Marion này, cậu không phiền hà nếu tớ làm một vòng vâm nhập thực tế bên trong khuôn viên tòa lâu đài chứ? Lúc tớ quay về, quần áo của cậu sẽ khô ráo đâu đó cả thôi.
– Tớ cấm cậu bỏ rơi tớ trong tình cảnh… dở khóc dở cười này đấy nhé! Cô bạn ngổ ngáo cự lại.
– Chỉ loáng một cái thôi mà. Mình sẽ không đi xa đâu mà lo. Mình đã tìm thấy cả một nghĩa địa vỏ sò clovisse và mình tự hỏi phải chăng đây là một manh mối rất quí. Có khả năng là những chai lọ đựng thuốc nhuộm loại này đang được giấu kín ở quanh đâu đây cũng nên.
Alice đi một đỗi đường, với quyết tâm lùng kiếm một nơi khả dĩ có thể cất giấu được, chẳng hạn: một căn nhà nhỏ bằng gỗ hay một lán trại khuất lánh dưới các tàn cây bóng lá. Mải mê với công việc tìm kiếm, Alice vô tình không nhận thấy là mình đã lảng ra rất xa hơn hẳn dự kiến khỏi nơi mà cô đã bỏ cô bạn tóc nâu ở lại.
– Ê! Có chuyện gì xảy ra vậy kìa? Alice tự hỏi.
Một tiếng ầm ì rền vang làm rung chuyển cả đất.
Cô khựng lại, bất động để nghe ngóng. Chẳng còn gì nữa. Nhưng, đằng xa, một đám bụi trắng bốc lên.
– Lại một vụ nổ nữa! Alice thì thầm, bị kích động mạnh.
Hết sức thận trọng, cô tiến về phía đó. Chẳng mấy chốc, một hàng giậu bằng những cây nhỏ rậm lá đầy gai chắn ngang lối đi. Không có cách nào vượt qua nó mà không bị cào đến trầy da chảy máu. Alice men dọc theo hàng giậu suốt mấy phút, hy vọng tìm được một khoảng thưa để có thể băng ngang dễ dàng. Tiếng của một mô tơ khiến cô giật mình.
– Ai đó đã đột nhập vào trong khuôn viên! Cô nghĩ thầm trong bụng.
Tiếng động lại gần hơn. Với quyết tâm thấy bằng được kẻ mới đến, Alice rúc sâu vào một bờ mương rậm rạp. Nhằm đúng lúc ấy, Hector Karoja vọt xe ngang qua ngay chỗ Alice núp và dừng lại.
Alice càng rúc sâu hơn vào đám lá che chắn. Gã đàn ông không hề thấy cô. Hắn đậu xe hơi khuất sau một thân cây gồ ghề đầy những khối u rồi xuống xe và rời đi.
– Mình phải theo dõi lão mới được, cô gái quyết định mà khỏi cần đắn đo gì cả.
Hector Karoja rảo bước lẹ đến nỗi Alice không sao theo lập. Tên luật sư dường như rành rẽ từng đường ngang ngõ tắt trong rừng cây. Chẳng mấy chốc, Alice đã mất hút bóng hắn.
Cô lựa mò một lối đi hên xui và, mặt mày ủ dột, lần theo trong giây lát. Mê mải với trò cút bắt gay go ấy, cô đã quên béng cả nhỏ Bess nhát cáy lẫn cô bạn Marion xấu số.
Alice làm sao mà dè được là, nằm chết dí dưới sàn chiếc Break của Hector Karoja, Bess đang tự hỏi không biết phải làm sao để thoát khỏi tình cảnh éo le của mình. Tội nghiệp nhỏ Bess! Nó đâu có biết là Alice vừa đi ngang gần xịt ngay canh nó. Với quyết tâm báo động bằng mọi giá cho hai bà chị, cuối cùng út “bồ tượng” cũng đã lấy được can đám để xuống khỏi xe và lao vào lối đi mà tên luật sư đã đi và Alice vừa lần theo trước đó.
Nó chỉ vừa bước đi được mấy bước thì tim như muốn ngừng đập. Bọn chó lại ong óng sủa vang trở lại. Chúng đang đuổi đến gần.
– Chúa ơi! Chúng đã đánh hơi thấy mình rồi! Nó nghĩ thầm, hồn vía lên mây.
Chẳng mấy chốc, bọn chó đã xuất hiện ở đầu con đường mòn. Hoảng loạn thật sự, Bess trèo lên một cái cây, hy vọng là chúng sẽ tiếp tục chạy ùa qua. Nào ngờ! Chúng đã đứng lại… canh chừng ngay dưới gốc cây.
Đằng kia, trong cái chòi cất giữ công cụ lao động, Marion đã chán ngấy việc đợi chờ. Qua khung cửa sổ nhỏ xíu, cô thấy những áo quần giầy vớ của mình rải ra trên bờ ao ngập nắng. Hình như chúng đã khô queo cả rồi.
– Alice phen này làm hơi quá rồi đó! Cô cằn nhằn. Cô nàng đã không thèm trở lại, thì mình sẽ đích thân đi lấy về vậy!
Marỉon lại gần cửa ra vào nhè đúng lúc, bất chợt, qua khoang bỏ ngỏ, cô thấy một đứa con trai, tóc tai bù xù, từ trong một bụi rậm nhào ra. Nó có vẻ vào khoảng mười một, mười hai tuổi.
Lui trở vào trong, cô gái nín thở quan sát thằng bé. Chết cha! Nó đang tiến thẳng về phía ao. Vừa nhìn thấy những áo quần giầy vớ phơi dưới nắng, nó liền lao vút tới, hốt lấy hốt để, ôm cả vào người rồi bỏ chạy hết tốc lực.
– Ê, nhỏ! Đồ của tao mà, nhỏ! Marion gào qua khung cửa sổ nhỏ xíu.
Thằng nhỏ không nghe thấy, hoặc giả bộ như không nghe thấy gì cả.
– Thế này là… khốn khổ cho cái thân mình rồi! Cô gái cằn nhằn. Giờ thì mình có thể làm nên trò trống gì nữa: Alice đã biến mất tiêu, còn mình thì đang trong bộ đồ của bà E-va!
Tạm thời trong lúc này, Alice chả nghĩ gì đến hai bạn gái của mình cả. Con đường mòn mà cô chọn bừa phó mặc may rủi đã không dẫn tới chỗ tên luật sư, nhưng là đến ngang tầm nhìn thấy bóng lâu dài Trabert. Cô không sao cưỡng lại nổi cơn cám dỗ mon men lại gần, bởi vẻ đẹp của nó về mặt kiến trúc đã khiến cô vô cùng cảm kích.
Xây bằng những khối đá đẽo vuông vức, nó được bao phủ gần như kín đặc bởi những dây nho hoang dã. Ở các góc đều có vươn lên sừng sững những ngọn tháp cao; xen giữa các ngọn tháp cổ, là những tháp nhỏ cắt ngang đường nét hài hòa của mái nhà.
Một tiếng gào thét nghe nẫu cả ruột gan vang lên ở đằng xa.
Một ý nghĩ điên rồ xẹt ngang đầu óc Alice. Ai đó đang gặp cơn nguy khốn bên trong lâu đài. Phải chăng đó là nàng Floriane, bị cầm tù trong một ngọn tháp nào đó?
‘Ta sẽ đến đó xem sao”, Alice hạ quyết tâm với chính mình. “Nếu ai đó đang lâm nạn, thì ta phải đến cứu nguy cho người ta…”
Cô đi dọc theo các vách tường của tòa lâu đài, lòng thầm nghĩ quả là vô cùng đáng tiếc khi mà một kiệt tác về kiến trúc như thế này mà lại bị phong tỏa giữa chốn rừng thiêng nước độc đầy những bụi rậm và những thân cây không được xén tỉa gọn gàng. Một cửa ra vào thênh thang rộng mở thông sang một cạnh của tòa lâu đài cổ.
Liệu có phải chính Hector Karoja là kẻ đã mở nó ra không? Alice tự hỏi. Một khoảnh khắc ngắn, cô đã ngại ngùng không muốn vượt qua cánh cửa ấy, rồi quyết định rằng bổn phận hàng đầu của mình là, trước hết, phải giải nguy cho kẻ gặp nạn. Không chần chừ thêm nữa, cô đột nhập vào tòa nhà đồ sộ.
Alice đi theo một đãy hành lang dài hình thành những khúc uốn quanh ngoắt ngoéo. Nó dẫn vào những gian phòng rộng thênh thang, với những vách phòng phủ bằng đủ kiểu ván ốp tường, kiểu nào kiểu nấy đều cực kỳ tinh xảo, mỹ quan.
Nhiều gian trong số ấy trơ trụi trống trơn, những gian kia thì vẫn còn chứa vài mặt hàng đồ gỗ cổ xưa bằng cẩm lai. Nhưng chỉ cần một cái liếc mắt dòm sơ qua cũng đủ để Alice kết luận được rằng hầu hết mọi đồ vật đắt giá đều đã bị tẩu tán ra khỏi lâu đài.
“Thế này thì kỳ thật đấy! Cô ngẫm nghĩ. Vậy mà mình cứ ngỡ là lâu đài đã được chuyển nhượng lại theo di chúc cho Floriane với đầy đủ đồ đạc cần thiết hệt như hồi ông Trabert còn sống chứ.”
Mọi cánh cửa bên trong nội thất đều khép kín; và trong bóng tối âm u vây bủa, nhũng chiếc ghế bành hiếm hoi còn trùm kín bằng vải in hoa văn mang một dáng dấp hư hư ảo ảo. Hình bóng phản chiếu lù lù của nó trong một tấm gương soi cao vút khiến Alice giật mình vì khiếp đảm như thể cô vừa thấy xuất hiện đột ngột một bóng ma vậy. Cùng lúc ấy, tiếng gào thét não nuột lại vang lên lần nữa. Cô có cảm tưởng là nó từ phía trên cao vọng xuống.
Xả hết ga, Alice phóng lên cầu thang dẫn lên lầu một. Một màn kiểm tra chớp nhoáng những căn buồng khác nhau đã không cho phép phát hiện điều gì khả nghi cả.
“Mình chỉ còn có nước thăm dò các ngọn tháp thôi, nhưng làm cách nào lọt vào đó được chứ?” Alice tự hỏi, ngẩn ngơ không biết nghĩ sao.
Bất chấp mọi nỗ lực, Alice vẫn không sao khám phá nổi một lối vào trong đó. Cô liều mình dòm qua cửa sổ và nhận thấy là tòa lâu đài đã được xây chung quanh một hình vuông rộng lớn tạo thành một khu vườn, cũng um tùm rậm rạp và cũng bị bỏ hoang như trong khu khuôn viên vậy. Chắc hẳn, một vài trong số bao nhiêu gian phòng cỡ nhỏ hơn nằm trong những ngọn tháp nhỏ chăng. Còn những ngọn tháp lớn, lại có vẻ tách biệt, mà cửa ra vào ăn thông trực tiếp ra mảnh sân trong.
– Thuở xưa, chính trong những ngọn tháp như thế kia, là nơi giới quan quyền vua chúa cầm tù các đối thủ của họ! Alice tự nhủ.
Tiếng rên la não nùng lại vang lên lần nữa: Alice chạy ùa xuống thang và rảo qua khắp tầng trệt mong tìm ra một lối thoát cho phép đi ra mảnh vườn hình vuông.
Cánh cửa được ngụy trang trong một xó xỉnh tối thui của dãy hành lang, kín đáo đến nỗi Alice không nhận ra được nó ngay lúc mới thoạt nhìn. Cuối cùng, khi đã tìm thấy, Alice liền kéo then cài và buớc ra ngoài trời nắng.
Một màn khảo sát chớp nhoáng đã xác nhận là Alice đã không lầm trong các suy diễn của mình. Cả hai ngọn tháp đồ sộ ngọn nào cũng có những cửa ra vào. Tim đập thình thịch, cô đưa tay mở cánh cửa đầu tiên. Cái gì đang đợi sau cánh cửa ấy nhỉ?
Thoạt đầu, Alice bị vỡ mộng bởi căn phòng với trần nhà thấp chủm mà Alice vừa bước vào hoàn toàn trống trải. Nhưng có vẻ như bức vách xoay vòng mới bị thăm dò cách đây không lâu, bằng cuốc chim, chắc vậy. Mặt vách bị hư hại rất nặng.
Alice tiến về ngọn tháp kia. Cánh cửa nặng chịch của nó không bị đóng. Nội thất không giống tí nào với những gì cô vừa chứng kiến và, lần nữa, tiếng rên siết dội vang, gần hơn.
– Có lẽ kẻ kêu cứu đang ở trong này chăng? Cô gái nghĩ thầm.
Tháp trống trơn, không có la-phông che chắn. Một cửa sổ đặt mãi trên cao không đủ để chiếu sáng bên trong. Một cầu thang xoáy ốc dẫn ra một hành lang hình bán nguyệt. Alice đảo vội một cái nhìn ra quanh mình, rồi, nhanh hết cỡ có thể, cô thoăn thoắt lên những nấc thang bằng sắt và thấy mình đứng trước một cánh cửa nhỏ. Một cách thận trọng, cô mở hé nó ra và ghé mắt nhìn vào.
Có kẻ nào ở sau cánh cửa không?
Khi mắt đã quen với bóng tối tràn ngập từ ngưỡng cửa trở vào, Alice chẳng thấy gì trong gian phòng nhỏ cũng như trên con đường mà cô đã lọt vào được qua một cánh cửa khác. Thất vọng, cô nhoài người ngó xuống từ trên bao lơn tháp canh.
“Tốn hao bao nhiêu công sức chỉ để có một chỗ đứng trên khán đài cao nghệu này! Cô khẽ cằn nhằn một mình, ít ra, điều này cũng cho mình một quan niệm đúng đắn nhất về toàn cảnh hơn hẳn bức tranh mà mình đã chứng kiến lúc bay là là bên trên lâu đài. Tuy vậy, tiếng kêu cứu ấy đâu phải chuyện chiêm bao…”
Bất thần, một bóng dáng nhỏ nhắn đang co giò chạy ở đằng xa lôi kéo sự chú ý của Alice. Cô cố nhìn xem đó là ai.
– Chết rồi! Alice kêu lên, cảm thấy bị lương tâm cắn rứt dữ dội.
Phía bên kia vách tường bao quanh khuôn viên đất, một thằng bé trai đang băng qua bờ sông để đến một chiếc thuyền nan. Nó ôm khư khư trên tay những áo quần của Marion!