Bí Mật Sau Bức Tường Đổ

CHƯƠNG 6 – BỒNG BỀNH TRÊN SÔNG NƯỚC



Alice hứa với bà Fenimore là sẽ gắng hết sức để trả lại cho bà người chị gái nổi danh. Nhưng trong thâm tâm, cô nghĩ khó mà đạt được kết quả khi cái ngày định mệnh đã quá cận kề.
– Cô có một tấm hình chụp đàng hoàng nào của chị cô không ạ? Alice hỏi.
– Có cả xấp nữa là đằng khác. Tôi để cả trong ngăn kéo bàn này nè.
Có cả thảy sáu tấm, chụp hồi nữ diễn viên múa đang ở trên đỉnh cao của nghệ thuật múa cổ điển. Nhiều tấm có ghi những lời đề tặng. Alice ghi nhận những đường nét hài hòa, đôi mắt đen láy, sống mũi dọc dừa, cái cằm cương nghị.
– Chị ấy chắc đã thay đổi rất nhiều!
– Chị gái của cô đẹp quá chứ! Alice tấm tắc khen. Bé Roseline cũng khá giống dì nó, nhỉ?
– Ừ, nó cũng có tính linh hoạt như chị ấy; chưa gì đã ra dáng một nghệ sĩ mầm non rồi đó. Biết đâu chừng mai mốt…
Ánh mắt của người bệnh chợt tan loãng vào cõi xa xôi mơ màng; Alice cứ ngỡ là bà ta lại vừa cảm thấy khó ở. Nhưng bà Fenimore đã định thần lại. Tuy nhiên, vì sợ rằng cuộc nói chuyện này sẽ gây chấn động cho thiếu phụ trẻ, trung úy Masters liền tuyên bố là đã tới lúc kiếu từ.
– Em xin cô, đừng tự giày vò mình nữa; Alice nói trong lúc chào từ biệt bà Fenimore. Ngay ngày hôm nay, em sẽ bắt tay vào việc điều tra vụ của cô.
Vừa ra đến ngoài đường phố, trung úy Masters liền đề nghị chở cô bạn đồng hành của mình về tận nhà. Alice cám ơn chị, lấy cớ rằng một cuộc tản bộ dạo chơi sẽ làm đầu óc mình thêm minh mẫn. Nữ phụ tá cảnh sát chỉ còn biết chúc cô may mắn.
– Em đừng ngại gọi tôi mỗi khi có chuyện gì cần kíp, nhe? Nói rồi, chị chia tay với Alice.
Alice ung dung bước đi, vì chả thấy có gì phải gấp gáp cả. Bọn học trò đang ra về sau giờ tan học. Cô thoáng thấy bóng bé Roseline đang chơi với một đứa con trai lớn hơn trên một bãi đất trống. Chúng chơi trò ném một trái banh cho một chú chó gầy ốm tong teo để chú ta dùng mõm bắt lấy và chạy về đem trả lại tận tay hai dứa.
– Lạ thật, Alice tự nhủ. Thằng nhóc này làm mình nhớ đến cái gì ấy. Mình đã có lần gặp nó rồi, nhưng ở đâu nhỉ?
Bỗng nhiên, vô cớ nổi sùng, thằng nhóc vung một cây gậy đánh túi bụi con chó nhỏ. Bé Roseline hoảng hồn la toáng lên.
– Đồ chó dại! Thằng nhóc gào rống. Cho mày chừa cái thói cắn bậy, làm thủng lỗ chỗ trái banh của tao!
Alice đứng khựng lại.
– Dừng tay lại ngay! Cô ra lệnh cho thằng nhóc vũ phu. – Em không thấy hổ thẹn vì đã xử tệ đến thế với một con chó nhỏ hay sao? Nó đâu có phá hư trái banh của em. Nó chỉ đùa giỡn với trái banh thôi mà.
Thằng nhóc, với quần áo lấm bẩn và rách rưới, ngước mặt nhìn Alice bằng đôi mắt lì lợm, xấc láo.
– Bộ con chó này là của chị hay sao chứ? Nó hỏi với vẻ ngạo mạn.
– Không, sao vậy?
– Sao với trăng gì. Nếu vậy thì tôi có uýnh nó cũng đâu có mắc mớ gì chị! Tôi thích phang nó thì tôi cứ phang đấy. Chị lấy quyền gì mà xía vào chuyện của tôi?
Alice sắp sửa dạy cho thằng nhỏ một bài học xử thế, nhưng con chó đã giúp cô khỏi phải quàng vào cổ cái “ách giữa đằng” ấy: bất ngờ nhả trái banh xuống đất, nó co giò bỏ chạy. Thằng nhóc lượm lại “tài sản” của mình, ném về Alice một cái nhìn mất cảm tình, rồi cũng “biến” luôn.
Tiến đến nắm bàn tay Roseline với vẻ thân thiện, Alice dắt bé theo mình. Lựa lời nói khéo, cô khuyên con bé nên chọn một bạn chơi khác thì hơn.
– Jeddy là bạn lối xóm của em, con bé vừa đáp vừa vui vẻ nhảy tung tăng bên cô bạn lớn mới quen của mình. Em không ưa bạn ấy mỗi khi bạn ấy làm dữ như hồi nãy, nhưng thường thì bạn ấy rất dễ thương, lúc nào bạn ấy cũng có những ý kiến tếu hết sức.
– Sao em không về nhà liền ngay khi ra khỏi trường? Cô gái hỏi. Mẹ em đang chờ em đấy.
Roseline cúi gầm mặt xuống.
– Ở nhà mẹ con em chả có món gì ngon để ăn cả.
Lúc ấy hai chị em đi ngang qua trước một cửa hàng, Alice bước vào, mua gạo, lạp xưởng, bơ, một chai sữa tươi và bảo con bé hãy mang tất cả về nhà nó.
– Ôi! Cám ơn chị, con bé mặt mày tươi rói nói lí nhí. – Và… em xin hứa sẽ nghĩ chơi với Jeddy luôn, nếu điều ấy làm chị phật lòng.
– Em quả là một bé ngoan.
– Em xin chị, hãy tìm lại dì em cho em!
– Để chị thử xem sao, Alice hứa.
Và Alice rẽ theo chiều ngược lại với hướng đi của con bé để về nhà. Nhưng thỉnh thoảng cả hai vẫn ngoái cổ nhìn lại và trao nhau những cử chỉ hữu nghị.
Chỗ này rất gần căn “nhà thuyền” của ông Ba Còn, Alice chợt nghĩ. “Hay mình thử ghé thăm ông ấy xem sao? Mình muốn biết ông ấy đã tìm được tên khốn đã làm Bess bị ngã xuống nước hay chưa”.
Alice lao vào một con phố cắt ngang và, mấy phút sau đã trông thấy chiếc du thuyền cổ xưa. Ông già đang ngồi trên bờ, cặm cụi sửa chữa chiếc ca nô của mình.
– Chào cháu, ông ta lên tiếng. Gặp cháu, ông rất mừng, tiếc rằng ông chả có tin vui nào cho cháu cả.
– Về vụ chiếc ca nô…
– Ông đã kiếm cùng khắp hết. Không hề có vết trầy sướt nào trên một chiếc ca nô sơn màu xanh lơ và màn trắng cả. Nó không còn neo đậu quanh quất trong vùng này nữa.
– Thế còn tại nhánh rẽ của khúc sông này thì sao ạ? Alice hỏi tới.
Ông già thú thực là đã không đẩy xa việc thám thính của mình đến tận đó.
– Ông có quá nhiều việc phải làm, ông ta giải thích. Ông sẽ tạt ngang qua đó chiều nay. Ông không còn đủ sò clovisse để bán và ở miệt đó chắc thể nào cũng có loại sò này. Cháu có muốn đi cùng ông không? Dọc đường, ông sẽ chỉ cho cháu thấy cơ sở sản xuất Trabert, nếu cháu có quan tâm ít nhiều tới địa điểm ấy.
Cơ may chợt đến bất ngờ; Alice chẳng dại gì bỏ lỡ cơ hội ngàn năm một thuở ấy. Không sợ cái “huông” do chuyện xui xẻo còn rất mới mẻ, cô vội vã nhận lời.
– Ông sẽ có mặt ở đó quãng mấy giờ ạ? Con sẽ đến cùng với một người bạn gái.
– Khoảng ba giờ chiều, người thủy thủ già đáp.
Alice vội vàng quay trở về nhà và, sau khi dùng một bữa ăn trưa đơn giản, cô gọi điện ngay cho Marion. Lúc ba giờ đúng, đôi bạn đã gặp lại ông Ba Còn tại bờ sông.
– Đừng tưởng bở là hai cô không có việc gì phải làm dấy nhe, ông vừa nói vừa cười rất tự nhiên thoải mái.
Và, thu gom các thiết bị đánh bắt, ông đề nghị hai cô gái giúp mình đem chất cả lên ca nô.
Lát sau, họ lướt trên mặt nước phẳng lặng của dòng sông Muskoka. Người thủy thủ già lái tàu rất thành thạo và có những cơ bắp vẫn còn rất rắn chắc.
Chẳng mấy chốc, chiếc ca nô đã lao vào một nhánh sông con. Không một tiếng động, ngoại trừ lác đác đó đây tiếng kêu chiêm chiếp của một chú chim lạc loài.
– Chúng ta đang lại gần cơ sở sản xuất cổ xưa – người thủy thủ già loan báo sau khi đã chèo ngược dòng trên một cự ly bốn trăm mét.
Ông vừa tìm ra được một vỉa sò clovisse trên một thềm cát không mấy sâu. Yêu cầu hai cô gái cầm ngang tầm mạn thuyền cái giỏ đan bằng mây của mình và, lội bì bõm trong bùn nhão lẫn với cát sền sệt, ông bắt tay vào việc. Đánh bắt được tới đâu, ông liền quăng ngay lũ sò lên mạn thuyền đến đấy. Hai cô gái chụp bắt những con nào không rơi trúng vào giỏ. Vừa làm việc, người thủy thủ già vừa hát vang những câu hát của giới thủy thủ.
– Giỏ đầy rồi, Alice loan báo sau mười lăm phút lao động luôn tay.
Marion vừa đón bắt con sò cuối cùng, và giữ lại trong tay xem xét kỹ hơn. Con vật thân mềm này có vẻ hơi khác với những con đồng loại của nó. Bỗng chốc, cố giương mắt ra nhìn một vết hoen màu tím in đậm trên các ngón tay. Cúi đầu nhìn xuống thấp hơn, Marion thấy vạt áo của mình có phủ đầy những đốm nhỏ cùng màu.
– Lạy Chúa tôi! Cô gái tóc nâu kêu lên, đau lòng xót ruột. Cái gì làm mình bị dính tèm lem tèm luốc thế này dây?
Nhễu nhão nước, ông già vung chân bước qua mạn thuyền. Ông có vẻ sửng sốt khi thấy hai bàn tay của Marion.
– Màu tím này là một loại thuốc nhuộm đấy, ông giải thích. Nó được tiết ra từ con sò mà cô cầm trên tay đấy.
– Ủa! Nghêu sò nào cũng thế ư? Alice ngạc nhiên.
– Ừ.
Ông nói rõ cho hai chị em biết rằng không phải là do vỏ sò mà chính lớp thịt mềm của con vật sản sinh ra loại thuốc nhuộm ấy.
– Đây thật sự là thuốc nhuộm sao? Alice hỏi, cực kỳ cảm kích.
– Đúng, và đó là loại thuốc nhuộm tốt nhất mà ta có thể kiếm được. Từ thời cổ đại, người ta đã biết dùng sò để bào chế ra thuốc nhuộm. Nhưng thịt sò cũng ăn được luôn.
– Dù sao cháu cũng không phải là người chịu ăn thứ thịt chết toi này, Marion tuyên bố với vẻ mặt nhăn nhó.
Cô nàng đã cố hết sức cào rửa những vết in trên hai bàn tay mà không sao làm sạch được.
– Bộ khó chiết xuất loại thuốc nhuộm này lắm hay sao hả ông? Alice lại hỏi.
– Chuyện đó thì ai làm mà chả được. Ta chỉ cần đập bể lớp vỏ và moi phần thịt nhỏ xíu ra. Rồi ngâm tất cả vào nước mặn trong vài ngày, sau đó đem dung dịch trên đun sôi trong một cái nồi bằng gang cho đến khi nước đổi thành màu xanh nhờ nhờ như nước luộc rau vậy.
– Màu xanh lá cây hả ông?
– Chứ sao! Chất lỏng có màu lá cây, nhưng khi ta nhúng vải vào đó, vớt ra thì lại được màu đỏ tía, như hai bàn tay của cô đây vậy.
– Cháu thích chẳng thà mua những áo quần đã nhuộm sẵn còn hơn, Marion tuyên bố. Người ta đâu có dùng loài sò đã đánh bắt được ở đây để làm việc đó, phải không ông?
– Không, ít ra là theo chỗ tôi biết, người thủy thủ già trả lời. Không dễ gì kiếm nổi đủ lượng sò cần thiết cho công nghệ chế biến này. Nhưng hình như ông John lúc sinh tiền đã ra sức tìm kiếm một thứ thuốc nhuộm và đã tiến hành những cuộc thí nghiệm ngay tại lâu đài của dòng họ Trabert thì phải.
Ông Ba Còn lại cầm lấy cặp mái chèo của mình. Tại ngã ba của dòng sông, một ngôi nhà xưởng đồ sộ xây theo hình vuông đứng sừng sững hơi lùi sâu vào bờ cát ngổn ngang những vỏ sò vỏ ngao, trong số đó hầu hết là vỏ sò clovisse.
– Đây là cơ sở sản xuất nút áo, người thủy thủ thuyết minh, như một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp. Nó còn hoang tàn đổ nát hơn cả lần chót mà tôi thấy nó nữa. Tệ thậy đấy!
Alice đảo một cái nhìn bao quát cả tòa nhà rộng lớn bị bỏ bê đến hoang phế. Nho dại phủ chụp lên mái một lớp dầy cộm cả mấy tấc và hầu như toàn bộ cửa kính lá sách đều được kéo xuống kín như bưng.
Cô gái không mong gì thấy bóng một kẻ nào đó tại chốn hoang vu này, thế nên cô đã không khỏi ngạc nhiên đến sững người khi thoáng thấy hai bóng đen gần cổng vào xưởng máy! Hai gã đàn ông đứng tần ngần trong giây lát tại ngưỡng cửa ra vào, rồi biến mất. Trước khi Alice kịp ra dấu cho người thủy thủ già để ý đến điều ấy, ông đã buột miệng than lớn một tiếng, đồng thời chỉ tay về vật gì đó khuất sau những bụi cây.
– Một cái đầu! Và mũi tàu đã bị tét hẳn ra!
Mũi tàu đã được kéo lên cồn cát. Marion và Alice nhận ra ngay chiếc ca nô sơn hai màu xanh lơ và trắng đã đụng nhằm họ.
– Ông Ba Còn, ta hãy dừng lại ở chỗ này đi, Alice bảo.
– Đây là con tàu mà hai cô đang khổ công tìm kiếm hả? Người thủy thủ già hỏi, tay nhấc cao mấy cái bơi chèo.
Không trả lời, Alice nhảy xuống khỏi xuồng và lội bì bõm trong nước ngập tới đầu gối, tiến thẳng vào bờ. Không muốn ở lạì vị trí hậu vệ, Marion lập tức theo bén gót bạn.
– Ơ kìa! Người thủy thủ già la toáng lên, hai cô đi đâu mà vội vàng vậy?
Hiểu rằng hành động hấp tấp như thế là thiếu thận trọng, Alice liền đi lùi lại mấy bước và giải thích cho người thủy thủ già là mình vừa bắt gặp hai người đàn ông đột nhập vào xưởng máy. Họ là những chủ sở hữu của chiếc ca nô, chắc vậy.
– Ái chà chà! Người thủy thủ khẽ nói. Tôi dám cá với các cô nguyên một thúng đầy sò clovisse là chúng không có quyền gì lảng vảng ở nơi đây cả.
– Con sẽ đến nói chụyện với chúng. Bác Ba Còn ạ, bác vui lòng đứng canh bên chiếc ca nô này, được không ạ? Nếu hai gã đàn ông ấy đi ngang qua gần bác, bác hãy cố cầm chân chúng lại cho tới lúc hai đứa con quay trở lại nhe bác?
Vai trò bị động này không được người thủy thủ già ủng hộ bao nhiêu, nhưng lúc ông tính phản đối thì hai cô gái đã đi xa mất rồi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.