sớm có những thay đổi quan trọng.

Tội phạm có tổ chức có thể là một ví dụ phù hợp. Có tên trùm Mafia thường xuất thân từ những tên côn đồ đường phố. Nhưng qua thời gian, những kẻ leo lên được nấc thang cao hơn đều thay đổi vẻ bề ngoài của mình. Chúng sẽ khoác trên mình những bộ vét được may một cách hoàn hảo, sở hữu các doanh nghiệp hợp pháp và tự cuộn mình trong vỏ bọc của một người có vị thế cao trong xã hội. Chúng sẽ tham gia các hoạt động từ thiện tại địa phương và được cộng đồng kính nể. Chúng hào hiệp cho những người đang trong cảnh khốn cùng vay tiền. Giống như hình ảnh John Perkins trong bản lý lịch của MAIN, những kẻ này xuất hiện như những công dân hiện đại. Tuy nhiên, ẩn đằng sau lớp vỏ hào nhoáng đó là máu. Khi những con nợ không trả được nợ, những tên sát thủ này bắt đầu ra tay, ép họ phải trả tiền. Nếu không thu được nợ, lũ chó săn đó sẽ bắt đầu sử dụng đến những chiếc gậy bóng chày. Và cuối cùng là súng.

Tôi nhận ra rằng vẻ hào nhoáng của một nhà Kinh tế trưởng, Trưởng Bộ phận Kinh tế và Hoạch định Kế hoạch không chỉ là sự giả dối đơn thuần của một kẻ buôn thảm bình thường, không phải sự giải dối mà người mua có thể nhận ra ngay được. Sự giả dối đó là một phần trong cả một hệ thống hết sức thâm hiểm, nó không chỉ nhắm đến những khách hàng ngây thơ và khờ khạo, mà còn để phát triển hình thức thực dân tinh vi và hiệu quả nhất từng tồn tại trên thế giới. Tất cả các nhân viên trong văn phòng tôi đều có một chức danh- nhà phân tích tài chính, nhà xã hội học, nhà kinh tế học, nhà kinh tế trưởng, nhà kinh tế lượng, chuyên gia dự báo giá cả,…; song không chức danh nào trong số đó nói được lên sự thật là mỗi người trong số này đều là một sát thủ kinh tế, và họ đang phục vụ cho lợi ích của đế chế toàn cầu. 

Chức danh của các nhân viên của tôi cũng không cho thấy rằng chúng tôi mới chỉ là bề nổi của tảng băng trôi. Tất cả các công ty quốc tế lớn, từ những công ty kinh doanh giày và các sản phẩm thể thao khác đến những công ty sản xuất các thiết bị- đều có một hệ thống sát thủ kinh tế EHM của riêng mình. Chiến dịch đã bắt đầu và nó nhanh chóng lan rộng ra cả hành tinh này. Những tên du côn đã cởi bỏ áo da, khoác vào bộ cánh doanh nhân và trưng ra một bề ngoài đáng kính trọng. Những người đàn ông và những người phụ nữ bước ra từ trụ sở những tập đoàn lớn ở New York, Chicago, San Francisco, London, và Tokyo, đi đến mọi châu lục, thuyết phục những chính trị gia dễ bị mua chuộc để họ trói buộc đất nước của họ vào thế giới của tập đoàn trị, và xúi giục những con người tuyệt vọng bán mình cho các công ty lắp ráp và các xí nghiệp bóc lột tàn tệ. 

Những điều ẩn đằng sau những dòng chữ viết trong bản lý lịch và trong bài báo đã hé lộ cả một thế giới mù mịt đầy gian dối đang quyết trói chúng tôi vào cái hệ thống đáng ghê tởm về đạo đức và cuối cùng sẽ bị tự đi đến chỗ diệt vong. Bằng cách khuyến khích tôi hiểu ra những ẩn ý sâu xa đó, Paula đã thúc đẩy tôi bước thêm một bước trên con đường mà cuối cùng sẽ thay đổi cả cuộc đời tôi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.